II. Kattigara – Marinus và Ptolemy
Tuy địa danh Kattigara không phải do Ptolemy phát hiện, nhưng cái tên đó lại gắn liền với Ptolemy và tất cả những nghi vấn mà ông đã để lại cho đời sau trong chính các ghi chú của công trình Địa lý học của mình. Một trong những ghi chú được tất cả những người tìm kiếm Kattigara phân tích, đó là việc ông than phiền Marinus không ghi rõ khoảng cách hải trình từ Bán đảo Vàng, ngày nay được thừa nhận là Bán đảo Malay đến Kattigara.
Trong công trình của mình, Marinus chỉ ghi một cách mơ hồ là Alexandros đã viết rằng vùng đất đó ở bên kia vùng đất quay về phía nam, và phải bơi dọc theo đó đến Zabai mất 20 ngày, sau đó từ Zabai bơi tiếp một hồi về phương nam rồi rẽ trái đi tới Kattigara trong “vài ngày”. Theo Ptolemy thì “Marinus đã phóng đại khoảng cách đó bằng cách nói “vài ngày” có nghĩa là nhiều ngày, lại còn nói là vì vô số ngày nên không thể hiện bằng con số cụ thể được. Điều đó thật nực cười: làm gì có chuyện không tính được cụ thể số ngày, cho dù có đi vòng quanh cả trái đất đi nữa?” Hoặc có điều gì đó đã cản trở Alexandros không nói “nhiều ngày”, mà chỉ nói “vài ngày”, hệt như Marinus nói: “Dioskoros cho biết hải trình từ Rhapta đến Mũi Prason mất “nhiều ngày” (Ptolemy, 2000: 76).
Như vậy với ghi chú trên chúng ta biết chắc chắn rằng cái tên Kattigara không phải là do Ptolemy tìm kiếm được thông tin trực tiếp và đưa vào công trình Địa lý học của ông, mà do ông sử dụng lại từ công trình của Marinus. Trong thực tế thì nếu không có Địa lý học của Ptolemy, người ta sẽ không biết gì nhiều về Marinus. Có thể nói nhờ có Ptolemy thì người đời sau mới biết được vị thế và đóng góp to lớn của Marinus cho Địa lý học thế giới. Nhưng chính bản thân Marinus cũng để lại cho Ptolemy những vấn đề mà ông không giải quyết được, chẳng hạn ông không biết Marinus nói về hải trình đến Kattigara của Alexandros nào, ở thời nào. Liệu người này có trực tiếp đến Kattigara hay ông ta phái người đi đến đó. Khi tính khoảng cách từ Hy Lạp đến Kattigara ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ bằng cách xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ. Bằng cách xác định vị trí của Sera, Marinus đã sử dụng tuyến hải hành của các thương nhân hoặc nhà hải hành nào đó đã đến đó và Ptolemy đã phê phán việc xác định đó. “Vì ông nói với chúng ta rằng các khoảng cách mà một kẻ tên Maes nào đó có họ Titianus, một người Macedonian, và cũng là một thương nhân giống như cha ông ấy; đâu phải tự ông ta thực hiện cuộc hải hành mà là cử người tới buôn bán với người Seres”. Nhưng rất may là sau này người ta đã tìm được tung tích của nguồn thông tin thứ hai mà Marinus đã sử dụng cho việc tính toán đoạn đường đến Kattigara. Nhân vật Maes Titanius ấy chính là một nhà lữ hành đã từng đi theo con đường tơ lụa trên bộ từ Địa Trung Hải tới phương Đông vào cuối thế kỷ I TCN hoặc đầu thế kỷ I SCN; nhờ có lời phàn nàn của Ptolemy mà thân phận của Maes Titanius đã được làm sáng tỏ. (Cary M. 1956: 130-134).
