(Với sự tham gia của nhà phê bình Lã Nguyên, nhà thư pháp và diễn ngôn ngẫu hứng Trịnh Tuấn cùng nhà văn Đặng Thân, tại Viện Goethe Hà Nội – 18/10/2012)
(Với sự tham gia của nhà phê bình Lã Nguyên, nhà thư pháp và diễn ngôn ngẫu hứng Trịnh Tuấn cùng nhà văn Đặng Thân, tại Viện Goethe Hà Nội – 18/10/2012)
Trước khi sự kiện diễn ra, nhà phê bình Lã Nguyên giới thiệu:
Chương trình nhằm tạo ra một văn bản phức điệu hy vọng sẽ chuyển tải một phần thông tin từ tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân, một tiểu thuyết đang tạo ra bước ngoặt quan trọng bậc nhất về lối viết, mà với nhiều người việc giải mã vẫn còn là một thách đố, thông qua cuộc trình diễn đa thoại: độc thoại, độc thoại nội tâm, đối thoại, đối đáp, ngẫu thoại, bút thoại (bút đàm) thư pháp…
Được coi là một cuộc chơi văn chương chưa từng có, và những người thực hiện hy vọng trong tương lai sẽ đưa được tất cả các dạng thoại vào cuộc trình diễn đa thoại, và dùng loại hình trình diễn văn học mới mẻ này để “giải mã” các văn bản đặc sắc của các tác giả trong và ngoài nước. Thông báo của Viện Goethe cho hay:
Tiểu thuyết là câu chuyện về tình yêu xuyên biên giới, vượt qua nhiều khác biệt về văn hóa giữa một cô gái gốc Hải Phòng (Mộng Hường) và một chàng trai người Đức đến từ Munich (Schditt von deBalle-Kant).
Trong một cuộc phỏng vấn trước sự kiện này, nhà văn Đặng Thân cho biết:
Tôi nghĩ mục đích lớn của cuộc chơi này là giới thiệu một hình thức hoạt động văn học mới.
Tương lai, có thể dùng hình thức này với mọi tác phẩm, chẳng hạn như các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Trần Dần, Lê Đạt… hoặc là tác phẩm nước ngoài nào đó, thậm chí là tác phẩm của một nhà phê bình, tức là bao gồm cả sáng tác và phê bình văn học.
Hình thức trình diễn này đòi hỏi ít nhất ba người: Một nhà phê bình (không nhất thiết là ông Lã Nguyên), một người trong vai người sáng tác (không cứ phải là ông Đặng Thân), và một số người nữa trong vai trò bút thoại, viết thư pháp, vẽ tranh thủy mặc… hoặc những người thể hiện các dạng thoại khác.[1]
Tới dự chương trình có bà Viện trưởng Viện Goethe - TS Almuth Meyer-Zollitsch, nữ nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Áo Ilse Haider, nhà hoạt động nghệ thuật người Mỹ Suzanne Lecht, TS Trần Thị Hòa Bình, PGS.TS dịch giả Lê Huy Bắc, dịch giả Đoàn Tử Huyến, dịch giả Lê Quang, nhà thơ - đạo diễn điện ảnh Đỗ Minh Tuấn, PGS.TS Trần Ngọc Vương, nhà thơ PGS.TS Trương Đăng Dung, nhà thơ Nguyễn Bảo Chân, nhà phê bình Văn Chinh, nhà văn Đào Bá Đoàn, nhà thơ Tuyết Nga, nhà thư pháp Trần Thanh Bình, PGS.TS Nguyễn Phượng, họa sỹ Đào Hải Phong, TS Nguyễn Văn Vịnh, nhà thơ PGS.TS Nguyễn Linh Khiếu, nhà phê bình TS Phùng Gia Thế… cùng nhiều độc giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, nhà nghiên cứu, nghệ sỹ, sinh viên và đông đảo báo giới cũng như sự có mặt của nhiều khách nước ngoài. Khán phòng của Viện Goethe không còn một ghế trống với rất đông người phải đứng xem trong suốt cuộc đa thoại.
Các cử tọa đến sớm
Sau cuộc đa thoại, nhà báo Bình Yên nhận xét:
Có thể nói đây là lần đầu tiên có một hình thức diễn giải những điều mình viết ra của tác giả bằng phương pháp sử dụng các hình thức thoại: độc thoại nội tâm của tác giả, đối thoại giữa tác giả với độc giả, bút thoại bằng thư pháp và những ngẫu thoại không đầu không cuối nhưng đưa ra rất nhiều chủ đề, rất nhiều góc cạnh của một vấn đề.[2]
Còn đây là ý kiến của anh Dương Đình Hoạt, một giảng viên Anh ngữ, người ngoại đạo với văn chương:
Tác giả đã đích thân chơi một chuyến ra trò ở Viện Goethe. Xét về hình tượng, Đặng Thân cho chúng ta biết quá nhiều về dụng ý, vốn là điều chỉ nên giãi bày cho bình dân học vụ. Còn thâm ý của 3.3.3.9 muôn địa tầng mà chừng ấy công đèn sách tôi cũng chỉ dám nói là đọc lần nào cũng sướng khoái cả.
