Ở địa hạt tiểu thuyết, ông có gần một chục tác phẩm ăn khách được đăng nhiều kì trên các nhật báo và trở thành một cây bút nổi tiếng, đảm bảo cho tiếng tăm cũng như doanh thu của toà soạn với bút hiệu: Hoài Điệp Thứ Lang.
Trong vai trò của một người làm công việc nghiên cứu – phê bình văn chương, ông có nhiều bài viết sắc sảo, tinh tế được đăng trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín; viết nhiều công trình nghiên cứu có giá trị; nắm bắt nhanh nhạy những biến chuyển của đời sống văn nghệ; đưa ra nhiều kiến giải sâu sắc cũng như nhiều nhận xét xác đáng… Đây là một trong số nhiều quan niệm của ông về người làm công tác nghiên cứu văn học:
Nhà làm sử văn học, nếu ghi chép được cái tinh tế vang bóng trung thành của những cuộc đời văn nghệ, có lẽ cũng dễ dàng hình dung được cả gương mặt thời đại cùng cái bối cảnh xã hội thời đó [23, tr.9].
Còn ở các thể loại khác, Đinh Hùng cũng có nhiều tác phẩm hay, có giá trị nghệ thuật cao.
Tuy nhiên, hiện nay, người ta chủ yếu chỉ nhớ đến Đinh Hùng với tư cách là một nhà thơ và vẫn chưa có bất kì công trình hay bài viết nào đi vào nghiên cứu, tìm hiểu mảng văn xuôi của Đinh Hùng. Theo chúng tôi là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đóng góp quan trọng nhất cho văn học của ông chính là thơ, thể loại in đậm dấu ấn cá nhân, dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của ông nhất. Ông đã là một nhà thơ thành công, một nhà thơ nổi tiếng từ thời tiền chiến. Và sau khi di cư vào Nam, cái duyên của Hoài Điệp và thi ca vẫn tiếp tục được gìn giữ, gắn kết khi ông làm Trưởng Ban Tao Đàn trên Đài Phát thanh Sài Gòn góp phần giới thiệu, giúp đỡ nhiều thi sĩ trẻ lúc bấy giờ. Cho nên, việc các trước tác văn xuôi của ông bị “lu mờ” cũng là điều dễ hiểu.
Nguyên nhân thứ hai là do việc sử dụng bút danh của Đinh Hùng. Đến với tiểu thuyết, ông đã chọn cho mình một cái tên mới: Hoài Điệp Thứ Lang. Theo khảo sát của chúng tôi thì không có nhiều người biết đó chính là chàng thi sĩ Hoài Điệp thuở nào dù những tiểu thuyết được đăng nhiều kì, được xuất bản thành sách của ông rất nổi tiếng vào thời điểm đó. Điều này tuy là một rào cản, ảnh hưởng đến việc tìm hiểu, đánh giá sự nghiệp văn chương của Đinh Hùng nhưng mặt khác cũng là điều đáng mừng. Bởi vì, nó cho thấy sự thành công của ông khi dấn bước vào thể loại tiểu thuyết thoát khỏi cái bóng, thoát khỏi sự nổi tiếng của một thi sĩ Đinh Hùng.
Nguyên nhân thứ ba, cũng là nguyên nhân quan trọng nhất, chính là hiện nay rất khó có thể thu thập được các tác phẩm văn xuôi của Đinh Hùng. Thiếu sót lớn nhất của chúng tôi trong khi viết luận văn này là đã không thể tiếp cận toàn bộ các tác phẩm của Đinh Hùng dù đã cố gắng và đã chấp nhận bỏ ra một khoảng thời gian dài cho việc tìm kiếm. Và tất yếu, điều này sẽ rất dễ dẫn đến cái nhìn phiến diện, ảnh hưởng không nhỏ đến công việc khảo sát, đánh giá tác phẩm.
Dù thế, chúng tôi cũng hy vọng qua những gì góp nhặt được có thể góp phần nêu ra nhiều vấn đề, đóng góp một cái nhìn, một ý kiến đánh giá khách quan nhất trong khả năng có thể đối với các trước tác văn xuôi của Đinh Hùng.
3.2. Kí
3.2.1. Hồi kí
Hầu hết những trang hồi kí của Đinh Hùng chúng ta đều có thể tìm thấy trong quyển Đốt lò hương cũ. Đó là cuốn sách mà theo tác giả là « sẽ thường xuyên gợi nhớ lại gương mặt của quá khứ trong khoảng 20 năm qua, để chúng ta có thêm ít nhiều tài liệu không tìm thấy trong sách báo thư viện » [23, tr.10].
