3.3. Tiểu luận – phê bình
Các bài tiểu luận – phê bình chỉ chiếm số lượng ít ỏi trong sự nghiệp văn học của Đinh Hùng. Tuy thế, chúng có những giá trị nhất định và hé lộ nhiều điều về ông.
3.3. Tiểu luận – phê bình
Các bài tiểu luận – phê bình chỉ chiếm số lượng ít ỏi trong sự nghiệp văn học của Đinh Hùng. Tuy thế, chúng có những giá trị nhất định và hé lộ nhiều điều về ông.
Viết về thi sĩ, hoạ sĩ Phạm Hầu, Đinh Hùng có bài Tiếng đàn xưa. Vì sao Đinh Hùng lại viết về một thi sĩ không mấy tên tuổi chỉ có vỏn vẹn khoảng 20 bài thơ như vậy? Vì Đinh Hùng và Phạm Hầu đều cô đơn đến mức khốc liệt: nếu như Đinh Hùng cảm thấy lạc lõng, xa lạ ngay với cả những người thân yêu trong gia đình mình thì Phạm Hầu, theo tác giả Thi nhân Việt Nam, cũng chỉ là “một cái bóng giữa đời, chân đi không để dấu giữa đường”. Vì giữa hai hồn thơ đó có nhiều điểm chung đáng kinh ngạc: bài thơ nổi tiếng nhất của Phạm Hầu là bài Vọng hải đài, và cái Vọng hải đài chơ vơ ấy nào có khác gì cái “ngọn hải đăng” lẻ loi vẫn án ngữ suốt trong thơ Đinh Hùng bấy nhiêu năm nay? Cho nên, Đinh Hùng viết về Phạm Hầu mà như viết cho chính mình:
« (…) Thi sĩ Phạm Hầu tuy đã rụt rè tìm đến với cuộc đời, nhưng vẫn ngờ cuộc đời hờ hững, nên thi sĩ đành ủ kín “mối tình kiêu” như chính lời thi sĩ đã tự thú nhận. Từ đó, người thơ đứng giữa cuộc đời, kề bên những tấm lòng thiên hạ, mà vẫn xa xôi, đơn chiếc như một ngọn hải đăng cô tịch, đêm đêm viễn võng ngoài cửa bể mênh mang, để chỉ tìm thấy toàn những bóng hình du khách ghé qua lòng mình giây phút rồi lại đi xa » [23, tr.110].
Cho nên, Đinh Hùng không ngần ngại bộc lộ sự đồng cảm sâu sắc:
“Đọc thơ hoặc xem tranh Phạm Hầu, người ta cũng chỉ thấy một cảm giác duy nhất. Tâm hồn của thi sĩ, dù diễn tả bằng ngôn ngữ, từ điệu, hay bằng hình thể, sắc màu, cũng vẫn chỉ là một tâm hồn nghệ sĩ khao khát Vô Cùng và Tuyệt Đối – niềm khao khát điển hình của lớp nghệ sĩ tiền chiến, trước hệ thống trật tự đảo lộn của giá trị tinh thần, bị tràn lấn bởi văn minh vật chất đoạ lạc của xã-hội thực-dân phong-kiến, lớp nghệ sĩ ấy đã nhận thấy mình “sinh nhầm thế kỷ” nên luôn luôn muốn tìm cách tự giải thoát. Khao khát Vô Cùng và Tuyệt Đối gần như là cái bệnh thời đại của tầng lớp tri thức không muốn tự thả mình vào cơn lốc quay cuồng của thế sự.
Phạm Hầu, cũng như Vũ Hoàng Chương, Thâm Tâm, J. Leiba cùng một số thi sĩ khác đương thời, đã nói được phần nào cái “Bâng Khuâng Lớn của Thời Đại”” [23, tr.114].
Hoàn toàn có thể xem đấy như là một tuyên ngôn cho những nhà thơ tiền chiến. Một nhận định rất có giá trị trong việc tìm hiểu, nghiên cứu những thi sĩ đương thời.
Cũng trong bài viết này, có một thông tin rất thú vị mà có rất ít người được biết. Đó chính là bài thơ Những hướng sao rơi nằm trong tập Mê hồn ca của Đinh Hùng là để tặng riêng cho Phạm Hầu.
Và có thể nói, chân dung của tác giả Vọng hải đài qua ngòi bút của Đinh Hùng đã hiện lên sinh động, rõ ràng đến không ngờ.
