Những góc nhìn Văn hoá

Hiệu Tần Thi Tập Tự và khuynh hướng thi học của Phan Thức Trực (1807 - 1852)

1. Mở đầu

Trước đây, nói đến Phan Thúc Trực, người ta thường nghĩ đến danh tiếng một nhà sử học mà ít nghĩ đến ông với tư cách một nhà thơ tài năng. Nhưng gần đây, nhờ công phu khảo sát, công bố và khai thác các di sản văn chương của ông, diện mạo một nhà thơ có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc ngày càng được phi lộ[1]. Làm nên diện mạo đó có nhiều tác nhân. Nhưng một trong những tác nhân chủ đạo là khuynh hướng thi học được tự giác cao độ của ông.

Hiệu tần thi tập là một tập thơ quan trọng, rất có giá trị (nếu không muốn nói là quan trọng và có giá trị nhất) của Phan Thúc Trực, được hoàn thành năm 1841, tổng kết một chặng đường sáng tác khoảng 20 năm của ông “tại quê nhà từ trước cho đến năm 1841”[2]. Vì vậy, Hiệu tần thi tập tự là lời tuyên ngôn về thơ đầu tiên của Phan Thúc Trực. Hơn thế, nó cũng là bản tuyên ngôn chính thức về thơ duy nhất của ông mà chúng ta còn giữ được (không kể những tuyên ngôn tiềm ẩn trong sáng tác và những lời dẫn, lời chú các bài thơ). Do đó, đây là tư liệu chủ yếu để tìm hiểu khuynh hướng thi học của Phan Thúc Trực trong điều kiện hiện nay. Bài viết tập trung giới thiệu và phân tích bài tựa để làm rõ khuynh hướng đó.

2. Nội dung

2.1. Hiệu tần thi tập tự

Phiên âm

Thi chi nan tố; kì lai cửu hĩ. Cái tự tam bách thiên chi hậu, biến nhi vi Tao, Tao biến nhi vi Hán Ngụy, Lục Triều thế chi tác, tẩm thất kì chính. Chí Đường, Tử Mĩ dĩ thi minh danh, ủy vi từ đàn chi mĩ xướng. Kì hình ư phúng vịnh, giai tòng căn bản nhi lập ngôn. Nhi đốn tỏa uất ức vô liêu chi ý, thời hoặc phát chi vu trì khu, vu quy củ chi nội. Dư tự thiếu tuế học vi thi văn, bất hạ bách dư thủ, thời diệc hữu kì tứ lệ cú, nhiên vô sở thủ. Duy dĩ Cổ súy, Nhập môn, Biệt tài, cập Lã Đường đẳng tác tư vi phấn bản. Đãi Canh Tí niên, nhưng tòng lân quan mịch đắc Lí Đỗ Đào Thiệu chư thi, giai tòng tính tình lưu xuất, thời đái tiên linh chi khí. Độc chi niên dư, hốt nhiên tỉnh ngộ toại tất khí tiền tác. Nhiên Lí Đào nhị tập, cú cú thiên nhiên, bất giả khắc hoạch; phi hữu tài bất năng. Chí như Y Xuyên kích nhưỡng, căn tự nghĩa lí, sở kiến vưu áo; hựu phi thiển học giả sở năng tạo dã. Duy Đỗ thi nhất tập, cách luật sâm nghiêm, chú thích minh bạch; nan hiệu tiền đẳng khả vi hãn địch; diệc phi vô tài vô học giả khả ngữ. Nhi ư thi luật chi tế, hữu thị chi dĩ đồ triệt xứ yên. Nhân nhất ý dâm độc, bất câu mang hạ. Hướng lai diệc hữu sở tác, tự cú chi chiếu cố, đoạn lạc chi thừa tiếp, ý kiến chi khắc hội tiêm xảo, lược hữu y phỏng, nhi vô nhất cú dữ Đỗ á giả. Thí do Tây Thi chi tần, nhân dục hiệu chi, phản kiến kì xú nhĩ. Dư chi học Đỗ diệc loại hồ thị. Nhiên hậu tri tố thi chi nan dã, toại danh chi viết Hiệu tần yên. Thiệu Trị nguyên niên thu thất tịch tiền nhất nhật. Dưỡng Trai Hạo Hiên phủ tự tự[3].

