Người xứ Nghệ

Lệ thần Trần Trọng Kim (1883 - 1953): Học giả & Chính khách

Theo bản Phả hệ trong Gia phả - Khảo luận và thực hành của Dạ Lan Nguyễn Đức Dụ (Thụ) – NXB Văn hóa, H.1992 thì viễn tổ của chi họ Trần làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là Quận công Trần Tán Tri. Từ ông tổ đời thứ nhất Trần Tán Tương đến Trần Bá Huân, thân sinh Trần Trọng Kim, là đời thứ 10.

Trần Bá Huân (1838-1894), Trần Trọng Kiên (1841-1885) và Trần Duy Thành (1843-1902) là ba anh em ruột, con Trần Văn Bính (đời thứ 9). Các ông Bá Huân, Trọng Kiên đều tham gia phong trào cần vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo từ rất sớm, hoạt động ở vùng Phú Yên – Vụ Quang. Trần Trọng Kiên hy sinh ngày mồng ba tháng tám năm ất dậu (1885), được dân làng Phú Yên thờ làm Thành hoàng(1). Trần Bá Huân tiếp tục chiến đấu và mất năm giáp ngọ (1894).Trần Bá Huân có ba người con: Trần Bá Hoan, Trần Trọng Kim và Trần Thị Liên. Ông Bá Hoan có 6 người con, trong đó có Trần Trọng Nghĩa (thứ tư) về ở làng Kim Đôi (Thạch Kim, Thạch Hà). Bà Trần Thị Liên là đảng viên Đảng cọng sản, họat động ở Thị xã Hà Tĩnh (khoảng 1930-1937).(2)

Trần Trọng Kim hiệu Lệ Thần, sinh năm nhâm ngọ (1882, Phả hệ ghi 1883) trong gia đình nho học yêu nước ấy. Lúc nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà, năm 1897 học trường Pháp – Việt Nam Định. Năm 1900 thi đỗ vào Trường thông ngôn và tốt nghiệp năm 1903. Năm 1906, nhân có Hội chợ đấu xảo tại Mác-xây (Marseille - Pháp), ông xin làm một chân thợ khảm để được đi với Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) sang dự. Sau hội chợ, ông xin ở lại để học thêm tại các trường ở Ác-đe-sơ (Ardèche), Li-ông (Lyon) rồi tiếp tục học ở Trường thuộc địa, Trường Sư phạm tiểu học Mơ-loong (Melum).

Năm 1911 về nước, Trần Trọng Kim lần lượt dạy ở Trường trung học bảo hộ, Trường Hậu bổ rồi Trường nam sư phạm. Năm 1921, ông được cử làm Thanh tra các Trường tiểu học Pháp-Việt. Khoảng 1931-1933, ông dạy Trường sư phạm thực hành rồi làm Giám đốc các trường nam tiểu học ở Hà Nội. Thời gian này, ông tham gia Hội khai trí tiến đức, làm Phó trưởng ban Ban văn học của Hội. Ông cũng là Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo. Ông còn được bầu làm nghị viên Hội đồng dân biểu Bắc kỳ.

Năm 1943, Trần Trọng Kim vừa về hưu thì một năm sau, người Nhật lấy cớ “giúp các ông tránh sự bắt bớ của Pháp” (?) đưa ông và chí sĩ Cử nhân Dương Bá Trạc (1884-1944) bí mật sang Chiêu Nam (Singapore). Ông Dương mất ở Chiêu Nam, còn ông thì được quân đội Nhật đưa về nước. Sau cuộc đảo chính hất cẳng Pháp 9-3-1945, Nhật “trao trả độc lập” cho vua Bảo đại. Bảo đại mời Trần Trọng Kim và một số nhà trí thức có tiếng tăm ra lập Nội các ở Huế.

Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ. Chính phủ Trần Trọng Kim tự giải thể. Trần Trọng Kim sang Hồng Kông ít lâu, rồi về Sài Gòn, lên Đà Lạt. Tháng 9-1953, Bảo đại lại được Pháp đưa về làm “Quốc trưởng”, liền vời ông làm “Chủ tịch Hội đồng quốc gia”. Nhưng ông lâm bệnh và mất ngày 26 tháng 10 năm quý tỵ (2-12-1953) tại Đà Lạt, thọ 71 tuổi.