Trong Ghi chú II của tác phẩm Địa lý, Ptolemy cho rằng: Phần có người ở của trái đất chúng ta còn có Vùng đất Chưa biết (TerraIncognita) ở phương Đông bao bọc, có các dân tộc ở cực đông của Đại Á cư trú, là người Sinae và các dân tộc Serice; tương tự như vậy là Vùng đất Chưa biết ở phía Nam khép kín biển Ấn Độ và ôm lấy Ethiopia đến nam Libya, được gọi là đất Agisymba; vòng về phía tây là Vùng đất Chưa biết bao quanh vịnh Ethiopic của Libya, và sau đó bao quanh Đại Tây dương nằm ở cực tây của Libya và châu Âu; và đại dương này bao gồm phần phía bắc với các đảo Britanic và phần cực bắc châu Âu có các tên gọi Duecalydonian và Sarmatic; tiếp đến một Vùng đất Chưa biết trải dọc các phần cực bắc của Đại Á, đó là Sarmatia, Scythia, và Serice…”. Và vùng đất này cũng bọc kín biển Hyrcanian còn được gọi là Caspian. Tương tự như vậy các vịnh Ả Rập, vịnh Ba Tư, vịnh Hằng Hà và Vịnh Lớn ở phương Đông cũng được đất liền bọc kín. Vì vậy chúng ta thấy có ba đại lục châu Á tiếp nối với Libya bởi eo đất Ả Rập tách biển (Địa Trung Hải) của chúng ta khỏi vịnh Ả Rập, và bởi Vùng đất Chưa biết khép kín biển Ấn Độ…”. Cực đông của Vùng đất Chưa biết giới hạn bởi kinh tuyến chạy qua thủ đô của Sinae, ở một khoảng cách là 1190 tính từ Alexandria, tương đương với 8 giờ tính đến đường xích đạo…(Tập sách vii, chương 5)… (Institute on the Far East Works 1915).
Trong cuốn sách thứ nhất của mình Ptolemy nói về Marinus như là một tác giả Hy Lạp lớn nhất về phương diện địa lý học. Có rất nhiều bản in bổ sung các biểu địa lý của ông, nhưng các phán đoán của ông cần phải được chỉnh sửa và ông đã đưa ra rất nhiều con số tính toán về các khoảng cách, chiều dài, chiều rộng của thế giới có con người sinh sống. Về vĩ độ, Ptolemy đã minh họa bằng cách phê phán vị trí do Marinus xác định dựa vào những chuyến hải hành nào đó đến vùng cực nam Ethiopia được gọi là Agisymba. Việc tính toán khoảng cách đại quát từ các tuyến đường đó có lẽ đã đặt vùng này vào khoảng cách 24.680 stades kể từ đường xích đạo về phía nam, hoặc như Ptolemy nói là thuộc về vùng Nam cực băng giá. Tổng cộng, Marinus đã cắt giảm con số đó xuống còn 12.000 stades để đưa nó lại gần với vùng nhiệt đới phía nam, và Ptolemy bằng cách suy đoán là thích hợp với một số loại động vật nhất định nên đã giảm khoảng cách đó xuống còn 8000 stades. Ông cho rằng Marinus đã phóng đại kinh độ khi xác định khoảng cách giữa các đảo Fortunes ở phía Tây đến các vùng cực đông thuộc Sera của Sinae và đến Kattigara không hơn 12 giờ. (Institute on the Far East Works 1915).