Chúng ta, những người đang sống hôm nay, những người chưa từng đặt bước vào cõi chết, và cũng chưa đi tới chặng đường tận cùng của cuộc sống, chúng ta sẽ cách biệt với họ biết chừng nào, nếu không còn lại đây một chút phản hồn trên vài trang sách cũ, một chút vang bóng trên vài nét bút xưa, một thoáng nghi dung qua nhiều kỉ niệm [13, tr.17].
Vậy thì chúng ta hãy cùng ngồi xuống đây, lần giở những trang sách cũ để cùng nhớ, cùng tiếc, cùng thương cho những văn nghệ sĩ đã khuất bóng, những người đã và sẽ có mặt mãi mãi trong cuộc sống tinh thần chung của dân tộc, trong cả cuộc sống văn nghệ riêng của mỗi người. Vì phải chăng hiện tại này ít nhiều cũng đã làm bằng những hình bóng của dĩ vãng? [23, tr.14].
Đầu tiên, ta hãy đến với Tản Đà. Viết về thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu ấy, Đinh Hùng đã dành cho ông những dòng chữ quí yêu, trân trọng:
Điều đáng quí ở bậc đàn anh thi sĩ đó, chính là ở chỗ tiên sinh rất khinh bạc, khó tính đối với thiên hạ - cái thiên hạ thế nhân “mắt trắng” gồm những kẻ trưởng giả hào phú, những kẻ “tai to mặt lớn” ít nhất cũng có tư thế hoặc danh vị thiết thực và trị giá cao hơn cái danh nghĩa “Văn sĩ ký giả học sinh” của chúng tôi (chính tiên sinh đã từng đóng cửa không tiếp một ông lớn, đeo đủ cả cái bài ngà cùng mề-đay, có đủ cả lính tráng bưng trap điếu theo hầu, đến nhà tiên sinh để xin một bài thơ mừng thọ…) nhưng tiên sinh đã rất vui lòng tiếp chúng tôi, không phân biệt tuổi tác, cũng chẳng kể chúng tôi chỉ là những anh chàng học sinh chưa ra đời, chưa bầy vai với cả lớp môn đệ ít tuổi nhất của tiên sinh. Đáng quý, chính là tấm lòng thi sĩ cởi mở và bao dung, bát ngát như mây non Tản, như nước sông Đà, với mối tình thanh khí vô cùng phóng khoáng và cũng rất mực hào sảng của tiên sinh [23, tr.24-25].
Tìm hiểu về một thi sĩ, không chỉ dựa vào các sáng tác của họ mà còn căn cứ vào những điều bên ngoài tác phẩm để hiểu thêm, để có thêm một góc nhìn, một cách lí giải, một sự gợi ý… trên con đường tìm hiểu, nghiên cứu nhà thơ. Và người viết tin rằng, qua những trang viết thú vị của Đinh Hùng, những nhân vật trong đó sẽ hiện lên với cái dáng vẻ sinh động nhất của mình. Ví như trường hợp của thi sĩ Tản Đà, nhiều người đã biết ông là một nhà thơ có tửu lượng vào loại thượng thừa trong giới văn nghệ sĩ đương thời, nhưng có lẽ ít người biết ông cũng là một người đã nâng việc ẩm thực lên tới một nghệ thuật tinh vi [23, tr.26]. Ta hãy đọc những dòng chữ sau của Đinh Hùng: “Mâm rượu của thi sĩ Tản Đà là cả một bản hợp tấu điều hoà đủ mùi, sắc, hương vị, hình thái, cả âm thanh nữa, tiết điệu đơn giản mà linh động, hấp dẫn: trên chiếc mâm vỉ cổ kính – thứ mâm gỗ hình chữ nhật vành son, sơn then – nhà thơ bày la liệt những đĩa, những chén nho nhỏ xinh xinh, đựng linh tinh các món gia vị: chút tương vàng óng, chút nước mắm ô long nâu thẫm, những trái ớt đỏ tươi, những quả chanh cốm xanh ngắt, và đĩa rau diếp thái nhỏ điểm lên những cánh rau thơm, rau mùi, rau ngổ hái ngay ở vườn nhà, và đĩa rau muống chẻ non bẽo – thứ rau muống Sơn Tây trắng nõn như ngó cần – không thiếu từ chút hạt tiêu sọ, thêm cả một con cà cuống băm, mấy củ hành hoa, đĩa lạc rang, vài chiếc bánh đa vừng… Đặc biệt, những gia vị đó đều chia ra làm nhiều đĩa, nhiều chén, đủ bốn phần dàn ra bốn góc mâm như kiểu ăn chả cá” [23, tr.27]. Đọc đoạn văn trên của Đinh Hùng, chắc sẽ có nhiều người bỗng nhớ đến những trang viết của Vũ Bằng trong Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam; của Thạch Lam trong Hà Nội băm sáu phố phường và lại có cái cảm giác thích thú giống như ngửi thấy “hương cuội”, giống như được ăn một bát phở của cụ Nguyễn Tuân. Dẫu vẫn biết không thể so sánh Đinh Hùng với những đỉnh cao của thể loại văn xuôi đó, nhưng ở trường hợp này, cái khoái cảm do những trang văn mang đến cho người đọc cơ bản lại giống nhau. Và chúng tôi tin rằng, trong một chừng mực nhất định, Đinh Hùng là một người dấn thân thành công.