 

I. HỌC GIẢ

Trần Trọng Kim là một học giả có tiếng tăm đầu thế kỷ XX. Tác phẩm của ông khá phong phú, có thể chia ra các mảng lớn:

a- Sách về sư phạm và sách giáo khoa có: Sư phạm khoa yếu lược (1916), Sư phạm yếu lược (1918), Sơ học luận lý (1914), Sơ học An Nam sử lược (1917), Việt Nam văn phạm (Hợp soạn, 1941).

Riêng bộ sách giáo khoa bậc sơ học, soạn cho học sinh các lớp Đồng ấu, Dự bị, Sơ đẳng (Sử ký – Địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa thư) của Trần Trọng Kim và các cọng sự Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận – những người “sâu sắc cựu học, vững vàng tân học”, được đánh giá rất cao. Trịnh Văn Thảo, trong Nhà trường Pháp ở Đông Dương, viết: Đó chính là những “giá trị dân tộc đích thực”. Nhóm biên soạn, đứng đầu là Trần Trọng Kim, xứng đáng được đánh giá cao, là những nhà sư phạm sáng giá, những nhà biên soạn sách giáo khoa mẫu mực của một giai đoạn lịch sử giáo dục của dân tộc ta.(3)

 

b- Sách về văn học có: Truyện Thúy Kiều (cùng với Bùi Kỷ, 1925), Hạnh thục ca (Chú thích cổ văn, 1936), Đường thi (Dịch, 1944), Việt thi (1946), Một cơn gió bụi (Hồi ký 1945-1953 (1971).

Truyện Thúy Kiều của hai học giả Trần Trọng Kim – Bùi Kỷ hiệu thảo, Trần Trọng Kim đề tựa, do Việt văn thư xã – Vĩnh Hưng Long thư quán Hà Nội in lần đầu năm 1925, được tái bản tại Hà Nội, Sài Gòn đến lần thứ VIII. Về văn bản, bản này chịu ảnh hưởng của bản Kiều Oánh Mậu, nhưng phần “khảo dị”, “chú thích” rất tốt. Trên cơ sở bản này, cụ Bùi Kỷ chú thích, hiệu đính lại và được Nhà xuất bản Phổ thông Hà Nội in năm 1958 và tái bản đến lần thứ V. Trong các bản Kiều in chữ quốc ngữ thì bản Trần Trọng Kim – Bùi Kỷ được phổ biến sâu rộng hơn cả trong mọi tầng lớp nhân dân ta.

 

c- Sách về lịch sử có: 47 điều giáo hóa triều Lê (có bản dịch ra tiếng Pháp - 1928), Việt Nam sử lược (Quyển Thượng và Quyển Hạ - 1921), Vương Dương Minh (1934)…

Đúng như tên gọi, Việt Nam sử lược “chỉ cốt ghi chép những chuyện trọng yếu” để “làm thế nào cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết đôi chút sự tích nước nhà cho khỏi tủi quốc hồn” (TTK). Sách soạn xong năm 1919, in lần đầu vào năm 1921, đến 1951 đã được Nhà xuất bản Tân Việt, Hà Nội in lại lần thứ tư. Sách viết tinh giản nhưng đầy đủ, có hệ thống, nhận xét khách quan… một thời được nhiều tầng lớp người đọc hâm mộ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong một hồi ký, kể lại: Trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Bác Hồ đã yêu cầu cán bộ đi tìm bộ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim về chuyển cho các cán bộ lãnh đạo ở Trung ương đọc. Nhưng về sau, bộ sách không được lưu hành trong trường Đại học, và cả “Phòng đọc hạn chế” của Thư viện quốc gia Hà Nội cũng không cho ai trông thấy (!). Đến năm 2000, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh in lại bộ sách, vẫn “lược bỏ đi đôi chỗ xét thấy không phù hợp với cách nhìn của chúng ta ngày nay” (!).