Dịch nghĩa

“Làm thơ thực khó; nguồn gốc của nó đã có từ lâu rồi. Có lẽ là sau ba trăm bài [Kinh Thi], biến đi thì thành [Li] Tao, [Li] Tao biến thì thành thơ Hán Ngụy, Lục Triều; [sáng tác thơ ở đời các đời ấy] càng ngày càng mất dần sự chính đáng. Đến đời Đường, Tử Mĩ nổi tiếng vì thơ, làm nên âm hưởng đẹp đẽ trên văn đàn. Hình tượng hiện lên ở sự phúng vịnh trong thơ ông đều xuất phát từ gốc rễ mà hiện thành lời, mà cái ý chịu đựng, uất ức, buồn bã thì cũng có khi khởi phát trong sự rong ruổi, hay trong khuôn thước. Tôi từ nhỏ đã học làm thơ văn, sáng tác không dưới trăm bài. Trong đó cũng có những câu hay, tứ lạ, nhưng không có bài nào đáng giữ. [Vì] duy chỉ lấy những sáng tác trong các tập [Đường thi] cổ súy, [Đường thi?] nhập môn, [Đường thi] biệt tài [tập]cùng Lã Đường [di cảo thi tập] để làm nền tảng mà phác họa[4]. Đến năm Canh Tí (1840), mới theo các bạn đồng liêu tìm đến với sáng tác của các ông Lí [Bạch], Đỗ [Phủ], Đào [Tiềm], Thiệu [Ung]. Những bài đó đều từ tính tình mà ra, lại mang cái khí linh thiêng, thần tiên. Đọc chúng hơn năm thì bỗng nhiên tỉnh ngộ. Bèn vứt bỏ hết những sáng tác trước kia. Song le, hai tập thơ của Lí Bạch, Đào Tiềm, câu nào cũng tự nhiên trời phú, không dễ phỏng họa giả tạo được; không phải là kẻ có tài thì không thể làm được. Đến  như tập thơ Y xuyên Kích nhưỡng [của Thiệu Ung], lại bắt rễ từ nghĩa lí, sở kiến của nó càng uyên áo, lại cũng không phải kẻ thiển học có thể với tới. Duy một tập thơ Đỗ Phủ, cách luật nghiêm trang, chú thích rõ ràng, khó có tập nào trước đó so được, có thể coi là ít có địch thủ; cũng không phải để kẻ bất tài, vô học có thể bàn đến. Nhưng đối với lĩnh vực thi luật, chúng cũng có sự chỉ dẫn để đi đến chỗ tận cùng vậy. Nhân quyết ý đọc tràn mà không nề hà nhàn hay bận; tiến tới cũng có sáng tác riêng của mình. Sự để ý đến câu chữ, sự thừa chuyển mạch lạc, chương đoạn, sự khéo léo khắc họa ý tứ, kiến giải, cũng có bắt chước sơ sơ, nhưng không có một câu nào đứng sau được thơ Đỗ vậy. Ví như Tây Thi nhăn mặt, người đời muốn bắt chước, rốt cuộc lại trở nên xấu xí. Tôi học theo họ Đỗ cũng đại loại như thế. Nhưng sau rồi cũng biết rằng việc làm thơ là khó, nên mới gọi tập thơ này là Hiệu tần (Bắt chước nhăn mày). Ngày 06 tháng 07 âm lịch năm Thiệu Trị thứ nhất (1841). Dưỡng Trai Hạo Nhiên tự viết tựa”.

2.2. Khuynh hướng thi học của Phan Thúc Trực qua Hiệu tần thi tập tự

Bài tựa thuật lại quá trình học tập và sáng tác thơ ca của Phan Thúc Trực từ khi còn niên thiếu đến năm hoàn thành Hiệu tần tập (1841). Nhìn chung, ông có một lòng yêu thơ sâu sắc, một thái độ cầu thị, chuyên chú học hỏi thơ ca của người xưa. Trong những tác phẩm kiểu mẫu mà Phan Thúc Trực học tập, ngoài Kinh Thi (được hầu hết các tác giả trung đại Trung Hoa và Việt Nam đề cao, vì đó là kinh điển được thánh nhân san định), chúng ta nhận thấy Phan Thúc Trực có khuynh hướng trọng thị thơ Đường. Các tập thơ mà Phan Thúc Trực dẫn ra để minh chứng cho việc học tập thơ thời trẻ của mình hầu hết là các tuyển tập thơ Đường: [Đường thi] cổ súy, [Đường thi?] nhập môn, [Đường thi] biệt tài [tập]. Đường thi cổ súy được cho là do Nguyên Hiếu Vấn (1190 - 1257) thời Nguyên soạn, Hách Thiên Đỉnh (1247 - 1313) chú thích, Giao Vãn Bính giải nghĩa, Vương Tuấn Thần, Vương Thanh Thần, Lục Di Điển (đều là người Trung Quốc thời Thanh) hiệu đính. Vương Nguyễn Đình (Vương Sĩ Trinh) (1634 - 1711) hiệu đính. Tập thơ này gồm 10 quyển, sưu tuyển 600 bài thơ của 87 tác giả Trung Quốc đời Đường. Dù có chút hoài nghi về tính xác thực của người biên soạn nhưng theo chúng tôi, nhiều khả năng đây là công trình của Nguyên Hiếu Vấn – một nhà thơ thời Nguyên nhưng rất ham thích thơ Đường, người mở đường cho xu hướng sùng thượng thơ Đường thời Minh Thanh. Đường thi cổ súy có ảnh hưởng lớn trên thi đàn Trung Hoa và Việt Nam. Điều đó thể hiện ở việc, văn bản này có mặt ở Việt Nam, được nhiều nhà thơ Việt Nam nhắc đến [chẳng hạn Miên Thẩm trong Thương Sơn thi thoại], thậm chí được Thịnh Văn Đường in lại năm Tự Đức 4 (1851). [Đường thi?] nhập môn hiện chúng tôi chưa tra ra xuất xứ, nhưng hẳn cũng là một tuyển tập thơ dùng để dạy cho những người mới vào nghề thơ (“nhập môn”). Còn Đường thi biệt tài tập là tuyển tập thơ Đường do Thẩm Đức Tiềm (1673 - 1769) thời Thanh biên soạn, gồm có 20 quyển sưu tập khoảng hơn 1900 bài thơ của hơn 270 nhà thơ thời Đường. Quan điểm của Thẩm Đức Tiềm là “lấy Lí Bạch, Đỗ Phủ làm chủ”, sưu tuyển các đại gia thời Đường bên cạnh các tác giả nhỏ, có phụ thêm những lời bình chú. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đường thi biệt tài tập đã tuyển được một lượng lớn tác phẩm rất đa dạng của thơ Đường. Đáng chú ý trong số các tác phẩm mà Phan Thúc Trực học tập có 1 tập thơ của người Việt là Lã Đường di cảo thi tập của Thái Thuận (1440 - ?). Nhưng ngay cả tập Lã Đường [di cảo thi tập] của Thái Thuận cũng mang nhiều âm hưởng của thơ Đường [Đỗ Phủ]. Chẳng hạn, đây là lời Thái Thuận phát biểu (được ghi chép trong Truyền kì mạn lục): “cầu lấy lời chín, lẽ tới, có thể khiến làng phong nhã phải phục thì chỉ duy những bài đầy lời trung ái của ông Nguyễn Ức Trai lòng lúc nào cũng chẳng quên vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được” [Kim Hoa thi thoại kí][5]. Tuy nhiên, Phan Thúc Trực không dừng lại ở đây. Từ năm 1840, trong quan niệm của ông có sự chuyển hướng sang chú tâm vào 4 nhà thơ cụ thể: Đào Tiềm, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Thiệu Ung. Trong đó, ông đặc biệt đề cao Đỗ Phủ. Sự chuyển hướng này thể hiện sự chuyên tâm, đào sâu, tập trung vào một số “đại gia” chứ không tản mạn như trước. Bên cạnh đó, những tuyển tập thơ trên đây hầu hết là những cuốn sách “nhập môn” cho người mới vào nghề thơ học tập, bắt chước (chủ yếu để thi cử); lại gò bó về quy củ và “thi giáo” nên có lẽ không thể cứ học tập mãi. Về điều này, ta có thể tham khảo ý kiến của Miên Thẩm về Đường thi cổ súy: “Đại khái, thơ chuyên vào loại cận thể, nguồn gốc từ thơ cử nghiệp (thi cử) mà ra, trong đó những kẻ công kênh [nhau], tiếm dựng thành ban bệ, cũng đều học theo [thể cách của thơ trong những cuốn như] Đường thi cổ súy, Chiến Cổ đường [của Hoàng Phác thời Thanh] mà nên. Vì vậy, những bài thơ [của họ] yếu đuối, thô thiển, khí thế hời hợt, lại dùng vần sai lạc, tạo đề thô thiển. Tuy có kẻ tài năng, thông minh thật đấy, nhưng lấy cái đạo này để làm việc dễ dãi, lại chưa từng dốc lòng vào cổ học, trao truyền bắt chước nhau mãi, nhất thiết không thoát khỏi chỗ quê mùa, nhỏ mọn, chày cối vậy”[6]. Tất nhiên, phê phán loại thơ này là Miên Thẩm có đứng trên quan điểm của thuyết thần vận. Còn về Đường thi biệt tài tập, do đứng trên quan điểm đề cao “thi giáo” (ôn, nhu, đôn, hậu) nên khi biên soạn. Thẩm Đức Tiềm đã bỏ qua nhiều hiện tượng độc đáo, đa dạng của thơ Đường. Tình hình cũng tương tự ở Lã Đường di cảo thi tập của Thái Thuận. Chính Thái Thuận đã từng tuyên bố: “Còn đến giọng thơ biến hoá như khói mây, lời thơ quan hệ đến phong giáo, thì lão phu đây cũng chẳng kém thua ai mấy” [Kim Hoa thi thoại kí][7]. Phải chăng, sự đề cao thi giáo quá mức đã hạn chế giá trị của các tập thơ khiến Phan Thúc Trực tỏ ra dè dặt với chúng và dần dần rời bỏ?