Sau đây là bản thuật ghi chi tiết:
TS Almuth Meyer-Zollitsch Viện trưởng Viện Goethe khai mạc
PHẦN I: ĐA THOẠI
Nhà phê bình Lã Nguyên thuyết trình:
“SÀN DIỄN ‘ĐA THOẠI’ CỦA ĐẶNG THÂN”
Tôi tham gia vào buổi đa thoại này với tư cách là một người đọc. Tôi cũng xin nói rõ cách làm việc của tôi, cách đọc của tôi. Tiếp xúc với tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân, tôi tiếp xúc với một văn bản. Ngày nay, người ta khẳng định: không có văn bản khép kín, tự trị, độc lập. Trước mỗi văn bản thể nào cũng có những văn bản khác. Cho nên, sự hiện diện của liên văn bản là một tất yếu. Tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng tôi vẫn tin vào luận điểm của Immanuel Kant về sự tồn tại của “vật tự nó”. “Vật tự nó” mà tôi muốn nói tới ở đây là văn bản tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân. Là “vật tự nó”, văn bản giống như một cái “hộp đen”. Đứng trước cái “hộp đen”, tôi không biết tác giả nghĩ thế nào, tuy không thể tuỳ tiện khen chê, nhưng dựa vào “đầu vào” và “đầu ra”, người ta có thể vẫn có thể bóc tách các lớp cấu trúc nội tại của nó để tìm hiểu thông tin được lưu giữ và chuyển tải trong đó.
Cách bóc tách văn bản của tôi gồm có các lớp như sau:
- Lớp văn bản đầu tiên là nhan đề của tác phẩm.
- Lớp thứ hai là không gian trò diễn và chủ thể lời nói trong văn bản, vì nghệ thuật về một phương diện nào đó cũng là một trò diễn.
- Lớp thứ ba là khung truyện kể và cấu trúc biểu nghĩa của văn bản.
Nhà phê bình Lã Nguyên
1. Nhan đề tiểu thuyết và tình huống truyện kể. Nhan đề là dữ liệu đầu tiên người ta có thể nhìn thấy ngay ở “đầu vào” của cái “hộp đen” tiểu thuyết. Thông thường, nhà văn có thể đặt nhan đề cho tác phẩm của mình theo hai cách: “thuận” và “nghịch”.
Đặt nhan đề theo kiểu “nghịch” thường là để tránh kiểm duyệt. Như ở nước ta rất nhiều nhà văn phải tránh kiểm duyệt. Ví như Ma Văn Kháng tiết lộ, lúc đầu, ông định đặt tên cho tiểu thuyết đầu tay của mình là Thổ phỉ. Về sau nghĩ lại, thấy cái nhan đề ấy dữ dội quá, ông mới thay bằng Đồng bạc trắng hoa xoè, thì rất lãng mạn. Cũng như vậy, Lê Lựu dùng nhan đề Thời xa vắng để đặt tên cho cuốn tiểu thuyết đã biến quá khứ sử thi thành thực tại giễu nhại. Tiếp xúc với những cuốn tiểu thuyết như thế, người ta phải đọc nhan đề và nội dung bên trong theo hai mã nghĩa khác nhau. Người ta đọc nhan đề ngoài bìa bằng mã văn học, nhưng lại đọc nội dung bên trong bằng mã xã hội và khoái chí vì ở đây truyện kể đầy những huý kị, nhưng đã vượt qua được rất nhiều đôi mắt kiểm duyệt.
Theo kiểu “thuận”, thì “nhan đề” là quyển sách thu lại, văn bản ở bên trong là cái nhan đề mở ra. Tôi nghĩ, một tác giả “hậu hiện đại” như Đặng Thân, chắc sẽ đặt nhan đề cho tác phẩm của mình theo kiểu này. Dĩ nhiên, kiểu “thuận” cũng có lắm loại, lắm cách. Chẳng hạn, người ta có thể dùng tên nhân vật, hoặc nghề nghiệp của nhân vật để đặt tên cho tác phẩm, ví như Chí Phèo của Nam Cao, hay Mã Đại Câu, người quét chợ Mường Cang của Ma Văn Kháng… Chắc chắn không thể tìm thấy những thông tin quen thuộc như thế ở cái nhan đề 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần].
Nhìn bề ngoài, cái nhan đề này có 2 hai mệnh đề, mệnh đề sau được để trong ngoặc tạo thành một “phụ đề”. Ác một nỗi, ta không có cơ sở để quy “phụ đề” và “nhan đề” về tương quan lôgíc “chính-phụ” (tỉ như: “Những mảnh hồn trần” là một phần của “3.3.3.9”), hoặc tương quan đồng nhất (tỉ như: “Những mảnh hồn trần” chính là “3.3.3.9”. Bởi vì, hai mệnh đề ấy thuộc hai hệ thống kí hiệu hoàn toàn khác nhau. “3.3.3.9” là kí hiệu số, gợi ra ý niệm về trật tự và số lượng. “Những mảnh hồn trần” là kí hiệu gọi tên. Kí hiệu số thuộc loại chỉ hiệu (index). Kí hiệu gọi tên thuộc loại hình hiệu (icon) và biểu hiệu (symbol). “Chỉ hiệu” là kí hiệu của tư duy lôgic, khoa học, tư duy trừu tượng. “Hình hiệu” và “biểu hiệu” là kí hiệu của tư duy cụ thể, tư duy hình tượng, tư duy nghệ thuật và huyền thoại. 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] hoá ra là bức tranh thế giới nhị phân gồm hai cực đối xứng, bất đồng hình, phi đẳng cấu. Đây là bức tranh được kiến tạo theo mô hình của não bộ gồm hai bán cầu phải và trái, hoặc theo mô hình cơ thể con người gồm tinh thần và thân xác.