Tác phẩm về lịch sử của Trần Trọng Kim không nhiều, nhưng ông vẫn được coi là người có vị trí xứng đáng trong giới sử học nước nhà.

 

d- Sách nghiên cứu về Nho giáo, Phật giáo có: Nho giáo (1930-1932), Phật giáo thuở xưa và Phật giáo ngày nay (1938), Phật lục (1940). Ngoài ra ông còn có các sách: Quan niệm về nhân sinh, Vũ trụ đại quan (1943).

- Nho giáo gồm ba tập I, II và III in vào những năm 1930-1932, là bộ sách viết về đạo Nho bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở nước ta. Trong lời tựa in lần đầu, tác giả viết: “Việc làm quyển sách nói về Nho giáo tức là việc vẽ lấy cái bản đồ của Nho giáo”, “bản ý của chúng tôi là mong bày tỏ được cái đạo của thánh hiền ra…” và “cảm tạ hai ông bạn là ông Phó bảng Bùi Kỷ và ông Cử Trần Lê Nhân đã giúp đỡ chúng tôi trong khi khảo cứu thường gặp những chỗ khó hiểu, cùng nhau bàn bạc được rõ hết mọi ý nghĩa”. Cụ Phan Khôi viết về bộ Nho giáo: “Một cuốn sách nói về Nho giáo tường tận, tinh tế như vậy thật là trong cõi Việt Nam ta, từ xưa đến nay chưa hề có, mà cũng chỉ có người nào đã chịu phép “bóp tem” của khoa học như Trần quân thì mới nói được ra. Cho nên công việc này nói thì mích lòng, đâu có thể trông mong được ở những nhà Nho cổ hủ” (P.N.T.V, 1930, Sài Gòn). Tuy nhiên, cụ Ngô Tất Tố, dưới bút hiệu Thuyết Hải lại viết: “… Té ra trong bộ Nho giáo còn có nhiều chỗ khuyết điểm, không phải tốt đẹp trọn vẹn như lời giới thiệu của Phan quân”. Cụ Ngô hỏi lại thì cụ Phan đáp: “Cố nhiên Nho giáo không phải là sách hoàn toàn như ý chúng ta đã muốn. Nhưng nền văn học nước mình hiện nay trống trơn, chưa có chi hết, thế thì đối với những cuốn có công như cuốn Nho giáo, chúng ta cần phải chín bỏ làm mười để khuyến khích người khác. Nếu cứ cầu toàn trách bị, thấy chỗ dở là công kích bừa đi, e rằng sau này không ai dám nghĩ đến việc trứ thuật nữa” “…tôi tán đồng ý kiến ấy của ông Khôi…” (Báo Thời vụ - Từ số 80-11/1938 đến số 87-12/1938). Như vậy, dù có những ý kiến phê phán, nhưng các nhà khảo cứu đương thời cũng đều thừa nhận Nho giáo là một công trình khảo cứu được viết “tường tận, tinh tế” mà trước đó chưa hề có. Trong “Lời nói đầu” bộ Nho giáo do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin – Hà Nội in lại năm 2001 cũng viết: “Trong những bộ khảo luận về Nho học xuất bản ở nước ta cho tới nay, bộ Nho giáo của Lệ Thần Trần Trọng Kim vẫn được đánh giá cao”.

Về sách Phật học của Trần Trọng Kim, Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo sử luận, viết: “Những bài khảo cứu của Trần Trọng Kim cho ta biết là… ông đã để ra rất nhiều thì giờ để khảo cứu và học hỏi về Phật giáo. Ông đã nghiên cứu về các tông phái Đại thừa và Tiểu thừa, về thế giới quan và nhân sinh quan của đạo Phật. Ông cũng đã phiên dịch Bát Nhã tâm kinh từ Hán văn ra Quốc ngữ. Nhà xuất bản Tân Việt – Sài Gòn đã ấn hành các tác phẩm Phật lục, Phật giáo thuở xưa và Phật giáo ngày nay, và Phật giáo trong Ba bài Diễn thuyết của ông. Phật lục là một tập sách phổ thông về Phật học… Phật giáo thuở xưa và Phật giáo ngày nay có ba chương… nói về Phật giáo Tiểu thặng và Phật giáo Đại thặng, … về Phật giáo nước Tàu, … và … về Phật giáo ở Việt Nam, lại có một phần phụ lục dịch “Trì danh Diệu Hạnh luận” và “Sơn cư bách vịnh” và “nhiều bài Diễn thuyết rất vững chãi về Phật học”. “Trần Trọng Kim đóng góp không những về phần nghiên cứu và phổ biến Phật học mà còn về phần tổ chức của Hội Bắc kỳ Phật giáo nữa” (SĐD).

 

Đánh giá về tác phẩm của Trần Trọng Kim, nhà văn, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan có nhận xét: “Đọc tất cả các văn phẩm của Trần Tọng Kim, người ta thấy tuy không nhiều, nhưng quyển nào cũng vững vàng chắc chắn, không bao giờ có sự cẩu thả. Ông có cái khuynh hướng rõ rệt về loại biên khảo; chỉ đọc qua nhan đề các sách của ông, người ta cũng có thể thấy ngay hết lịch sử đến đạo Nho, đến đạo Phật, rồi lại đến mẹo luật tiếng Việt Nam. Ông là một nhà giáo dục, nên những sách của ông toàn là sách học cả. Văn của ông là một thứ văn rất hay, tuy rất giản dị mà không bao giờ xuống cái mức tầm thường; lời sáng suốt, giọng lại thiết tha, như người đang giảng dạy. Lối văn ấy là lối văn của một nhà văn có lòng thành thật” (Nhà văn hiện đại – 5 tập, H.1940).

 

Sinh trưởng trong một gia đình nho giáo lâu đời, lại là một trí thức tân học thuộc vào lớp khá sớm, Trần Trọng Kim vừa có kiến thức sâu rộng về văn hóa Âu Tây, lại thấm nhuần văn hóa Á Đông. Ông đã có nhiều thành tựu trong lĩnh vực khảo cứu, biên soạn, dịch thuật…Đặc biệt các tác phẩm của ông luôn có tính giáo dục cao và chứa đựng tinh thần dân tộc sâu sắc. Chính những công trình như vậy đã đưa ông lên hàng những học giả có tiếng tăm đầu thế kỷ XX.

 

II. CHÍNH KHÁCH

Từ một học giả, Trần Trọng Kim bổng nhiên thành một chính khách. Năm 1944, ông cùng Dương Bá Trạc được người Nhật đưa sang Chiêu Nam (Singapore) nói là để giúp họ tránh khỏi bị Pháp bắt.

Quả là trước đó chưa mấy ai nghe nói Trần Trọng Kim có hoạt động chính trị, còn chí sĩ Dương Bá Trạc (1884-1944) thì rất quen thuộc với quốc dân. Ông là anh ruột các nhà giáo Dương Quảng Hàm, Dương Tụ Quán, quê làng Phú Thị (Hưng Yên), đỗ Cử nhân lúc 16 tuổi, không ra làm quan. Năm 1904, ông cùng Phan Châu Trinh lên Yên Thế gặp Hoàng Hoa Thám, rồi về dạy trường Đông Kinh nghĩa thục. Năm 1908, ông bị Pháp bắt, kết án 15 năm tù, đày ra Côn Đảo. Sau 20 tháng ở Đảo, ông bị đưa về an trí ở Long Xuyên, rồi bị trục xuất về Bắc. Toàn quyền Xa-rô (Albert Saraut) muốn mua chuộc lớp trí thức cũ, định đưa ông ra làm Tri huyện. Ông từ chối, chỉ nhận phụ trách phần Hán văn của báo Nam Phong. Sau đó, ông làm chủ bút tờ Văn học tạp chí. Ông là một sáng lập viên của Hội Phật giáo Bắc Kỳ và tờ báo Đuốc Tuệ. Tiếp đó, ông làm Chủ bút tờ Đông Tây báo và dự định ra tờ Nam Việt công dân nhưng bị đình. Khi Nhật vào Đông Dương (1940), ông có ảo tưởng dựa vào Nhật để đánh Pháp. Ngày 29-10-1943, ông cùng Trần Trọng Kim vào Sài Gòn một tháng, rồi sang Chiêu Nam… (Từ điển Văn học – Bộ mới).