Nhưng sự chuyển hướng của ông cũng không đi quá xa phạm vi thơ Đường và không đi quá xa chuẩn mực (về hình thức), mà thực chất cuối cùng lại là để tập trung vào một đại diện tiêu biểu của thơ Đường là Đỗ Phủ. Trong số 4 nhà thơ mà Phan Thúc Trực dẫn thì có 2 nhà thơ đời Đường: Lí Bạch, Đỗ Phủ. Hai nhà thơ sau thì thuộc dòng thơ “huyền ngôn”, triết lí, nói đạo lí và chí hướng của ẩn sĩ: Đào Tiềm, Thiệu Ung. Các nhà thơ khác Phan Thúc Trực cho rằng đều tự nhiên, cao siêu nên khó học được, riêng thơ Đỗ Phủ, tuy vẫn là tuyệt tác trước đó khó sánh, ít địch thủ nhưng lại là cái có thể học tập, vì “có sự chỉ dẫn để đi đến chỗ tận cùng vậy”. Do đó, ông “quyết ý đọc tràn mà không nề hà nhàn hay bận; tiến tới cũng có sáng tác riêng của mình”. Vậy ông học tập gì ở thơ Đỗ Phủ? Hãy xem ông ca ngợi thơ Đỗ Phủ: “Hình tượng hiện lên ở sự phúng vịnh trong thơ ông đều xuất phát từ gốc rễ mà hiện thành lời, mà cái ý chịu đựng, uất ức, buồn bã thì cũng có khi khởi phát trong sự rong ruổi, trong khuôn thước”, “cách luật nghiêm trang, chú thích rõ ràng, khó có tập nào trước đó so được, có thể coi là ít có địch thủ”. Như vậy, ông đề cao nội dung, âm điệu, đặc biệt là “cách luật” trong thơ Đỗ Phủ. Từ đó, Phan Thúc Trực chủ trương học tập thơ Đỗ Phủ như sau: “Sự để ý đến câu chữ, sự thừa chuyển mạch lạc, chương đoạn, sự khéo léo khắc họa ý tứ, kiến giải, cũng có bắt chước sơ sơ”. Nói khác đi, Phan Thúc Trực học tập cái quy củ, sự chuẩn mực, khéo léo trong cách luật, bút pháp thơ lão luyện của Đỗ Phủ. Đó là lí do khiến Phan Thúc Trực bỏ qua những tác giả cũng rất nổi tiếng khác là Đào Tiềm, Lí Bạch hay Thiệu Ung: “hai tập thơ của Lí Bạch, Đào Tiềm, câu nào cũng tự nhiên trời phú, không dễ phỏng họa giả tạo được; không phải là kẻ có tài thì không thể làm được. Đến  như tập thơ Y xuyên Kích nhưỡng [của Thiệu Ung], lại bắt rễ từ nghĩa lí, sở kiến của nó càng uyên áo, lại cũng không phải kẻ thiển học có thể với tới”. Về mặt hiển ngôn, Phan Thúc Trực bày tỏ sự ngưỡng mộ các nhà thơ trên; nhưng ngầm ý, ông không tán thành (hoặc không hợp) với thơ họ (có lẽ bởi sự phóng túng, linh hoạt, khó nắm bắt, mơ hồ, “thiên nhiên”,… của chúng). Ông yêu thích loại thơ chuẩn mực, khuôn thước, nghiêm trang tề chỉnh mà sâu sắc của Đỗ Phủ. Điều đó được phản ánh trong thực tế sáng tác thơ của Phan Thúc Trực với dấu ấn khá đậm đà của thơ Đỗ Phủ [chẳng hạn: Nhàn tụng Đỗ thi hữu Quang nhãn khán khinh bạc/ Hư hoài nhậm khuất thân chi cú nhân hiệu nhất luật; Đối vũ; Đông dạ bất mị hữu cảm; Cảm biệt; Điệu nội thuật tác; Tuế yến hành;v.v…]. Không chỉ giống về câu chữ, cách luật, thơ Phan Thúc Trực còn giống thơ Đỗ Phủ ở nội dung. Chúng ta đều biết Đỗ Phủ là “thi sử” (viết sử bằng thơ: ghi lại sự kiện, hiện thực, biến cố, tâm sự,… rất chân thực). Chỉ cần lướt qua nhan đề các bài thơ của ông ta đã thấy rõ tính chất “thi sử”: Chiều tối khóc bên mộ vợ đã mất; Sắp hết đông nơi đất khách; Đêm đông không ngủ cảm hứng thành thơ; Thương tiếc vợ làm thơ thuật lại cuộc đời; Bài ca năm thanh bình; Nước lụt mùa hè; Tạnh mưa gặt lúa; Ghi chép ngày mưa bão; Xem trò giao điệt[8],… Đọc các lời chú dẫn các bài thơ, ta càng thấy rõ tính chất thi sử đó. Đi vào nội dung cụ thể các bài thơ của Phan Thúc Trực ta cũng thấy rõ điều này. Đây cũng chính là lí do Phan Thúc Trực sớm rời bỏ các tập thơ “nhập môn”, mang tính chất “cử tử” để đến với thơ Đỗ Phủ: thơ Đỗ Phủ không những điêu luyện về hình thức mà lại còn sâu sắc, chân thực về nội dung phù hợp với cái “tạng” của Phan Thúc Trực.