Thế giới nhị phân là thế giới của những xung đột. Ở đâu có xung đột, ở đó có tình huống truyện kể. Chỉ cần đẩy nhân vật vượt ra ngoài giới hạn một trường nghĩa trong mô hình thế giới nhị phân ấy, lập tức sự kiện sẽ xẩy ra và truyện kể được bắt đầu. Cho nên, tình huống truyện kể là thông tin quan trọng nhất mà ta có thể nhận ra từ cái nhan đề 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]. Dựa vào cái nhan đề này, ta có thể đưa ra giả định: tác phẩm của Đặng Thân là một tiểu thuyết phúng dụ tạo ra câu chuyện về cuộc đối đầu, hoặc đối thoại giữa các bộ phận của cơ thể (hoặc các bán cầu của đại não) để mở rộng thành câu chuyện về cuộc đối đầu hoặc đối thoại giữa các nền văn hoá, văn minh, giữa triết học, khoa học và nghệ thuật, giữa tôn giáo và đời sống phàm tục…
Nhà thư pháp Trịnh Tuấn tương tác một chữ “Đạo”
2. Không gian trò diễn và chủ thể lời nói.
Tác phẩm văn học là thế giới của những người nói. Những người nói này không chỉ là các khách thể được miêu tả, mà còn là những chủ thể phát ngôn đầy ắp nội dung tư tưởng hệ. Trong văn bản văn học, nghĩa không phụ thuộc vào tương quan giữa lời và vật, mà phụ thuộc vào chủ thể và tương quan liên chủ thể của hoạt động phát ngôn. Cho nên khảo sát chủ thể phát ngôn là tìm đến cơ sở vững chắc để nắm bắt thông tin của văn bản.
Từ trong bản chất, nghệ thuật là một trò diễn. Lịch sử văn học từng tạo ra nhiều loại hình chủ thể phát ngôn tương ứng với không gian trò diễn của nó. Văn học hậu hiện đại tạo ra một không gian trò diễn khác biệt hoàn toàn với không gian trò diễn của văn học bác học trung đại và hiện đại. Không gian trò diễn của văn học trung đại và hiện đại là không gian của tờ giấy, quyển sách, không gian “viết - đọc”. Không gian “viết - đọc” này làm mờ tính chất trò diễn của nghệ thuật, vì nó chuyển trò diễn từ cuộc chơi của hành động, của thị giác và thính giác thành cuộc chơi của tư duy, cuộc chơi của trí não. Quan trọng hơn, nó gần như hoàn toàn loại tác giả và khán giả của trò diễn ra khỏi cuộc chơi. Trong văn bản văn học, chỉ có các nhân vật nói với nhau. Muốn nói gì với người đọc, nhà văn buộc phải nhờ cái đám nhân vật ấy nói hộ. Ngược lại, muốn trò chuyện với tác giả, người đọc cũng phải trò chuyện theo kiểu cách bức như vậy. Văn học trung đại và hiện đại biến trò diễn thành một cuộc giao tiếp ngầm của bộ ba liên chủ thể tác giả - nhân vật - người đọc.
Tiểu thuyết của Đặng Thân dĩ nhiên cũng in trên giấy mực. Nhưng rất dễ nhận ra, không gian ảo của màn hình vi tính là gợi ý quan trọng mà thời đại kĩ nghệ thông tin đã tạo ra và Đặng Thân là người Việt đầu tiên đã nhanh chóng chớp lấy để tạo ra một không gian trò diễn đầy tính cách tân trong tiểu thuyết. Mô phỏng không gian màn hình đa chiều, tiểu thuyết của Đặng Thân vừa làm sống dậy các loại không gian trò diễn tiền văn học và văn học học trung đại, vừa đổi mới tận gốc chức năng và nguyên tắc cấu trúc của chúng. Có thể nhận ra điều đó từ các dữ liệu sau đây.
Thứ nhất: Trong văn học trung đại và văn học hiện đại, chỉ có cái nhan đề ở ngoài bìa là tiếng nói trực tiếp của tác giả. Trong 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] tác giả với cái tên thật Đặng Thân bước hẳn vào trò diễn của văn bản. Thế là ở đây, tác giả tiểu sử hoá thành nhân vật. Nó thực hiện chức năng diễn xướng của người “dọn đám”, “dẫn trò” trong nghệ thuật sân khấu, chức năng người kể chuyện trong nghệ thuật ngôn từ, đôi khi lại thực hiện cả chức năng tựa như của nhân vật hành động của truyện kể.
Thứ hai: Nếu tác giả được biến thành nhân vật, thì các nhân vật lại được biến thành tác giả. Các nhân vật chính trong tiểu thuyết của Đặng Thân, từ Schditt von deBalle-Kant, Ông Bà cho tới Mộng Hường đều có truyện kể riêng, khiến cho chúng thực sự trở tác giả của văn bản.
Thứ ba: Không chỉ nhân vật, mà cả độc giả, với tư cách là những người bình luận của cư dân mạng, cũng trở thành tác giả của một loại văn bản nối liền với văn bản của tiểu thuyết. Tiểu thuyết vì thế tạo thành một tập hợp liên văn bản gợi nhớ tới văn bản của văn học trung đại và trò diễn của sân khấu dân gian tiền văn học. Những ai từng đọc Thuỷ Hử của Thi Nại Am, Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, hoặc các tác phẩm văn học trung đại, đều thấy, phía sau và ngoài lề phần chính văn, còn có vô số những đoạn bình điểm, phê điểm, kiểu như: “Thánh Thán phê”, “Lời bàn của Mao Tôn Cương”. Loại văn bản này được gọi là “mi phê”. “Mi phê” trong văn học trung đại chẳng khác gì những “LỜI BÀN [PHÍM…] CỦA CÁC NETIZEN” trong tiểu thuyết của Đặng Thân. Chỉ có một chỗ khác nhau cơ bản. “Mi phê” trong văn học trung đại là lời nói được chia thành 3 đẳng cấp giá trị khác nhau: “chu phê” (phê bằng mực đỏ, thường là lời của vua), “lam phê” (phê bằng mực danh, thường là lời của các bậc đại khoa, đại quan) và “mặc phê” (phê bằng mực đen, lời phê của kẻ sĩ nói chung). Trong tiểu thuyết của Đặng Thân, ai cũng có thể trở thành cư dân mạng, thành chủ thể lời nói, các chủ thể này được đặt trên cùng một mặt bằng giá trị.