Trước đó, Nhật cũng đã đưa Trần Văn Ân và Đặng Văn Ký qua Chiêu Nam.

Đặng Văn Ký, trong bài Hậu tự cuốn Đường thi (dịch) của Trần Trọng Kim (NXB Tân Việt – S.1974), viết:

“Trần quân Văn Ân cùng tôi qua Chiêu Nam trước ba tháng. Kế hai cụ Trần và Dương sau cùng sang. Trong cảnh lữ thứ cô tịch, được có hai cụ, chúng tôi cảm thấy bớt được vài phần. Trong hai gian phòng nơi Phú Sĩ binh trạm lữ quán, bốn hình bốn bóng, ngày ba lần ăn, đọc báo, xem sách, bàn thời cục. Như thế mãi mãi cảnh không thay đổi, ngày dài như năm. Vì vậy mà có tập thi này ra đời, do cụ Trần phiên dịch, cụ Dương hiệu đính. Khi tập thi này được 120 bài, thì cụ Dương mắc phải bệnh phế nham, nghĩa là bệnh nhọt ở trong phổi. Vì nỗi đau đớn ấy mà cụ Trần gác bút…”

Về việc này, báo Cờ giải phóng số 3 ngày 15-2-1944 viết: “…Tháng 9 năm ngoái, sau khi phát-xít Ý tan rã, Nhật liền hạ lệnh cho các đảng phái Việt gian thân Nhật (…) họp “Đại hội” ở Sài Gòn, thống nhất lại thành một đoàn thể thân Nhật lấy tên chung là “Việt Nam phục quốc đồng minh hội”… Giặc Pháp biết tin, tháng 11 đã bắt mấy tên lãnh tụ thân Nhật… Bọn Việt gian còn lại hoảng sợ, chạy núp dưới nách giặc Nhật. Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc ở Bắc kỳ, Trần Văn Ân, Đặng Văn Ký ở Nam kỳ, sau một thời gian trốn trong sở hiến binh Nhật, đã được giặc Nhật đưa đi Tân Gia Ba để chuẩn bị dùng về sau.”…

Một tài liệu khác cho biết: Từ khi Nhật vào Đông Dương (1939), trùm tình báo Nhật Usabe rất quan tâm tập hợp lực lượng phản động thân Nhật ở Việt Nam. Nhật đưa Trần Văn Ân, Đặng Văn Ký đang hoạt động ở Pháp về, lập đảng Việt Nam độc lập. Chúng cử người đi Nga học, tìm hiểu phương thức hoạt động của cọng sản để tìm cách phá hoại lâu dài.

Đồng thời, Nhật cũng không bỏ sót nhóm chính trị gia già nua, ôn hòa như Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc. Theo nhận định của Nhật thì những người này có quan hệ tốt với Nhật, nhưng chống Việt Minh thì ít hiệu quả so với Ngô Đình Diệm, Trần Văn Ân. Tuy nhiên, họ có uy tín ở Hà Nội, Sài Gòn, và đang muốn dựa vào Nhật để khỏi bị Pháp khủng bố.

Trong hai người cùng sang Chiêu Nam với Trần, Dương, Trần Văn Ân chưa rõ tiểu sử, nhưng theo nhận định của Nhật, thì “chống Việt Minh có hiệu quả ngang với Ngô Đình Diệm”. Còn Đặng Văn Ký (1899-1975) từng hoạt động trong phong trào yêu nước, năm 1940, bị Pháp bắt đưa đi trại tập trung Tà Lài, Bà Rá. Năm 1944, Nhật đưa sang Chiêu Nam. Trong hai cuộc kháng chiến, ông có chân trong tổ chức văn học yêu nước chống văn hóa đồi trụy Mỹ ở miền Nam. Ông là người hoạt động văn hóa, báo chí có tên tuổi (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam).