Một trong những vấn đề làm đau đầu những người tìm kiếm Kattigara là việc Ptolemy đã cố gắng xác định vị trí kinh tuyến chạy theo đường biển từ Mũi Kory ở Nam Ấn Độ đến Kattigara, được giả định là một cảng thị của Sinae, và nó thuộc vào vị trí 1770 đông. Những băn khoăn chủ yếu gắn liền với kinh độ này liên quan đến đoạn mô tả đô thị đó “ở mãi trong hẽm núi, cuối vùng đồng bằng” (chương 13-14 tập Địa lý của Ptolemy). Nhưng đoạn đó lại nói về tuyến đường trên đất liền đi qua Tháp đá, và bên kia là trạm nghỉ cho các thương nhân đi đến vùng đất của người Seres (bk.vi, chương 13). Richthofen cho rằng trạm này thuộc vùng Pamir (Richthofen, von Ferdinand 1877-1912.). Tuy nhiên theo Stein thì ngày nay khó lòng mà xác định được vị trí của “Tháp đá” nữa, nhưng nơi nghỉ mà Maes Tititanus nói là phía đông “Tháp đá” và nằm trên con đường đi Sera thì chắc chắn vẫn còn đó. Theo Richthofen thì vị trí này phải gần với vùng phân thủy giao nhau với tuyến đường trên, vì Ptolemy đã xác định vị trí đó trên tuyến Imaus, chắc chắn là phù hợp với vùng Pamir ở phương đông. (Stein M.A. 1907: 54-5). Tháp đá của Ptolemy chắc chắn không thể bị lẫn lộn với Tash Kurghan. Nhưng theo Ptolemy, có lẽ hợp lý nhất là xem xét kỹ chi tiết mà Alexandros đã mô tả vùng đất bên kia Vùng đất vàng Chersonese nằm hướng về phía nam, và sau khi đi thuyền trong vòng 20 ngày thì đến thành phố Zabai, sau đó bơi vài ngày nữa theo hướng nam, rồi rẽ trái sẽ đến Kattigara. Điều đó có nghĩa là Ptolemy vẫn nghi ngờ tính xác thực của nguồn thông tin do Maes Tititanus cung cấp trên tuyến đường bộ mà sau này được Richthofen gọi là “Con đường tơ lụa”.
Trong chương 17 của tập Địa lý, Ptolemy nói về những người đã thực hiện các chuyến hải hành đến Ấn Độ và đã từng sống lâu ở đó: Từ những người này chúng ta có những thông tin chính xác hơn về Ấn Độ cũng như về những đất nước xa hơn ở Vùng đất vàng, cho đến tận Kattigara. “Tất cả mọi người đều nhất trí rằng để đến được các vùng ấy, thì phải đi về phương Đông, còn để quay lại thì phải đi về phía Tây, và như thế thì không thể ấn định trước một khoảng thời gian chắc chắn trong bối cảnh đó”. “Họ cũng đồng ý rằng đất nước của người Seres có thủ phủ nằm về phía bắc vùng đất của người Sinae, còn đi tiếp về phía đông thì là Vùng đất Chưa biết, với rất nhiều đầm lầy mọc đầy loại lau sậy lớn, dày đặc đến mức người thổ dân khi đi qua đó cũng phải có cách riêng, vì ở đó không có đường đi.” (Institute on the Far East Works 1915).
Theo nhà Đông phương học kỳ cựu H. G.Rawlinson thì: Các công trình của Ptolemy về địa lý của giai đoạn này chủ yếu dựa vào các thông tin do Marinus xứ Tyre thu thập, đã thể hiện một sự hiểu biết sâu sắc hơn về vùng ven biển châu Á so với các bậc tiền bối của họ. Trong khi đó tác giả của sách Periplus biết không nhiều, hoặc thậm chí không biết gì về vùng biển bên kia sông Hằng. Ptolemy đã phải đương đầu với một vấn đề lớn có lẽ vì ông đã phải phụ thuộc vào nguồn thông tin của “các nhà hàng hải mù chữ với các thông tin mù mờ và lẫn lộn”. Ông đã nhầm Java với Sumatra; ông không nói gì về eo Malacca và ông nghĩ rằng bờ biển Trung Quốc đáng lẽ là ở hướng bắc thì lại quanh về phía nam để tiếp giáp với vùng ven biển Châu Phi. Thông tin mà ông thu lượm từ “các thủy thủ ít học, không đánh vần được đúng tên gọi các cảng biển mà họ cập