Thứ tư: biến tất cả các chủ thể giao tiếp nghệ thuật thành tác giả văn bản (“tác giả - nhân vật”, “nhân vật - tác giả”, “độc giả - tác giả”), với 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần], Đặng Thân thực sự sáng tạo ra một sàn diễn đa thoại phức điệu hoàn toàn theo kiểu hậu hiện đại. Trên sàn diễn đa thoại, phức điệu ấy, hoàn toàn vắng bóng chủ thể đám đông gây hỗn loạn ở bên dưới, hoặc giữ trật tự ở bên trên và chủ thể câm nín, không có ngôn ngữ (ví như trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, chủ thể lời nói dứt khoát phải thuộc về người chiến thắng – chủ nhân xã hội mới, kẻ thù, quần chúng, nô lệ đều là những chủ thể câm nín, hoặc không có tiếng nói riêng). Ở đây, mọi chủ thể không chỉ có câu chuyện riêng, mà còn có ý kiến riêng thể hiện quan niệm và thái độ của mình trước con người và thế giới. Tiếng nói của các chủ thể ấy tấu lên tạo thành nhiều bè đối độc lập với nhau, không có tiếng nói nào bị lệ thuộc vào bè chủ.
Theo tôi đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam được xây dựng theo cấu trúc đối thoại đa thanh mà Mikhail Bakhtin đã nói tới từ năm 1929.
3. Khung truyện kể và cấu trúc ngữ nghĩa.
Tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] được xây dựng trên một bộ khung truyện kể hết sức đơn giản. Khung truyện kể đơn giản vì nó có rất ít đầu mối. Điều đáng nói là ở chỗ, bên trên bộ khung truyện kể rất đỗi đơn giản ấy, cuốn tiểu thuyết của Đặng Thân đã kiến tạo nên một cấu trúc ngữ nghĩa đa trị, cực kì phức tạp.
Toàn bộ truyện kể đều tập trung vào hai nhân vật đầu mối: Schditt von deBalle-Kant, người Đức và Mộng Hường, người Việt. Đề tài truyện kể cũng hết sức đơn giản: truyện trường tình. Từ hai nhân vật đầu mối, tiểu thuyết kể lại “mười lẻ một” (11) câu chuyện tình. Có một truyện tình của ông bà Schditt. Schditt và mẹ Schditt mỗi người có hai cuộc tình và ai cũng có một cuộc tình với người Việt. Riêng Mộng Hường có những 6 truyện tình: truyện tình với bạn học, với thày giáo, với “vua gạch”, với thằng “Tàu khựa”, với tay Mĩ da đen và với Schditt. Tình tiết của cả 11 câu chuyện tình nói trên đều hết sức đơn giản. Chẳng hạn, với Mộng Hường, truyện tình nào cũng chỉ đơn giản là chuyện lên giường đầy khoái thú với một người đàn ông. Khung truyện kể hết sức đơn giản nhưng tác giả đã tạo ra một cấu trúc cực kỳ phức tạp và đa trị.
Làm được như vậy, thứ nhất, là do tác giả tạo ra được cặp hình tượng phúng dụ. Mộng Hường và Schditt được miêu tả như hiện thân cho phẩm tính của hai bộ phận trên cơ thể con người: não bộ và thân xác nhục cảm. Nếu Schditt là “não bộ”, thì Mộng Hường là hiện hình của “hạ bộ” và phần thân xác nhục cảm. Không phải ngẫu nhiên, nhân vật này còn được gọi bằng một cái tên rất gợi dục: “Mông nặng”. Có ba chi tiết ngoại hình được mô tả nhiều lần để nhấn mạnh đặc điểm nhục cảm ở con người này: “mông”, “vú”, “môi”. Schditt gần như được đồng nhất với sự phát triển của não bộ. Nghị lực phi thường, ý chí vươn lên, chặt chẽ trong tư duy lôgic là những đặc điểm nổi bật của nhân vật này.
Biến phẩm tính của các bộ phận trên cơ thể thành phẩm tính của một nhân vật đàn bà và nhân vật đàn ông, đặt cho nhân vật này cái tên Việt, nhân vật kia cái tên Đức, thế là Đặng Thân đã tạo được hai hình tượng phúng dụ lấp lánh muôn vàn lớp ý nghĩa, làm nổ ra tiếng cười trào tiếu cực sảng khoái.
Nếu Mộng Hường là hiện thân của con người tự nhiên, thì Schditt là hình ảnh của con người văn hoá. Nếu Mộng Hường là hoá thân của con người Việt Nam, thì Schditt là hiện thân của người Đức nói riêng, người Tây Âu nói chung.