Vậy, thực chất, khuynh hướng thi học của Phan Thúc Trực là gì đặt trong bối cảnh/ viễn cảnh thi học đương thời? Theo chúng tôi, phải chăng đó là thuyết “cách điệu” (hay khuynh hướng “cách điệu”)?

Thuyết “cách điệu” là một lí thuyết thơ xuất hiện phổ biến ở Trung Hoa vào thời Minh - Thanh bên cạnh các lí thuyết nổi tiếng khác là thuyết thần vận và thuyết tính linh. Thuyết “cách điệu” chủ yếu đề cao việc chú ý đến cách luật, âm luật, vần điệu của thơ, chủ trương “lấy âm thanh quán xuyến câu chữ”, lấy âm luật để nhìn nhận thơ, tức coi trọng vấn đề hình thức của thơ. Thuyết “cách điệu” nhấn mạnh tính chất thời đại của “cách điệu”. Thơ mỗi thời đại có “cách điệu” riêng. Trong các “cách điệu” thời đại” đó, thuyết “cách điệu” đề cao “cách điệu” thơ Đường (“thi tất Thịnh Đường”) mà phê phán “cách điệu” thơ các thời đại khác. Vì thế, hiển nhiên, thuyết “cách điệu” kêu gọi học tập “cách điệu” thơ Đường (đặc biệt là thơ Đỗ Phủ). Cũng chính vì lí do đó, người ta còn gọi thuyết “cách điệu” là “phái phục cổ”. Đại biểu của phái phục cổ là các nhà thơ nổi tiếng thời Minh như Lí Đông Dương, Lí Mộng Dương, Hà Cảnh Minh,… Sang thời Thanh sơ, thuyết “cách điệu” vẫn được một số thi nhân kế thừa. Trong đó, Thẩm Đức Tiềm (1673 - 1769) được coi là đại diện tiêu biểu nhất. Thẩm Đức Tiềm đã gắn thêm “thi giáo” “ôn nhu đôn hậu”, chức năng giáo hóa chính trị và đề cao học vấn của nhà thơ vào thuyết “cách điệu”. Ông cho rằng chỉ có thơ “cách luật thời Đường mới hay” mà người đương thời làm thơ thì phải “trau chuốt thanh điệu, dùi mài cách luật” theo thơ Đường. Ông cũng chủ trương từ Đường mà truy lên Hán Ngụy để “tìm bản nguyên của thi giáo”[9].