Người thứ hai được ông ưu ái dành tặng nhiều trang viết nhất chính là Thạch Lam.
« Trong khi chúng tôi yên trí rằng những người làm văn nghệ đi lớp trước chúng tôi, thứ nhất những người nổi tiếng như Tự-lực Văn-đoàn và như Thạch Lam, hẳn chẳng bao giờ để ý tìm hiểu những kẻ đến sau, thì trái lại, Thạch Lam không hề có thành kiến phân biệt lứa tuổi, Thạch Lam vẫn nhìn bao quát tất cả mọi hướng trời, vẫn theo rõi từng bước đi của bọn chúng tôi mệnh danh là “thế hệ trẻ” thời đó. Với cặp mắt quan sát rất tế nhị mà khoan hoà, tác giả “Hà-nội băm sáu phố phường” đã không bỏ qua từ sắc thái, từ chi tiết, từ mỗi biến chuyển hết sức mong manh của đô thành văn nghệ. Và Thạch Lam đã không bỏ qua tới cả một đoạn tuỳ bút nhỏ của một cây bút mới. (… ) » [23, tr. 37]
Đó là những dòng chữ trong bài Những kỉ niệm “chia ngọt xẻ bùi” cùng Thạch Lam. Bài viết gồm có bốn phần: Sơ ngộ, Sóng rượu hồ Tây, Men xuân quê nhà Thạch Lam và Cơn say chưa tỉnh. Qua đó, người đọc không chỉ hiểu thêm về mối giao tình khắng khít giữa Đinh Hùng với Thạch Lam mà còn biết thêm về “cái nếp sinh hoạt” của nhiều nghệ sĩ đương thời và rộng hơn là cái bầu không khí văn nghệ thời ấy:
« Những người bạn văn nghệ mà tôi thường gặp ở nhà Thạch Lam dạo đó là: Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu, Thế Lữ (cùng cả vợ “nhỏ” là nữ kịch sĩ Song Kim), anh bạn thơ Huyền Kiêu, Nguyễn Tường Bách, Đỗ Đức Thu, Đoàn Phú Tứ, đôi khi Nguyễn Xuân Xanh, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Lương Ngọc, và một lần, Nguyễn Tuân, một lần Nguyễn Đỗ Cung…
Tất cả những người kể trên đều có lần tụ họp tại nhà Thạch Lam, thường thường qua mâm rượu, thỉnh thoảng quanh chiếu tổ tôm hay cạnh khay trà… »[23, tr.44].