Cuộc hôn nhân giữa Schditt với Mộng Hường, nhất là những chuyển biến trong phẩm tính của hai nhân vật ấy ở phần cuối tiểu thuyết vẽ ra bức tranh thế giới với những chuyển động nhân chủng ở thời đại toàn cầu hoá đang diễn ra ráo riết ngay ở đất nước ta. Có lẽ đây là một lớp nghĩa rộng nhất toát lên từ cặp hình tượng phúng dụ này.
Một trong những nguyên nhân tạo nên tính đa nghĩa của tác phẩm này là ở chỗ tác giả đã biến toàn bộ những sự kiện truyện kể như chỉ còn là những cái đinh để ngăn chia, tách tác phẩm ra thành nhiều mảnh, nhiều đoạn để từ đó mở rộng bộ phận ngoại đề; và chính phần nội dung ngoại đề dường như đã trở thành nội dung thay hẳn cho nội dung trung tâm của tác phẩm.
Nhà văn Đặng Thân thể hiện nội tâm
Mấy lời kết luận:
Nhìn lại lịch sử văn học Việt Nam chúng ta thấy giai đoạn nào cũng có những tác giả, tác phẩm xuất sắc, thế nhưng không phải giai đoạn nào cũng có tác giả tạo ra được một bước ngoặt trong lịch sử văn học dân tộc. Trước năm 1945 chúng ta thấy có hai tác giả tạo ra bước ngoặt cho lịch sử văn xuôi là Nam Cao và Vũ Trọng Phụng. Văn chương sau Vũ Trọng Phụng, Nam Cao và Nguyễn Tuân dường như một thời gian rất dài không có gì thay đổi, mãi đến khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện, theo tôi, nó đã tạo ra một cái sự khác, và đến khi Đặng Thân xuất hiện với những tác phẩm như Ma Net, 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] thì lại bắt gặp một bước ngoặt khác. Bước ngoặt mà Đặng Thân tạo ra, theo tôi, chính là bước ngoặt của văn học hậu hiện đại bằng cách tạo ra những không gian trò diễn kiểu khác, những chủ thể với những cấu trúc khác. Đặng Thân thực sự đã tạo ra một tác phẩm đa thanh phức điệu, xây dựng được một khung truyện kể giản đơn để tạo ra ở bên trên một cấu trúc ngữ nghĩa vô cùng phong phú, phức tạp. Với ý nghĩa ấy thì tác phẩm 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một sự kiện văn học cực kỳ quan trọng trong đời sống văn học của chúng ta.
Nhà văn Đặng Thân:
Có một sự ngẫu nhiên, đó là cái ngày tôi bắt đầu viết cuốn sách nó rơi vào ngày 18 tháng 10 năm 2007. Tôi luôn thấy xúc động trước những sự ngẫu nhiên xảy ra, nó hàm chứa một cái gì đó linh thiêng. Và Viện Goethe cũng rất là ngẫu nhiên vô tình tổ chức ngày hôm nay một cuộc làm việc để chúng tôi được đa thoại về cuốn sách. Coi như ngày hôm nay cũng là kỷ niệm 5 năm ngày tác phẩm thụ thai.
Nhà văn Đặng Thân
Tôi muốn nói về chính bản thân nhà văn nghĩ gì. Tất nhiên không nói được hết, tất cả những lời nói sẽ chỉ là những mô hình nhỏ, chỉ mong nói được những cái góc mà chắc rằng chưa nhà văn nào làm điều đó, nói được cái ý trong lòng mình ra với nhiều người. Tôi xin nói một vài điều thôi, ngắn gọn thôi, nhưng chắc chắn chỉ mong ai nghe được những lời này thì sẽ thấy rằng thế giới nội tâm nhà văn nó cũng rất là lẩm cẩm, thậm chí rất là suy đồi.
Độc thoại nội tâm:
“THOÁT GIUN LUẬN?”
Thực sự tôi không biết bắt đầu từ đâu. Đâu đó nói “khởi thủy là lời”. Hình như là Kinh Thánh. Tôi thường thấy khởi thủy là lỗ; mọi sự bắt đầu từ cái lỗ… Mặc dù Thánh hay Chúa cũng có thể sẵn sàng chơi giễu nhại với mình, nhưng chắc chắn có hàng tỷ người sẵn sàng chém chết mình vì cái tội giễu nhại Kinh Thánh… Ít ra ở xứ này tôi biết có một ông tên là Phạm Toàn muốn chém chết tôi bất kỳ lúc nào. Trước khi tôi xuất hiện ông này rất nghênh ngang đặt cái nick của mình là “Phạm Toàn vĩ đại”, từ ngày tôi xuất hiện phải lập tức đổi nick thành “Phạm Toàn khiêm tốn”.