Thời Phan Thúc Trực sống là thời mà các tác giả có xu hướng chuyển từ sự đề cao thơ Tống sang trở về với thơ Đường và kéo theo đó là sự hiện diện của thuyết “cách điệu”. Xu hướng đề cao thơ Đường (đặc biệt là thơ Thịnh Đường) đã bắt đầu nổi lên mạnh mẽ ở một số tác giả giữa thế kỉ XVIII như: Lê Hữu Kiều, Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Kiều, Đặng Trần Côn, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ,v.v... Chẳng hạn, trong bài Tàng chuyết thi tập tự, Lê Hữu Kiều ca tụng thơ Đường: “Đến thơ cận thể nhà Đường thì đúc kết thể tỉ, thể hứng trong tự sự, mô tả đường nét bên ngoài để làm nổi lên cái thần, nói một câu có thể tỏ được trăm ý, xem kĩ lưỡng có thể biết được muôn cảnh. Nghệ thuật thơ văn đến thế thật là thần diệu!”[10]. Đặng Trần Côn sáng tác Chinh phụ ngâm khúc theo lối “tập cổ” mà phần lớn là “tập” thơ Hán Nhạc phủ và thơ Đường. Lê Quý Đôn nhiều lần thể hiện sự ngưỡng mộ thơ Đường của ông trong việc bình tuyển thơ văn (xem Toàn Việt thi lục – “Lệ ngôn”, Vân đài loại ngữ - “Văn nghệ”). Ngô Thì Sĩ cũng vậy. Ông có tập thơ tên là Hiệu tần tập (Tập thơ bắt chước). Đề tựa tập thơ này, ông cũng tuyên bố rõ: “Các ông Đỗ, Lí, Nguyên, Bạch, Lưu, Liễu, Âu, Tô đều là nàng Tây Thi của các nhà thơ, khí vượt cả mây ráng, sắc thơ hơn cả gấm vóc, thoảng nhẹ không kém gì lời giáng bút của các thần tiên, cho nên tôi hâm mộ muốn bắt chước, mà không tự biết là bắt chước khéo hay vụng (...) Tôi vẫn biết là vụng, nhưng từ khi Phong, Nhã dứt thì Kinh Thi mất, từ khi các ông Lí, Đỗ, Nguyên, Bạch, Lưu, Liễu, Âu, Tô mất thì thơ thành loạn. Hãy xem, người tóc đen như mây, răng trắng như hạt bầu non, cố nhiên không cần phải khéo nhăn mày cũng đã đẹp rồi, còn xấu như Vô Diệm, Mô Mẫu thì bắt chước nhăn sao được! Thì biết đâu tôi bắt chước chả là đẹp ư?”[11] [131, tr.104]. Ông còn có bài thơ Năm mươi tư vần đọc thơ Bạch Cư Dị ca ngợi âm điệu, cách luật thơ Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị: “Thiếu Lăng là viên ngọc từ nghìn xưa/ Cư Dị mới thật là thầy tôi” [12]. Tất nhiên, các nhà thơ này chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của thơ Tống. Việc đề cao các nhà thơ trên (trong đó có Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị - những người “khai Tống nhân môn hộ”) là minh chứng. Ở đây, còn có thể kể thêm các tác giả mà cuộc đời và sự nghiệp thơ ca vắt ngang hai thế kỉ như: Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Nguyễn Du, Nguyễn Cát, Ngô Thì Vị, Cao Huy Diệu, Hồ Xuân Hương, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định,v.v... mà trong thơ ca cũng thể hiện xu thế “phản Tống quy Đường”. Tiên phong cho khuynh hướng “quy Đường” là Trịnh Hoài Đức. Ông từng khẳng định việc làm thơ của mình là học tập thơ Đường: “Đối với kinh sử tử tập, tam giáo cửu lưu, cứ thấy sách chữ Hán thì ắt tìm đọc mà không ngại tiếng cười chê là bác tạp, quê mùa, lại thường ngưỡng mộ phong điệu của thơ Đường, nên học ngay mà không nề hà gì” [Cấn Trai thi tập tự tự][13]. “Phong điệu” là thuật ngữ rất gần gũi với “cách điệu”. Viết tựa cho Bảo Quang viên thi thảo (1823) của Nguyễn Đại (1804 - 1849), Trịnh Hoài Đức lại trực tiếp sử dụng hai chữ “cách điệu” để bình luận: “Nâng đọc mà thưởng ngoạn kĩ càng, thì thấy sự kì lạ siêu quần của ý thú, sự khéo vụng của “cách điệu”, tỏ rõ cái khí khái của bậc anh hào xưa nay ở trong đó”[14]. Với quan điểm đó, có thể nói, Trịnh Hoài Đức là một trong những người mở đường cho sự thịnh hành của thuyết “cách điệu” thời Nguyễn. Nguyễn Du (1765 - 1820) bình thơ Lê Quang Định khen: “phảng phất phong vị thơ Đường” [Hoa Nguyên thi thảo][15]. Bình thơ Vi Ứng Vật, Lư Chiếu Lân (?), Nguyễn Du viết: “Nghìn năm sau thời Tam Đường/ Vắng lặng mãi chẳng nghe có ai nổi tiếng” [Đề Vi, Lư tập hậu][16]. Đặc biệt, Nguyễn Du rất đề cao Đỗ Phủ: “Văn chương để lại muôn đời, bậc thầy của muôn đời/ Suốt đời ta khâm phục, chưa chút đơn sai” [Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, bài 1][17]; “Ai cũng khen tài thơ đáng bậc thầy muôn đời” [Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, bài 2][18],v.v... Trong thơ chữ Hán, truyện thơ Nôm của Nguyễn Du ta thấy rõ dấu ấn của thơ Đường (Lí Bạch, Sầm Tham, Thôi Hộ, Bạch Cư Dị,...đặc biệt là Đỗ Phủ). Phạm Đình Hổ cũng đề cao thơ Đường như sau: “Đời Lí Đường [...] người nào cũng cắp hòn châu, chứa ngọc bích, đua tài với đời Tấn Ngụy, rảo bước lên bậc phong tao, thực là thịnh thời không đời nào hơn. Thơ đời Tống cũng có nhiều câu xuất sắc, nhưng phú vịnh thì thiên về lối thô sơ, tỉ hứng thì mờ mịt, không rõ ràng; so với thơ đời Đường thì đời Tống không bằng; thơ đời Đường còn so kịp với ba trăm thiên của Kinh Thi. Người đời Nguyên thì chỉ chuộng làm thời văn cho giỏi, thơ thì quá tỉ mỉ, bóng bảy, ý cũng muốn học theo thời Đường, nhưng sai lạc đi” [“Thể thơ”][19],v.v… Tiếp đó, một số tác giả thế hệ sau đã thể hiện quan điểm “tôn Đường” mang màu sắc thuyết “cách điệu” như Hà Tông Quyền, Phan Huy Chú, Doãn Uẩn, Thiệu Trị, Tự Đức,v.v...  Đề tựa cho Sứ thiều ngâm lục của Phan Huy Chú, Hà Tông Quyền (1798 - 1839) viết: “Ôi! Sự tráng lệ của núi sông Ngô Sở, sự kì lạ của băng tuyết U, Yên, tưởng đủ để kéo dài câu ngâm thần và thanh lọc mắt thơ, mà không phải cái phóng khoáng của sở thú con người, sự nhàn dật của “cách điệu”, thì tuy có thể làm thơ mà không thể làm nhiều, hoặc làm nhiều nhưng không khéo”[20]. Doãn Uẩn (? - 1849) bình luận thơ của Hà Tông Quyền cũng viết: “Còn như đối với sự tinh tế của cách luật, sự âm vang của vận luật, sự cao nhã của lí trí, phải tìm nó nơi người xưa, còn tôi chưa quen với Phong Tao, nên chưa dám đem nó để bình luận sự lớn lao của ông vậy” [Dương mộng tập bạt][21]. Phan Huy Chú cũng thường xuyên dùng “cách điệu” để bình phẩm thơ ca. Chẳng hạn, bình thơ Kiến Vương Tân, ông viết: “cách điệu” thanh nhã hùng tráng, được người đương thời khen ngợi” [“Văn tịch chí”][22]. Bình thơ Ngô Thì Sĩ, họ Phan còn chỉ ra sự học tập “cách điệu” thơ Đường của ông: “cách điệu” thơ bắt chước Bạch Cư Dị, đại để giản dị, chất phác, chân thật. Đến khi tuổi già, thơ lại càng bình dị” [“Văn tịch chí”][23],v.v... Trong khi bình thơ, Phan Huy Chú cũng thể hiện rõ sự sùng thượng thơ Đường (như việc bình thơ thời Trần chẳng hạn). Điều đó cho thấy xu hướng “cách điệu” ở Phan Huy Chú là khá rõ ràng, đậm nét. Tiêu biểu cho sự ảnh hưởng của thuyết “cách điệu” chính là vua Tự Đức (1829 -1883). Không phải ngẫu nhiên dư luận đồn rằng câu “Văn như Siêu, Quát, vô Tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy, thất Thịnh Đường” là của Tự Đức (?). Cũng không phải ngẫu nhiên, Tự Đức khá tâm đắc với thơ và TTTH của Thẩm Đức Tiềm, thủ lĩnh phái “cách điệu” thời Thanh, rất mực tôn sùng thơ Đường. Trong một tác phẩm của mình, Tự Đức từng luận bàn thi sử Trung Hoa như sau: “...Hán Ngụy thì coi chất hơn văn/ Lục Triều thì quá ư ủy mị/ Nguyên Minh thì ưa chuộng cặn kẽ và chi li/ Tựu trung duy có thời Đường/ Cách luật mới hoàn bị/ Uẩn súc rất đáng để ý/ Ngõ hầu nắm được ý xưa” [Thấy tập thơ của mình ở đầu án mỉm cười làm bài này][24]. Về Tự Đức, theo Nguyễn Đình Phức, ông là người có khuynh hướng “cách điệu” khá đậm: “Tự Đức trọng thị “thi giáo”, cường điệu chức năng tải đạo, dụng thế của thơ văn. Loại thi luận này ở một mức độ nào đó gần gũi với thuyết “cách điệu” của Thẩm Quy Ngu. Tự Đức là một vị hoàng đế có tâm hồn phóng khoáng đối với thơ, nguyên nhân ông chuộng thuyết “cách điệu” của họ Thẩm đại để có hai điều: một là, chỉnh đốn tính cực đoan trong thi luận của Miên Thẩm, khôi phục một loại thi luận phù hợp với thi luận Nho gia truyền thống và nền thi học phục vụ chính trị. Hai là đề cao Lí, Đỗ, sùng thượng cảnh giới thơ hùng hồn, hào sảng, thích hợp với mục đích tô điểm đời thái bình, ca ngợi công đức”[25]. Bản thân Tự Đức cũng rất đề cao Thẩm Đức Tiềm và có lệnh cho Miên Thẩm làm cuốn Quy Ngu thi tuyển để ông học tập, lại sai văn thần sắp vần để ông làm thơ (Cao Bá Quát chẳng hạn). Về mặt bình luận thi sử Trung Hoa, Tự Đức đề cao “cách luật” thơ Đường, phê phán thơ các đời khác. Đây là tinh thần cơ bản của thuyết “cách điệu”. Rõ ràng, chủ trương của Tự Đức phản ánh thị hiếu của triều đại ông.