Không dừng lại ở đó, Đinh Hùng còn có một số bài viết khác như: Một thi gia “lớp trước” cụ Ưng Bình Thúc Giạ (1877-1961); bài Phan Bội Châu – nhà thơ cách mạng thuần tuý; Một mùa tưởng niệm: Nhớ tới ba nhà thơ đã khuất bóng Nguyễn Đình Chiểu – Phan Thanh Giản – Nguyễn Du… Nhìn chung, các bài viết cho thấy được sự kĩ lưỡng của Đinh Hùng khi viết; đã cung cấp nhiều thông tin khái quát về cuộc đời, sự nghiệp văn học, đồng thời cũng nêu ra được một số đặc điểm trong thơ của thi sĩ. Có lẽ đáng chú ý nhất là thái độ của Đinh Hùng đối với cụ Phan Thanh Giản:
“Tấm lòng trung liệt của Phan Thanh Giản, ai mà không nhận thấy? Cái chết của họ Phan đã có giá trị một sự hy sinh cao quý: tự huỷ một thân mình để giữ cho an toàn trăm họ, hành động ấy xét ra còn có ý nghĩa hơn là một cuộc kháng cự đến cùng chỉ gây thêm đổ vỡ.
(…) Có điều: luận công hay định tội thì người chết cũng đã chết rồi, và tiếng thơm của kẻ sĩ tiết tháo vẫn còn nguyên vẹn, không một bản nghị án nào có thể làm tăng thêm hay suy giảm. Người đã khuất bóng không cần nói gì để tự bào chữa. Từ ngày ấy tới nay, đã có dư luận minh oan hộ Người, và gần một trăm năm lịch sử đã thẩm xét thái độ của Người” [23, tr.127].
Và chính thái độ này đã thể hiện được quan điểm rất nhân văn của Đinh Hùng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, xét dưới góc độ văn chương, chúng tôi nhận thấy các bài viết trên vì chỉ nhằm mục đích tưởng nhớ, chỉ dừng ở mức độ giới thiệu một cách khái quát nên không có nhiều nét mới, thiếu hẳn những ý kiến, những nhận định nhạy cảm, tinh tế, sâu sắc thường thấy ở Đinh Hùng.
Trái lại, Cái "Thái Dương Hệ” Thi Ca lại là một bài viết khá thú vị của Đinh Hùng. Bởi vì ông đã mượn chuyện của Baudelaire, mượn cái chuyện xung đột của Baudelaire với cái xã hội Pháp đương thời để nói về những nghệ sĩ ở thời đại mình với những xung đột giữa cái cũ và cái mới:
“Vậy mà người thơ đó đã không được thời đại của ông thông cảm. Nghĩ cũng đáng buồn! Đáng buồn vì xã hội thời Baudelaire quá ư “tôn ti trật tự”! Cái xã hội mực thước tuy vừa sống qua cơn gió lãng mạn dịu mát, nhưng cũng chỉ mới chịu đựng được những câu thơ âm điệu đoan trang của một Lamartine, một Hugo, một Leconte de I’Isle hoặc một Hérédia! Cái văn phong của thời đại ấy, vẫn còn khuôn theo những kiểu mẫu lý tưởng của nền văn hoá cổ La-Hy, chỉ mới chấp nhận được cái đẹp cân đối của Vệ Nữ thần, chưa thể chấp nhận được vẻ đẹp của một… cái đầu đàn ông, hay một thân hình đen bóng như gỗ mun của một cô gái miền nhiệt đới – một Jeanne Duval, cô nhân tình bồ hóng của Baudelaire! Bởi vậy, cũng không chấp nhận được một thiên tài vượt kích thước như tác giả Ác Hoa”[23,170].
Và Đinh Hùng tin rằng “phải ở vào một thời đại ấm nóng lắm, mới có những thần đồng trong văn học như Minou Deouet, 8 tuổi, Francoise Sagan, chưa tới 20 tuổi, được đưa lên ngai cao tráng lệ của lâu đài Nghệ Thuật” [23, tr.175].
Tóm lại, đây là một bài viết hay, thể hiện được nhiều quan niệm thẩm mỹ mới mẻ, tiến bộ của Đinh Hùng.
Ngoài ra không thể không nhắc đến bài Người thơ thuần tuý Nguyễn Du trong Văn tế thập loại chúng sinh. Có thể nói, cùng với Baudelaire, Tố Như là người được Đinh Hùng rất kính phục và đã dành nhiều trang viết tâm huyết của mình cho ông. Theo chúng tôi thì đây là bài phân tích, bình luận kĩ lưỡng, công phu nhất của Đinh Hùng. Và nó đã được chọn in trong quyển Chân dung Nguyễn Du, do Nhà xuất bản Nam Sơn ấn hành vào năm 1971 và sau đó được đưa vào quyển Nguyễn Du: Về tác gia tác phẩm do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1998.