Thôi thì khởi thủy là lời, bắt đầu với lời. Lời… Chúng ta là người Việt, tôi là người Việt, chúng ta nói gì về người Việt. Tiếng Việt 100 năm qua đã có những gì? Sau khi Nho học bị tàn phá, Tây học lên ngôi, rồi các loại lăng nhăng khác… Mình phải viết một cái gì đó về ngôn ngữ, về tiếng Việt. Trót sinh ra ở đâu chắc cũng là một định mệnh, như một định mệnh bất kỳ nào. Đã sinh ra ở đây chắc là phải yêu tiếng Việt, không thể bỏ được. Vậy tiếng Việt nó thế nào? Trước thời kỳ… Từ cái thời lộn xộn đến bây giờ thì nó rất là đa dạng. Rất là mong rằng làm sao để chuyển tải được… Chắc rằng những người đầu tiên nói đến ngôn ngữ thì từ vựng không quá năm nguyên âm. Chắc rằng cách đây hai triệu ba - hai triệu tư năm, những con người đầu tiên ra đời, ngôn ngữ của họ chắc chỉ là những nguyên âm ú ú, ớ ớ. Hồi đó chắc là họ yêu nhau họ chỉ cần nói một từ “ú” hoặc “ớ” là xong. Có lẽ ngôn ngữ chỉ phát triển đến thời kỳ cách mạng công nghiệp, khi mà thế giới, xã hội có nhiều hiện tượng, nhiều những sự kiện, ra đời rất nhiều ngành nghề, sự giao tiếp càng ngày càng phức tạp, ngôn ngữ phát triển theo. Có một ông người Đức là ông Karl Marx, để tỏ tình cảm với người yêu ông ấy đã phải viết… ông ấy ngồi ông ấy chép bốn tập thơ tình, viết thư liên tục, ngày nào cũng viết đến năm tập giấy toàn thư tình, suốt mấy năm giời. Mục đích của ông ấy chắc cũng chỉ để nói rằng “anh yêu em”… thì cũng chỉ tương tự như một từ ngày xưa người ta “hú” một cái. Vậy thì từ lúc chỉ hú một từ đến lúc chép đến bốn tập thơ để tặng, chỉ một lời. Thế còn bây giờ? Từ cách mạng công nghiệp đến thời kỳ cách mạng thông tin chắc chắn ngôn ngữ đã thay đổi, biến chuyển rất là mạnh. Nó có thể không thay đổi đến gốc nhưng chắc chắn là những hình thức diễn đạt thật là phong phú, và phải chuyển tải thế nào? Chắc chắn phải chuyển tải được điều đó trong một tác phẩm, một tiểu thuyết. Và phận tiếng Việt thì nó phải đi với một thân phận Việt.
Nhà thư pháp tương tác một chữ “Điên”
Đâu là một thân phận Việt điển hình? Ông xích-lô ngoài kia chăng? Ông đang nói phét trong cái giảng đường kia?... Nói đến thân phận lớn thì hình ảnh phụ nữ bao giờ cũng ám ảnh, và thân phận phụ nữ Việt là gì? Chắc chắn đó không phải là một cô tân thời, không phải là cô thật là thời trang, cũng không phải một bà răng đen. Chắc rằng là thân phận Việt nó có tất cả những cái đó… Một xã hội chắc chỉ có nông nghiệp, thú vui giải trí lớn nhất chắc chắn là hút thuốc lào. Chà chà, thuốc lào thì chắc cả thế giới này phải nhớ đến Tiên Lãng và Vĩnh Bảo… Chính Colombo đã mang thuốc lào về cho châu Âu. Châu Âu có lẽ là phải nhớ mãi nhà phát kiến Colombo mang về cho họ thuốc lào là một, khoai tây là hai, cà phê là ba, bệnh giang mai là bốn… Chắc rằng thuốc bên Tây có nguồn gốc từ thuốc lào. Đã chọn Tiên Lãng làm điểm khởi phát, và như vậy phải viết về Tiên Lãng. Tìm một người Tiên Lãng, đấy là lý do nhân vật của mình chăc chắn phải xuất phát từ đây. Vậy thì Tiên Lãng có gì?... Nghĩ đi nghĩ lại mình thấy nó có một bản sắc cực kỳ khác lạ. Không hiểu sao mình lại rất mê cái vùng đất đó. Người ta thường nói đến văn minh Việt Bắc Bộ là Bắc Ninh, là Sơn Tây, không hiểu sao Tiên Lãng lại hút tôi về. Ở đó có đủ khí biển, khí núi, nó có cả đồng bằng, có rất là nhiều đặc tính để chúng ta đều phải nghĩ về nó… Cả một vùng Bắc Bộ ấy, nhìn cả một cái cảnh thân phận Việt chắc chắn chỉ thấy thật buồn, yếu ớt, mà tại sao không có một sức mạnh ghê gớm nào có thể khuất phục được nó. Có cái gì bí ẩn ở cái thân phận Việt… Thực sự so với thế giới thì rất là yếu, rất là mềm. Đã có một nhà thiên văn phát hiện ra rằng hướng đất của xứ ta là hướng Đông Nam, nằm đúng hướng của một trong 28 sao là sao Chẩn…
Từ nội tâm đã hiện lên bản thảo
Ta vẫn thường quan sát thiên văn, khắp cả “nhị thập bát tú”. Khi xem độ số sao của nước Việt thì thấy nó nằm đúng phương của sao Chẩn Thủy Dẫn.
“Dẫn” là con giun.
Không biết mình là giun thì không khá lên được. Tuy nhiên Trời không yêu riêng loài nào. Giun có việc của giun, rồng có việc của rồng. Rồng mà thất thế thì cũng không bằng con giun. Giun mà biết phát huy nội lực, hành xử đúng thời thì cũng vinh hiển được vậy.
Thực ra bản chất của giống người cũng rất gần với giun, đa phần là phải đến hoàn cảnh “xéo lắm cũng quằn” thì mới chấn khí lên được. Phương Tây “nhờ” bị quằn quại trong đêm trường Trung cổ mà mới vươn dậy làm cách mạng dân chủ. Nhờ có dân chủ mà mới thành rồng, phượng, hổ, báo. Vì thế mà càng trở nên hung dữ. Không khéo xử là lại quay về làm giun quèn như bỡn. Như thế là có quyền nói dân tộc Việt có thể đại diện cho loài người, nhờ “giun tính” của mình vậy.
Nếu biết khai triển “giun tính” cho đúng việc đúng thời thì lo gì không đến bến vinh quang. Nếu cả nhân loại đều hoằng dương được “giun pháp” thì hòa bình thế giới là trong tầm tay vậy.
Loài giun có đức cực lớn là không cạnh tranh, “lỗ ai nấy rúc”, không cầu cao sang hoành tráng, sẵn sàng “ở chỗ thấp mà chứa được cả thiên hạ” như ý của Lão Tử. Đạo Hòa và Đạo Nhập của nó cực cao. Đức nó gần với đức của nước, mà nước là tượng của “trí”. “Mộc chủ nhân, thủy chủ trí” mà. Tiện đây ta cũng khuyến cáo các bậc giả thức: là trí thức đích thực thì phải học hỏi và thực hành “giun đức”, đặng làm gương cho thiên hạ.
Ai dám bảo giun với rồng là không cùng một họ? [3]
Nhà thư pháp Trịnh Tuấn ngẫu thoại:
“DĨ ĐIÊN VI ĐẠO, DĨ ĐẠO VI ĐIÊN”
Ông ơi, nói xong chưa?
Nói nhiều thế, cho tôi nói với!
Nhà thư pháp Trịnh Tuấn
Hôm nay có vẻ như nhà văn Đặng Thân nói không hay, bằng những gì anh ấy đã viết trong 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần]… Tôi thấy Đặng Thân đang đi hành đạo, giống như là đẽo đạo giữa đường… Trong tác phẩm của ngài, tôi thấy lúc thì ngài giống như một vị thánh, vị thánh ban phát những ngôn lời của Đức Chúa, hay là một nhà tiên tri… Kinh hoàng… Nhưng mà có lúc văn chương của ngài giống như ngôn ngữ rất hạ cấp, rất hạ đẳng… Thế mới vĩ đại! … Đã bao lần cải cách ngôn ngữ… học trò càng ngày càng sai, nhưng trong cái sai biết đâu nhặt ra khối cái đúng… Mà càng nói lắm thì lại càng “ní nuận ní nuận…n…”… Ôi chà… Vốn dĩ trời đất chả nói gì cả, ngàn năm mây trắng trên đầu vẫn bay thôi… Nào chúng ta nghe nhau, chúng ta thỏ thẻ với nhau, chúng ta gào thét nhau…
Tôi quay lại vấn đề tán gái và sáng tác kinh hoàng của Đặng Thân. Có thể nhà phê bình Lã Nguyên chưa tìm đến một giá trị này hay chăng, hay là ông bỏ sót? Hay là ông không nói để nhường cho tôi chẳng hạn. Nhưng biết tán gái là một động lực xuất phát từ nam tính, căn tính của con người… mà những nhà văn nam nếu thiếu cái đó tôi cho rằng sẽ không đủ doping để mà viết. Cái cô Mộng Hường cô ấy cũng hay phết nhỉ. Trộm vía chứ thấy cô ấy ngoài đời thì tôi cũng tán. Sợ tôi tán không được, ông ạ. Ông tán giỏi thế! Thế nhưng mà, nhờ cái cô này, cái thân phận người phụ nữ cần phải chụp lên nó, bao lấy nó, ôm ấp lấy nó, ve vuốt lấy nó như một dòng nước lớn, một dòng nước từ khởi nguyên của loài người, khởi nguyên của vũ trụ, dòng nước ấy là nước… triết. Mà triết học tôi tin rằng cái nôi triết học của nhân loại chính là nước Đức vĩ đại. Tuy nhiên, trong những lời thao thao bất tuyệt tôi vẫn muốn nói rằng Thân rất giỏi ăn cắp. Nhà văn là một sự điển hình của sự ăn cắp, và Thân là một kiệt tác, một chuẩn mực, một anh hùng… về việc ăn cắp. Trí tuệ của nhân gian là trí tuệ vĩ đại. Và ăn cắp được trí tuệ nhân gian đưa vào trong tác phẩm của mình là một điều vĩ đại. Không có người vĩ đại nào đi nhả trí khôn của mình ra cho người khác xem cả… Người vĩ đại là người sử dụng được cái trí tuệ lớn lao kia, khổng lồ kia để giải mã cấu trúc cơ bản của con người, giải mã những vấn đề mà đâu đó ở một chuyên môn khoa học không làm được…
Và Thân đã viết ở đầu cuốn sách: “Nếu bạn chẳng chờ đợi gì ở cuốn sách này thì có thể sẽ gặp được cái mình hằng mong đợi”. Có lẽ đó cũng là câu tôi xin khép lại bài ngẫu hứng của mình.
Nhà văn Đặng Thân nói chuyện:
“ĐỨC LÀ HÌNH TƯỚNG CỦA ĐẠO, ĐẠO LÀ VƯỢT”
Mối liên hệ gì đã tạo ra cái ngày ở Viện Goethe này, dính đến cuốn sách này? Tại sao người Đức, văn hóa Đức lại có mặt ở trong cuốn sách? Để tiết kiệm thời gian tôi xin nói vắn tắt và không “độc thoại nội tâm” nữa. Gọi là nói chuyện vài câu.