Nói về xu hướng sùng thượng thơ Đường mang màu sắc thuyết “cách điệu” cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, chúng ta có thể tham khảo nhận định sau của Cao Bá Quát: “Triều ta chính trị và giáo hóa sáng sủa, hưng thịnh, các tác gia bèn nối gót nhau xuất hiện. Nhưng cái rơi rớt của thói ủy mị, yếu đuối, ít người tự rũ bỏ được: người yếu kém thì khổ vì sự theo đòi dễ dãi; người có hào khí thì mắc vào bệnh ăn sống nuốt tươi. Còn những người sức học dồi dào lại hí hửng tự đắc, chỉ muốn vơ váo trăm nhà, thâu tóm các thể, thành thử mô phỏng thái quá, mà phong thái, cốt cách chưa cao siêu, tô vẽ có khéo, nhưng nghĩa lí, tinh thần còn kém. Đúng như Khang Tây Minh đã nói: “rập theo âm kêu, câu rậm để làm khí tượng, rồi thác là Thịnh Đường, đó chính là việc làm của những kẻ chìm ngập trong thi thoại của các nhà, ăn cái xưa mà không hóa được vậy” [TSTT hậu tự] [131, tr.185]. Rõ ràng, những hiện tượng mà họ Cao mô tả là biểu hiện của thuyết “cách điệu” hay “phục cổ” do chịu ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc (thời Minh Thanh) và Cao viết về nó với cái nhìn phê phán.

Tất nhiên, đương thời, không chỉ xuất hiện thuyết “cách điệu”. Bên cạnh khuynh hướng này, ta còn thấy có khuynh hướng thuyết “tính linh” (với các tác giả tiêu biểu như: Cao Bá Quát, Trương Đăng Quế, Bùi Văn Hi, Bùi Văn Dị, Nguyễn Thông,...) và thuyết “thần vận” (với các tên tuổi tiêu biểu như Miên Thẩm, Miên Trinh, Miên Bửu, Miên Khoan, Phan Thanh Giản,...). Đứng trên quan điểm của thuyết “tính linh”, Cao Bá Quát tỏ rõ thái độ phê phán tệ đoan của khuynh hướng trên. Hiện tượng “hiệu tần” (bắt chước) thái quá như thế chính là cái mà Cao Bá Quát đã phê phán gay gắt. Đứng trên quan điểm của thuyết “thần vận”, Miên Thẩm cũng đã phê phán những biểu hiện cực đoan của thuyết “cách điệu” (mô phỏng quá mức, cứng nhắc) [Xem Thương Sơn thi thoại]. Và về mặt khách quan, trong bối cảnh chuẩn bị bước sang thời cận – hiện đại, chủ trương “phục cổ” của thuyết “cách điệu” sẽ dần lạc thời, đi ngược thời đại và dần dần sẽ bị đào thải (nhất là ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX). Nhưng ta không thể phủ nhận ý nghĩa của thuyết “cách điệu” ở cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX trong việc đổi mới thơ ca chữ Hán đương thời, đưa nó trở về với đỉnh cao nghệ thuật thơ ca nhân loại - thơ Đường. Phan Thúc Trực sống trong giai đoạn khởi đầu sôi động, có nhiều điểm tích cực, tiến bộ như vậy.

Sống trong phong khí đó, Phan Thúc Trực tự nhiên, nhi nhiên tham gia vào việc tiếp thu thuyết “cách điệu”, góp phần đưa việc tiếp thu này trở thành một xu hướng phát triển khá mạnh mẽ vào giữa thời Nguyễn. Những phát biểu của ông trong Hiệu tần thi tập tự cho thấy sự tham gia một cách đầy ý thức, nhiệt thành và cũng khá khiêm tốn. Cách đặt tên tập thơ là Hiệu tần thi tập (Tập thơ bắt chước) cũng cho thấy tinh thần đó[26]. Những thư tịch mà ông tham khảo, dẫn dụng cũng cho thấy sự cập nhật thi học Trung Hoa đương thời. Đó là nỗ lực để vươn đến đỉnh cao nghệ thuật thơ ca trong phạm vi thi pháp thơ ca trung đại. Còn việc tiếp thu vận dụng thành công đến đâu, có điểm hạn chế nào không, thì lại phụ thuộc vào tài năng và bản lĩnh của tác giả; phụ thuộc vào quan điểm của mỗi độc giả. Sự tiếp thu này thành công đến đâu, có mặt tích cực, tiêu cực như thế nào? Câu trả lời phải là một sự nghiên cứu (đặc biệt là nghiên cứu so sánh) công phu, nghiêm túc. Theo nhận định chủ quan bước đầu của chúng tôi, ở nhiều bài thơ, nhất là những bài xuất phát từ cảm xúc chân thực và mãnh liệt, Phan Thúc Trực đã thành công khi vận dụng quan niệm, thị hiếu thơ của mình. Còn lại, một số bài mang nhiều tính chất sáo ngữ, công thức, lấy lệ. Nhưng đó cũng là hiện tượng thường tình vì dẫu là nhà thơ lớn thì cũng có mấy ai có thể quả quyết rằng thơ mình bài nào cũng hay, cũng thành công, cũng sáng tạo!

3. Kết luận

Như đã nói, Hiệu tần thi tập tự tổng kết kinh nghiệm thi học của Phan Thúc Trực từ thời niên thiếu cho đến năm 1841, trong đó nổi lên khuynh hướng “cách điệu” vốn cũng đương thịnh hành đương thời. Ở giai đoạn còn lại trong sự nghiệp sáng tác của Phan Thúc Trực (1841 - 1852), khuynh hướng thi học của ông như thế nào, có gì thay đổi hay không? Với tình hình tư liệu hiện nay và trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta chưa rõ. Nhưng theo phán đoán của chúng tôi, nó hẳn không có thay đổi gì nhiều. Bởi lẽ, như đã phân tích ở trên, dưới triều Thiệu Trị, Tự Đức, thuyết “cách điệu” được cổ xướng mạnh mẽ bởi những ông vua - thi sĩ này. Tiểu sử Phan Thúc Trực cũng cho biết, thời Thiệu Trị, ông học ở Quốc tử giám rồi đỗ Thám hoa, bổ làm Hàn lâm viện trước tác; đầu triều Tự Đức, ông được sung vào Nội các, thăng Tập Hiền viện thị độc, sung chức Kinh diên khởi cư chú, vâng mệnh làm thơ văn luôn được vua khen ngợi. Điều đó hẳn đã củng cố, khích lệ quan niệm thi học của những tác giả như Phan Thúc Trực. Dẫu sao, đây cũng chỉ là phán đoán. Trong tương lai, cần có sự khảo sát, tìm tòi thêm những tư liệu khả tín để làm rõ vấn đề thú vị nhưng cũng không kém phần phức tạp này. Ngay cả những nhận định về khuynh hướng thi học của Phan Thúc Trực qua Hiệu tần thi tập tự cũng cần được kiểm chứng thêm khi có điều kiện./.

Hà Nội, tháng 05 năm 2011

N.T.T



[1] Xem Nguyễn Thị Oanh (2011). “Vài nét về văn bản, tác giả, tác phẩm”, trong Cẩm Đình thi tuyển tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.11- 46.

[2] Phan Thúc Trực (2011). Cẩm Đình thi tuyển tập, Nguyễn Thị Oanh giới thiệu, phiên âm, dịch chú, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.52.

[3] Phan Thúc Trực (thế kỉ XIX). Cẩm Đình thi văn tuyển tập, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.1385, tờ 74a.

[4] Nguyên văn “phấn bản”. Theo Thang cấu họa luận: “Cổ nhân họa cảo, vị chi phấn bản. Tiền bối đa bảo súc chi, cái kì thảo thảo bất kinh ý xứ, hữu tự nhiên chi diệu. Tuyên Hòa, Thiệu Hưng sở tàng chi phấn bản, đa hữu thần diệu giả” (Bức tranh phác thảo của người xưa gọi là phấn bản. Tiền bối phần nhiều chăm sóc nó rất quý báu, có lẽ là cái chỗ lờ mờ không trải qua ý thức, nên có cái huyền diệu của tự nhiên. Những bức tranh phác thảo được lưu giữ ở thời Tuyên Hòa, Thiệu Hưng – thời Tống phần nhiều là những bức vẽ thần diệu). Sách Bạt thư họa truyền tập lục chép: “Dĩ phấn tác địa, bố trí thỏa thiếp, nhi hậu huy sái xuất chi, sử vật vô độn hình, bút vô ngộ lạc” (Lấy phấn làm nền, sắp đặt cho ổn thỏa, rồi mới quét rưới chúng đi, khiến cho vật không có hình mờ, bút không bị sai lạc) [Từ Hải, 1948, tr.1024]. Vậy “phấn bản có thể dịch là phác họa hay bản nền.

[5] Nguyễn Dữ (1997). Truyền kì mạn lục, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Trần Nghĩa chủ biên, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.312.

[6] Nguyễn Phúc Miên Thẩm (XIX). Thương Sơn thi thoại, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: VHv. 105, tờ 59a.

[7] Nguyễn Dữ (1997). Tlđd, tr.312.

[8] Phan Thúc Trực (2011). Tlđd.

[9] Xem Tiêu Hoa Vinh (1996). Trung Quốc thi học tư tưởng sử, Hoa Đông Sư phạm đại học xuất bản xã, Thượng Hải, tr.240 - 248; Nguyễn Đình Phức (2006). “Nguyễn Miên Thẩm dữ thần vận thi học”, Ngoại vực Hán tịch nghiên cứu tập san, đệ nhất tập, Trương Bá Vĩ chủ biên, Trung Hoa thư cục, tr.273-274;v.v…

[10] Đặng Đức Siêu (chủ biên) (1994). Tổng tập văn học Việt Nam, tập 18, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.65.

[11] Đặng Đức Siêu (1994). Tlđd, tr.104.

[12] Đặng Đức Siêu (1994). Tlđd, tr.98.

[13]Trịnh Hoài Đức (1819). Cấn Trai thi tập, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.780, tờ 3a.

[14] Quốc triều văn tuyển (XIX). Khuyết danh, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.915/1, tờ 27a.

[15] Lê Quang Định (1822). Hoa nguyên thi thảo, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu: A.779.

[16] Nguyễn Du (1996). Toàn tập, tập 1, Mai Quốc Liên chủ biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.336.

[17] Nguyễn Du (1996). Tlđd, tr.395.

[18] Nguyễn Du (1996). Tlđd, tr.398.

[19] Phạm Đình Hổ (1989). Vũ trung tuỳ bút, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr.145.

[20] Quốc triều văn tuyển (XIX), Tlđd, tờ 33a.

[21] Đỗ Văn Hỷ (1993). Người xưa bàn về văn chương, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.116.

[22] Phan Huy Chú  (2007) Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Tổ phiên dịch Viện sử học dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.450.

[23] Phan Huy Chú (2007). Tlđd, tr.483.

[24] Đỗ Văn Hỷ (1993). Tlđd, tr.88.

[25] Nguyễn Đình Phức (2006). Tlđd, tr,286

[26] Trong văn học trung đại Việt Nam, chúng ta thấy có ít nhất 3 lần các tác giả đặt tên thi tập của mình là Hiệu tần, đó là Hồ Tông Thốc, Ngô Thì Sĩ, Phan Thúc Trực với ý thức học hỏi thơ ca Trung Hoa. Nhưng dĩ nhiên, mỗi một tác giả có kiểu “hiệu tần” khác nhau và với thị hiếu cũng khác nhau.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114595780

Hôm nay

2265

Hôm qua

2340

Tuần này

21241

Tháng này

222397

Tháng qua

131357

Tất cả

114595780