Từ chuyện những nhà văn uống rượu thâu đêm suốt sáng vặt cả hoa sen làm đồ nhắm rồi còn bày trò “ngông” thi bơi qua hồ Tây đến chuyện đi nghe hát ả đào (trong bài Thạch Lam thẩm âm) chắc hẳn sẽ làm nhiều người thích thú. Bởi những nhà văn được độc giả yêu mến trong suốt thời gian qua nay đã được hiện lên qua những trang viết Đinh Hùng rất sinh động, hấp dẫn. Như thế, bạn đọc sẽ có thể nhận thấy được nhiều nét tính cách của họ ở bên ngoài những trang văn. Nhưng nói gì thì nói, Thạch Lam vẫn là một nhân vật chính, vẫn là một người bạn lớn của Đinh Hùng và luôn được thi sĩ kính yêu, trân trọng. Cho nên, hoàn toàn có cơ sở khi xem đây là một tài liệu đáng quí cho những người nghiên cứu văn học, nhất là những người quan tâm đến Thạch Lam: “(…) Thực quý báu biết bao nhiêu, tấm lòng rộng mở thiết tha của anh Thạch Lam đối với nghệ thuật ở mọi địa hạt, trên mọi cương vị! Và đối với người nghệ sĩ của Cái-Đẹp-Toàn-Diện như Thạch Lam, thì lựa chọn một món ăn ngon cũng có giá trị không kém gì viết một câu văn truyền cảm, và khám phá được một thứ mỹ tửu cũng quan trọng ngang với gieo được một vần thơ trác tuyệt, hoặc tìm thấy một người bạn hiền” [23, tr.38].
Ta có thể an lòng mà đặt niềm tin vào thi sĩ, bởi nếu không có sự cảm hiểu sâu sắc làm sao Đinh Hùng có thể viết được những câu như sau: “Tôi tin rằng trong những cơn say, Thạch Lam đã bắt gặp được những cái gì lạ lắm. Ít nhất, trong lúc say, người ta sống với cái thần tri phiêu diêu bên ngoài cả không gian và thời gian. Cho nên Thạch Lam không muốn tỉnh, vì những lúc tỉnh, anh nhìn thấy không gian thì tù hãm, thời gian ngắn quá, chẳng vô cùng. Anh lo sợ “thời gian đi mất” đó. Một năm trước khi chết, thái độ sống của anh là một thái độ sống hào phóng, khoáng đạt, vì chính ở nếp sống đó, anh đã thấy mình sống được “nhiều” hơn, “bao trùm” hơn. Sống như vậy, anh đã nắm giữ được phần nào cái “thời gian sắp mất”, và khi thời gian ấy đi mất hẳn, thì anh cũng không còn tiếc hận gì, vì anh đã từng hoà đồng vào nó rồi – nghĩa là trong giây phút xuất thần nào đó, anh đã hoà mình vào vĩnh-cửu (…)” [23, tr. 55].
Có thể nói, nhờ Đinh Hùng, độc giả sẽ tìm thêm được nhiều góc nhìn để hiểu, nhiều lí do để yêu thêm nhà văn tài hoa này!
Và tất nhiên, hồi kí của chàng Hoài Điệp cũng không thể thiếu những trang viết dành riêng cho mình, dành riêng cho những người con của Hà Nội:
“(…) Tuổi trẻ của chúng tôi đã tham dự vào tất cả những biến cố lịch sử đáng kể nhất của tiền bán thế kỉ 20: Chúng tôi đã sinh trưởng, lớn lên, và khởi sự “nhập cuộc”- khởi sự bước chân vào cái thế giới thần thoại của Yêu Đương, Mộng Ảo, và Văn Nghệ - từ trong lòng một Hà Nội thanh bình, một Hà Nội đang hồi cực thịnh của trào lưu Lãng Mạn tiền chiến (1935-1940). Để rồi, tuổi thanh xuân của chúng tôi đang độ nở hoa bồng bột nhất, liền bị giao động đến tột cùng bởi những sóng gió cuồng loạn khởi đầu cho Cơn Mê Hoảng Dài của Thời Đại Chiến Tranh Nguyên Tử…”[23,94].
Những dòng chữ ở trên được chúng tôi trích ra từ bài Hà – Nội văn nghệ những ngày báo hiệu loạn ly. Có thể xem đây là một lát cắt hiện thực của Hà Nội, của lịch sử dân tộc trong một khoảng thời gian đầy biến động. Xin hãy đọc, để thấy hiện ra trước mắt cái không khí của thủ đô, cái “gương mặt thủ đô trước cơn bão loạn”, “gương mặt người tình trước thời khắc ly tan, chỉ cần một nét chau mày, cũng đủ mang ý nghĩa một điềm linh ứng” [tr.95].
Đinh Hùng đã mất nhưng những trang hồi kí chân thật của ông thì hãy còn. Đó không chỉ một tài liệu quí cho những nhà nghiên cứu văn học sử, mà còn xứng đáng khi được gọi là tác phẩm văn chương. Và mong rằng từ đây, cái “tiếng nói”, cái “đôi mắt” mà Đinh Hùng đã gửi lại trong từng dòng hồi kí sẽ được đón nhận.