bến”. Trong đầu họ chỉ có con đường từ cảng này đến cảng khác và thường là lẫn lộn; còn về khoảng cách thì như bản thân ông thú nhận là ông phải dựa vào phép tính trung bình của con tàu đi trong một ngày để tính toán, cùng với phép tính trung bình là các suy luận để giải quyết những bất thường của các vùng biển ông không có thông tin chắc chắn hoặc những nhân tố nhiễu loạn khác. Kết quả ấy đưa đến những sai lạc ghê gớm dù chỉ là về vùng ven biển Ấn Độ. Ptolemy dường như hoàn toàn không biết gì về sự thật là tiểu lục địa này xuôi theo hướng nam. Từ mũi Kory đến vùng cửa sông Hằng có hàng loạt đô thị, trong đó có một đô thị không được nêu tên, nằm giữa Maesolia và Palura. Maesolia hay Masalia trong sách Periplus có lẽ là quận Masulipatam và Palura nơi bắt đầu của Vịnh Hằng Hà nằm thiên về phía bắc một chút. Chính từ vị trí này mà các con tàu bắt đầu cuộc hải hành về phương Đông. Qua khỏi vịnh Bengal, họ đến Sada thuộc vùng Đất Bạc, và từ Sada đến Temala hoặc Tamala gần mũi Negrais, nằm ở đầu vịnh Thái Lan (Vịnh Lớn). Sau đó đi tiếp đến đến một cảng gọi là Zaba. Yule cho đó là Champa và tìm kiếm nó ở bờ phía tây Campuchia và có lẽ gần sông Kampot hoặc sông Kang Kao. Hải trình đó mất 20 ngày; và từ Zabai đến Kattigara có cùng một khoảng cách tương tự như vậy. Tuy nhiên về chặng đường này Ptolemy thừa nhận là ông cũng rất nghi ngờ vì những thông tin mà Marinus có được từ một người nào đó có tên là Alexanderos. (RawlinsonH. G. 1916: 131, 132).
Tiếp tục con đường ven biển từ Palura, Ptolemy mô tả cửa sông Hằng. Ông là một tác giả phương Tây đầu tiên đề cập đến vùng đồng bằng sông Hằng. Ngay cả tác giả sách Periplus cũng không nói gì về điều này, còn Strabo và toàn bộ các tác giả trước đó đều im lặng, nếu không kể đến “các tài liệu tham khảo đáng ngờ” của Vergil về “7 ngọn nguồn êm đềm” của dòng sông đó. Ptolemy gán cho sông Hằng có năm cửa. Từ sông Hằng ông mô tả Ấn Độ xuyên Hằng Hà, trước hết là vùng đất Airrhadii; tiếp đó là Ấn Độ từ sông Hằng đến Tokosanna hoặc sông Arakan; sau đó ông dẫn ta đến Đất Bạc, Arakan và Pegu; rồi đến Besynga hoặc Bassein; và cuối cùng đến vùng Đất Vàng, Bán đảo Malay. Cái tên đó được dịch từ tiếng Phạn Suvarnabhumi để chỉ vùng tam giác châu Irrawady, mà các biên niên sử Mianma gọi tên tương tự vùng ranh giới của họ là Sonaparanta. Tiếp đến là Mũi Lớn Campuchia, và Vịnh Lớn Thái Lan. Ở phía Tây của vịnh này có cảng Zabai đã được các đoàn hải hành nói đến khi bơi tới Kattigara. Cư dân ở đó được mô tả là “lễ phép, đầu tóc bờm xờm, mũi tẹt và hay ngồi xổm” – một đoạn mô tả khái quát khá rành mạch. (RawlinsonH. G. 1916: 133-4).
Nhưng dù có to tiếng phê phán các sai lầm của Ptolemy thời cổ đại thì rồi cuối cùng Rawlinson thời hiện đại cũng vướng không ít mơ hồ khi kết luận rằng: “Kattigara có lẽ là Kian-chi (có thể Rawlinson viết sai từ Kau Chi) ở Bắc Kỳ, Việt Nam hiện nay, vì các biên niên sử Trung Quôc nói về sứ bộ La Mã đến Trung Quốc đã ghé vào đó mua bán rất nhiều. Còn thủ đô của Trung Quốc có lẽ là Nam Kinh; dân Sinae ở Đông Nam Trung Quốc mà Ptolemy nói đến chính là những thương nhân buôn bán với Đông Ấn Độ. Người Seres hoặc Người Dâu tằm cư trú ở phía tây hoặc phía bắc của Sinae, và tiếp xúc với phương Tây qua con đường Pamirs”. (RawlinsonH. G. 1916: 136).
Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp