Sự kiện này khiến người ta nhớ lại cách đây không lâu, trong chuyến công du Ấn Độ năm 2011, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từng đưa ra thông điệp mạnh mẽ về việc Nhà nước Việt Nam cam kết bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các đối tác nước ngoài hợp tác làm ăn với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác dầu khí trên Biển Đông.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khi đó đã khẳng định rằng các dự án hợp tác khai thác dầu khí trên Biển Đông của Việt Nam với các đối tác nước ngoài đều nằm trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tế. Hai lô mà Gazprom vừa đạt được thỏa thuận hợp tác với Việt Nam là nơi có các mỏ khí Hải Thạch và Mộc Tinh, nằm trong bồn trũng Nam Côn Sơn giữa quần đảo Trường Sa và bờ biển Việt Nam. Từ năm 2007, cũng chính tại đây Trung Quốc đã gây áp lực buộc Tập đoàn BP (British Petroleum) phải rút lui trong dự án hợp tác đầu tư với Việt Nam trị giá 2 tỷ USD vào năm 2009. Trong nhiều năm qua, Trung Quốc đã không ít lần gây áp lực với các công ty nước ngoài có hợp tác làm ăn với Việt Nam trên Biển Đông với lý do họ có “chủ quyền không thể tranh cãi” trên hầu như toàn bộ Biển Đông được bao chiếm bởi “đường lưỡi bò” phi lý và phi khoa học. Chẳng hạn như, hồi tháng 7/2008 Trung Quốc cũng đã gây sức ép buộc Tập đoàn ExxonMobil của Hoa Kỳ ngừng dự án hợp tác với Việt Nam tại các lô trên bãi Tư Chính, thuộc thềm lục địa của Việt Nam. Thế nhưng ExxonMobil tự tin vào các cam kết của Nhà nước Việt Nam và sự tuân thủ pháp luật quốc tế của hoạt động hợp tác với Việt Nam trên vùng biển này nên vẫn tiếp tục dự án. Cho đến tháng 10 năm ngoái, công ty này đã thông báo tin vui về việc tìm thấy dầu tại khu vực dự án hợp tác với Việt Nam.
Mấy ngày trước khi sự kiện Gazprom đạt được thoả thuận hợp tác với Việt Nam tại các lô mà BP đã từng rút lui diễn ra, Trung Quốc cũng đưa ra một thông điệp cảnh báo các công ty Ấn Độ sẽ phải “trả giá” vì đã hợp tác với Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng biển mà nước này tuyên bố “có chủ quyền không thể tranh cãi”. Ngay lập tức, Phó thủ tướng Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, trong chuyến thăm Ấn Độ hồi cuối tháng 3-2012, đã tuyên bố khu vực mà Việt Nam hợp tác với Ấn Độ không hề có tranh chấp về chủ quyền và lãnh thổ vì khu vực này hoàn toàn nằm trong vùng 200 hải lý, thuộc chủ quyền của Việt Nam theo quy định của luật pháp quốc tế. Việc Trung Quốc đơn phương đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” bao chiếm hầu như toàn bộ Biển Đông là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của nhiều quốc gia trong khu vực. Yêu sách “đường lưỡi bò” không có cơ sở pháp lý quốc tế, cũng không được sự thừa nhận của bất cứ tổ chức quốc tế hay bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Do vậy yêu sách phi lý và phi khoa học này không thể trở thành căn cứ, làm cơ sở pháp luật để nước này phản đối các hoạt động hợp pháp của các quốc gia khác trong khu vực.
Tham chiếu các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia thì ai cũng thấy rằng yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn trái với các quy định của Công ước. Không một quy định nào của Công ước có thể biện minh cho yêu sách “đường lưỡi bò”. Đơn giản bởi vì vùng biển mà “đường lưỡi bò” ngoạm vào không thể nào là lãnh hải hoặc vùng đặc quyền kinh tế hoặc là thềm lục địa của Trung Quốc. Đó chính là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei. Yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý nói trên đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippines đã lần lượt gửi công hàm đến Tổng Thư ký Liên hợp quốc bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Việc nước này mới đây vẫn tiếp tục đưa ra yêu sách phi lý nói trên, tổ chức các cơ quan nghiên cứu đo đạc bản đồ và tiến hành các việc làm trên thực địa nhằm đơn phương áp đặt yêu sách này càng làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng đồng thế giới. Không chỉ các quốc gia liên quan tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều quốc gia khác cũng đã bày tỏ sự phản đối yêu sách đầy phi lý này.
Ngày càng nhiều công ty dầu khí của hàng chục quốc gia trên thế giới sẵn sàng hợp tác với Việt Nam và ngày càng có thêm nhiều tin vui về những thành quả của sự hợp tác này cho thấy cộng đồng quốc tế, mà đặc biệt là các doanh nghiệp dầu khí hàng đầu thế giới, tự tin vào chủ quyền và chính nghĩa của Việt Nam trên các khu vực khai thác ở Biển Đông. Theo công pháp quốc tế, hoạt động thăm dò và khai thác tài nguyên trên thềm lục địa của mình là việc làm bình thường của mọi quốc gia có chủ quyền, được luật pháp cũng như cộng đồng thế giới ủng hộ. Bất kỳ sự quấy rối, đe dọa hay gây hấn nào nhằm vào các hoạt động hợp pháp bình thường đó cũng đều là phi lý và xâm phạm thô bạo quyền, lợi ích chính đáng của quốc gia khác, chắc chắn sẽ bị cộng đồng quốc tế lên án.