3.2.2. Thuật kí
Quyển thuật kí (theo cách gọi của tác giả) duy nhất của Đinh Hùng có tên Ngày đó có em (dựa vào lời bài hát Ngày đó chúng mình của Phạm Duy) do Nhà xuất bản Giao Điểm ấn hành vào năm 1967 viết về đời thơ của thi sĩ Bích Khê qua “những bóng dáng đàn bà trong đời”. Đây là cách tiếp cận hợp lí, phù hợp nhất đối với Đinh Hùng, bởi lẽ, từ chính cuộc đời mình, ông quá hiểu sự tác động của những bóng hồng đến thi giới của một nhà thơ là như thế nào. Và chắc chắn nhiều người sẽ bất ngờ khi biết chàng Hoài Điệp đã viết như một người nghiên cứu văn học thực sự: tỉ mẩn chắp vá từng mảnh kí ức của bà Ngọc Sương (chị ruột thi sĩ Lê Quang Lương); “xử lí”, lí giải từng mẩu chuyện, từng dòng thư để có thể phác hoạ ra diện mạo của “thi sĩ thần linh” một cách chân thực, sống động, để có thể tìm thấy một con đường khả dĩ nhất dẫn vào thi giới Bích Khê:
« Giấc mơ tình ái diễm tuyệt của Bích Khê, không ai biết rõ đã chập chờn những bóng dáng nào kì lạ? Và cuộc đời tình ái cuả Bích Khê, có lẽ cả những người bạn thanh khí với chàng cũng không thấu suốt từng uẩn khúc riêng tư, chỉ trừ một vài người thân trong chính gia đình thi sĩ. Theo tài liệu của một vị trong quyến thuộc nhà thơ, trình bầy như những trang hồi ký, tôi xin thuật lại ở đây, không thêm bớt, câu chuyện tình duyên của cố thi sĩ Bích Khê, với tất cả những khuôn mặt giai nhân từng ẩn hiện trong thơ chàng như những biểu tượng tiên nữ, hồ ly... » [22,tr.10].
Cái hay của Đinh Hùng là đã luôn tỉnh táo để trong khi thuật lại chuyện tình của Bích Khê theo từng chặng đường đời vẫn chỉ ra được những dấu vết của nó trong các tác phẩm của thi sĩ. Để rồi từ đây, bóng dáng của Song Châu – người tình đầu tiên- trong bài Đôi mắt, Tấm bia đề trước mộ; của Thanh Thuỷ trong Ngón giai nhân; và nhất là của nàng Ngọc Kiều trong một loạt thi phẩm sau này: Tỳ bà, Hoàng hoa, Ảnh ấy, Nghê thường, Làng em, Nấm mộ… sẽ được người đi sau nhận biết và căn cứ vào đó để lí giải, để chạm đến được hồn thơ của Bích Khê. Chúng tôi cho rằng, đây là điều có nhiều giá trị trong việc nghiên cứu. Bởi như chúng ta đã từng tìm hiểu hình bóng của những Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương… trong thơ Hàn Mặc Tử; hình bóng của Rimbaud trong thơ Verlaine (có cả chiều ngược lại)…hay như hình bóng của Kiều Hương, của nàng Liên trong sáng tác của Hoài Điệp. Bởi nói như Đinh Hùng thì: Những trang giai nhân từng dạo qua đời sống Bích Khê, dù muốn dù không, ít nhiều cũng đã chịu phép hoá thân màu nhiệm của tia mắt nhìn thi sĩ [22, tr.63]. Bởi vì qua đó, ta có thể thấy được sự chuyển dịch của nàng thơ (cảm hứng) vào trong tác phẩm, nghĩa là ta có thể nhận biết được quá trình hoạt động sáng tạo của “thi sĩ thần linh”: “Vậy thì những trang giai nhân từng dạo qua đời sống Bích Khê – những Người-Yêu-Của-Thi-Sĩ hay là Những-Người-Được-Thi-Sĩ-Yêu, những Song Châu, Thanh Thuỷ, Ngọc Kiều… chỉ còn là chất liệu! Chất liệu, vật liệu hay thi liệu cũng thế” [22, tr.66].