Thông thường nhắc đến Nguyễn Du, người ta sẽ nghĩ ngay đến Truyện Kiều. Hơn thế nữa, nhiều người còn tuyệt đối hoá tác phẩm này lên thành tác phẩm hay nhất của Thanh Hiên. Đinh Hùng thì không. Ông cho rằng:
“‘Tiếng vọng Tố Như’ không chỉ có Đoạn trường tân thanh mới đáng kể là tiêu biểu mà còn có Văn tế thập loại chúng sinh tức là Thơ chiêu hồn. Tuy ảnh hưởng thực tế không lan rộng như Truyện Kiều, nhưng tầm quan trọng của áng thơ nhất khí này không phải vì thế mà kém Truyện Kiều.
Vả lại, giữa hai áng thơ kiệt tác, không có vấn đề hơn kém giá trị. Cả Truyện Kiều cùng Văn tế thập loại chúng sinh đều giúp cho ta tìm hiểu con người toàn vẹn của Nguyễn Du. Và phải có cả hai, Nguyễn Du mới thực sự là Nguyễn Du” [29, tr.140].
Hơn thế nữa, ông còn tự đặt ra giả thuyết:
« Thiếu Đoạn trường tân thanh quả thực là một thiếu thốn lớn lao cho làng thơ cổ điển Việt Nam. Ngược lại nếu Nguyễn Du chỉ tạo nên một Đoạn trường tân thanh mà không sáng tác Thơ chiêu hồn, có thể danh tiếng Nguyễn Du vẫn không suy giảm, cõi đời cũng không ai bị mất mát thiếu thốn gì… Những người sống vẫn yên ổn. Những người viết văn học sử vẫn có nhiều tài liệu khác đủ chứng minh cho cái vốn tinh thần phong phú của dân tộc. Nhưng, bao nhiêu cô hồn lạc loài phiêu bạt giữa thời gian vô tận ở cõi u minh lạnh lẽo sẽ thiếu mất một niềm thương bát ngát dâng lên lời kinh cầu nguyện chí thành, một cung đàn từ bi mầu nhiệm gửi về “thế giới bên kia” » [29,141].
Lập luận rất chắc, rất thông minh và câu trả lời cũng thông minh không kém. Nói như thế chẳng phải là muốn khẳng định cái sức mạnh tâm linh nằm trong từng con chữ của Văn tế thập loại chúng sinh hay sao? Nói như thế chẳng phải là ca ngợi thi tài của Nguyễn Du có thể làm kinh động quỉ thần hay sao?
Chọn cách so sánh Văn tế thập loại chúng sinh với Truyện Kiều là một cách hay, một hướng đi mới mẻ và hợp lí. Bởi với Đinh Hùng, sự so sánh này nhằm để ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp của cả hai tác phẩm:
« Nếu Truyện Kiều ví như một toà lâu đài uy nghi dựng lên giữa cuộc sống biến diễn từng lớp kịch nhân tình bi hoan, thì Thơ chiêu hồn là ngọn hải đăng cô tịch chiếu ánh sáng ngoài cửa biển đêm dài, soi đường cho những con thuyền lạc lõng trên sóng nước mù sương » [29, tr. 143].
Đó là một trong những lời nhận xét mang đấm dấu ấn của Đinh Hùng. Rất ấn tượng!
Rõ ràng phải yêu Văn tế thập loại chúng sinh lắm Đinh Hùng mới có cái phát hiện mới mẻ và rất hay này:
“(…) Văn tế thập loại chúng sinh của thi sĩ Nguyễn Du viết ra vì lòng thương xót những vong hồn u mê trôi dạt trên đường hoá sinh, nhưng cũng chính là những lời cảnh tỉnh thâm trầm gửi cho lũ người sống mê ảo của trần gian, những con người sống cũng như đã chết, hoặc đang chết dần chết mòn để rồi đi vào tiêu diệt, vì không sống bằng tim, không sống với hồn, không sống với cái ý niệm linh hồn trường cửu, không sống với cái hình ảnh cõi chết hiện sinh…
Đó là tác dụng bất ngờ của nghệ thuật, mà chính tác giả thường cũng không lượng được trước” [29, tr.142].
Và người viết tin có khi Đinh Hùng cũng không lượng được trước giá trị của những câu chữ của mình.
Tựu trung, mặt hạn chế dễ thấy của Đinh Hùng chính là các bài viết thường “một màu”, chủ yếu chỉ dựa vào cái khung tiểu sử rồi tiến hành các thao tác phân tích. Điều này không sai nhưng làm giảm sự linh hoạt trong ngòi bút của ông và dễ khiến độc giả có cảm giác nhàm chán. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh thời đại, và dưới góc độ “văn phong báo chí” thì hoàn toàn có thể thông cảm được. Và quan trọng hơn cả là khi viết về bất cứ “gương mặt thi nhân” nào ông cũng đều viết kĩ lưỡng, khảo sát nghiêm túc tư liệu với thái độ trân trọng đối tượng. Đó chẳng phải là điều đáng quí hay sao?
2158
2347
2819
220330
130677
114573273