Lúc nãy quý vị đã thấy nước chúng ta nằm ở phương Đông Nam, theo thiên văn nó nằm đúng phương của sao Chẩn Thủy Dẫn. Nó thật là đáng thương như chúng ta đã thương nó rất nhiều, và chúng ta cần phát triển thì chúng ta thiếu cái gì? Thế thì tôi suy nghĩ một cách giản dị, tôi xem trên bản đồ các hướng Đông-Tây-Nam-Bắc, chiếu thẳng hướng Đông Nam lên chúng ta sẽ gặp hướng Tây Bắc, xem ở đó có cái gì để cặp với nhau, hỗ trợ cho những phẩm tính của nhau. Ở hướng Tây Bắc chúng ta thấy một nước Phổ/Đức vĩ đại, chúng ta thấy một nước vĩ đại nữa là nước Anh. Như vậy, trong cái hành trình tôi đẻ ra một cái nhân vật thân phận Việt và tôi đi tìm một người cặp với nó, một partner… Hướng về phía Tây Bắc thấy ánh sáng của nước Anh và nước Đức, nhưng tại sao người Anh lại không thể vào cuốn sách này? Hình như phẩm tính của người Anh họ có cái gì đó tròn trĩnh, họ không cần đối tác. Những người đã không cần đối tác thì chúng ta chẳng có cách nào đối tác được với họ; nhưng, người Đức thì họ có cái gì đó duy lý bậc nhất và họ ngược lại hoàn toàn phẩm tính phía Đông Nam của chúng ta. Chúng ta rất mềm họ rất rắn, chúng ta rất à ơi họ rất kỷ luật, chúng ta tuy nghèo nhưng phóng khoáng họ thì ki bo lắm… Cái phẩm tính của chúng ta giúp chúng ta survive tức là vượt qua được để mà sống, nhưng để làm nên một cường quốc thì chắc chắn cũng phải tham khảo phẩm tính của một cường quốc phía Tây Bắc ấy. Và đấy là lý do cả một dòng họ [người Đức] từ đời ông, đời cha, đời con đã bước vào sách của tôi. Mục đích duy nhất tôi cũng chỉ muốn phản ánh được toàn diện, theo cách nhìn của tôi, về đối tác lớn nhất đối với tâm linh, đối với phẩm tính Việt Nam… Nguyên tắc ở trên đời những cái gì xa nhau, trái nhau thì hút nhau, chúng ta rất cần phẩm tính đó.
Những vị khách đến nghe bằng tiếng Đức (qua lời dịch của Lê Quang)
Chúng ta thường hèn và nghèo, và chúng ta thường dễ bị sụp đổ khi chúng ta yếu đuối nhất. Nhưng đừng có nghĩ người Đức không bao giờ sụp đổ: họ thường không được thành công lắm khi họ mạnh nhất. Điều đó thật là đáng tiếc, lúc mạnh nhất lại không vươn tới được sự thành công đích thực… Chúng ta cần cái phẩm tính đó, nhưng chắc chắn trong cuộc quan hệ này họ cũng cần những phẩm tính từ phía thật là uyển chuyển… Khi tôi viết những dòng cuối cùng thì nó cũng đã cách đây hơn bốn năm, và khởi đầu thì cách đây năm năm. Và đến gần đây thì chúng ta, nước Việt Nam vừa mới tiếp một vị lãnh đạo nước Đức khá đặc biệt.[4] Ông ta sinh ra ở Việt Nam, nhưng thường xuyên nói rằng: tôi chẳng có gì Việt Nam, tôi chỉ có cái hình hài của người da vàng mũi tẹt, còn tôi là một người Đức 100%. Đó là tuyên ngôn của ông ta với báo giới, thậm chí kể cả các nhà báo Việt Nam gặp ông ấy. Tôi nghĩ đó là một ví dụ của sự thành đạt mang một phẩm tính từ châu Á, từ phía Đông Nam, từ phía của sao Chẩn Thủy Dẫn. Ông ấy thường xuyên bảo mình không liên quan tới Việt Nam, nhưng mà tuyên ngôn tranh cử của ông ấy là nói về cây tre. Ông ấy dậy đảng viên Đảng Dân chủ Tự do của ông ấy rằng: chúng ta phải như cây tre, nghiêng về mọi phía nhưng không bao giờ đổ. Chả biết ông ấy bảo mình không phải Việt Nam thì ông ấy học cái món ấy ở đâu ra. Rồi cái triết lý thứ hai của ông ấy là về con ếch và cái nồi. Ông ấy bảo nếu ném con ếch vào cái nồi nước sôi thì nó sẽ nhẩy ra ngay và nó không làm sao cả, nhưng mà nếu ném con ếch vào cái nồi nước nguội rồi đun dần dần thì nó sẽ chết dần dần trông ấy mà nó sẽ không bao giờ nhẩy ra. Cái kiểu lạt mềm trói chặt, cái kiểu cây tre ấy, thì cũng có thể ông ấy nghĩ mình là người Đức đấy nhưng mà một cái mạch ngầm khủng khiếp đã cho ông ấy cái cách làm như vậy. Và đấy là lý do để ông ấy thắng cử. Cách đây vài ba tháng ông ấy gặp trục trặc khủng khiếp, có áp lực cho ông ấy phải xuống ngôi Chủ tịch, nhưng chỉ sau đó thì cái đảng của ông đã lập lại trật tự, và các lãnh đạo khác của đảng lại tiếp tục tôn vinh ông. Tóm lại, cái phẩm chất của cây tre, cái phẩm chất của cái việc lạt mềm buộc chặt ấy nó đang thắng thế và ngày càng vươn lên ở bên xứ Đức.
Đấy là cái mạch tâm sự rằng là tại sao lại có cái mối quan hệ để có thể ngồi đây nói chuyện thì nó có liên quan đến chuyện đó. Đấy là tóm tắt câu chuyện của chúng tôi về những cái đã trình bầy.
2260
2301
2260
219771
130677
114572714