Thêm nữa, trong Ngày đó có em…, ngoài việc cung cấp nhiều thông tin quan trọng về cuộc đời của Bích Khê, Đinh Hùng còn cho thấy mình đã hoàn thành tốt vai trò của một nhà phê bình văn học thực thụ khi đã phân tích, lí giải và chỉ ra nhiều đặc điểm trong hồn thơ Bích Khê bằng những nhận định tinh tế, xác đáng:
« Tiếng thơ Bích Khê rạo rực những cảm giác ân tình nồng cháy. Từng dòng chữ mê cuồng níu kéo từng dòng chữ. Từng điệp âm vời gọi từng điệp âm. Mỗi tiết nhịp nghe nóng ran từng hơi thở. Mỗi vọng thanh tưởng kèm theo cả cơn gió rùng mình. Và những đảo ngữ, những chuyển cung, cả những chỗ ngừng, chỗ nghỉ cũng làm nên hồi hộp, bất ngờ. Và từ điệu nhiều lúc rạt rào thác lũ, sôi nổi cuồng lưu; cũng có lúc thao thức, quằn quại, da diết như một thân thể đang bừng bừng cơn sốt bạo hành. Vì lời thơ Bích Khê, từng dòng, từng chữ, bất cứ lúc nào cũng toả lên sinh khí ngùn ngụt, tưởng chừng có thể mọc lên da thịt thực sự.
Đó là Thơ-Tinh-Huyết.
Đó cũng là Thơ-Tinh-Hoa » [22, tr.65].
Theo người viết, đó là một trong những lời phê bình thơ Bích Khê vào loại hay nhất. Ta thấy, rõ ràng phải thật sự đồng cảm, phải thật sự am hiểu thơ Lê Quang Lương thì Đinh Hùng mới có thể viết ra được những dòng chữ như thế. Chúng tôi cho rằng: sự đồng cảm ấy không chỉ phát xuất từ những bi kịch giống nhau trong cuộc đời mà cả hai thi sĩ đã gặp phải mà còn có một nguyên nhân khác quan trọng không kém, đó là do hai nhà thơ đều chịu ảnh hưởng mạnh của chủ nghĩa tượng trưng. Chính vì điều này mà Đinh Hùng có thể nắm bắt được dễ dàng được sự hình thành hồn thơ của Bích Khê. Bằng chứng là đây:
« Sự thành hình một hồn thơ tượng trưng như trường hợp Bích Khê là một công trình tự tu, tự tạo gian khổ lâu dài – có thể gọi là một cuộc luyện kim (alchimie), một hiện tượng không phải dễ dàng phân tách hay theo rõi. Chẳng rõ Bích Khê có trải qua “một cuộc xáo trộn mênh mông trường kỳ và đạt lý tất cả mọi giác quan” như kiểu nhà thơ thấu thị Rimbaud (in long, immense et raisonné dérèglement de tous les sens), nhưng, tạo được những đoá hoa lạ như Tinh Huyết và Tinh Hoa chắc chắn Bích Khê đã phải sống những phút giây mặc khải tuyệt vời – phút giây xuất thần, phút giây vĩnh cửu – với những cảm giác khoái lạc hay đau đớn? ảnh tượng lệ kiệu hay quái đản? khung cảnh sóng gió hay bình yên? Đó là niềm bí mật chỉ riêng nhà thơ hiểu thấu, mà có khí đến chính nhà thơ cũng không thâu hội được hết ý nghĩa những đường, nét, sắc, màu chập chờn, hỗn độn hiện ra trong cơn tột hứng » [22, tr.67].
Và như thế, liệu còn có ai có thể cảm hiểu một nhà thơ tượng trưng ngoài một thi sĩ tượng trưng với lòng trân quí như vậy?
Đáng tiếc là cho đến nay, quyển Ngày đó có em…-một tài liệu quí giá cho nhiều nhà nghiên cứu văn học, vẫn chưa được nhiều người biết đến (chúng tôi đã khảo sát nhiều bài viết tham gia Hội thảo thơ Bích Khê do Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi phối hợp cùng với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức và nhận thấy không có nhà nghiên cứu nào nhắc đến cuốn sách này của Đinh Hùng). Nhưng dù sao thì bây giờ, hy vọng qua luận văn này, Đinh Hùng sẽ không còn bị lãng quên nữa khi đã góp phần vào việc tìm hiểu, đánh giá tài năng của thi sĩ Bích Khê, một nhà thơ còn khá bí ẩn của nền văn học nước nhà.