Như vậy, trong số mấy người sang Chiêu Nam hồi ấy, không phải cùng một giuộc, là Việt gian, tay sai Nhật cả, tuy việc nhận rõ trắng đen không hề dễ dàng.

*

Ngày 9-3-1945, Nhật làm đảo chính lật đổ Pháp. Lúc này, chiến tranh Thái Bình dương mở rộng và ngày càng bất lợi cho Nhật. Do đó, Nhật không muốn có sự thay đổi đột ngột làm xáo trộn, gây rắc rối và bất ổn ở Đông Dương. Nhật chỉ tước khí giới, làm tê liệt quân đội Pháp, đề phòng làm hậu thuẫn cho Anh Mỹ khi quân Đồng minh vào, mà giữ nguyên bộ máy hành chính và đội ngũ viên chức Pháp. Nhật đề nghị vua Bảo đại đứng ra tuyên bố nền độc lập của Việt Nam và nắm quyền bính, nhưng giữ lại ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là nhượng địa và Nam Bộ là thuộc địa của Pháp.

Báo Cờ giải phóng (số 11 ngày 25-3-1945) viết: “…Nỗi khổ tâm của Nhật lúc này là chưa chọn được một Uông Tinh Vệ Việt Nam đủ “tư cách” làm bù nhìn để kêu gọi nhân dân Việt Nam theo Nhật”.

Nhưng, theo T.S Lê Xuân Khoa (nguyên Phó viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, hiện vào quốc tịch Mỹ) trong cuốn Việt Nam 1945-1995 (NXB Tiên Rồng, Hoa Kỳ, 2004) trích in trong sách Luật sư Phan Anh (NXB CAND, H.2011), thì từ lâu, viên Trung tá tình báo Nhật Hayashi Hidezumi đã chuẩn bị cho Hoàng thân Cường Để, lãnh tụ nhóm “Phục Quốc” về thay thế Bảo đại và cho Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng. (Lực lượng vũ trang của nhóm “Phục quốc” đã theo quân Nhật về đánh Pháp ở Lạng Sơn ngày 23-9-1940. Ngô Đình Diệm từ lâu cũng đã liên hệ với nhóm này. Năm 1944, Nhật đã phải cho Diệm cải trang thành một sĩ quan Nhật, đưa từ Huế vào Sài Gòn ẩn trong một nhà thương quân đội để khỏi bị Pháp bắt). Mãi đến 1-1945, trước cuộc đảo chính hai tháng, Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuichi mới quyết định không dùng con bài Cường Để.

Nhật bỏ Ngô Đình Diệm và cả Phạm Quỳnh – một học giả thân Pháp, đang làm Thượng thư bộ Lại – là những người có kinh nghiệm chính trị, mà đưa Trần Trọng Kim một học giả có uy tín, về lập Nội các. Nhật chỉ đặt bên cạnh nhà vua viên Đại sứ ở Đông Dương Yokoyama làm “Tối cao cố vấn”.

Bảo đại không ngờ Nhật vẫn để cho mình làm vua, liền giải tán Hội đồng cơ mật gồm Thượng thư sáu bộ, tuyên bố từ nay sẽ tự mình cầm quyền.

Vua điện mời một số đại thần cũ (Hoàng Trọng Phu, Trần Văn Thông) và trí thức tân học (Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền, Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh, Lưu Văn Lang, Phan Anh) hỏi ý kiến.

Theo Trần Đình Nam, “Tình hình thế giới luôn biến chuyển, chưa chắc Nhật đã đứng vững được lâu. Cho nên bây giờ chơi với Nhật, thì chỉ nên đưa ra những lá bài thân Nhật, cụ thể là nên giao cho Ngô Đình Diệm lập một Nội các hẹp, ba bốn người thôi”. Bảo đại đồng ý, và sau khi gặp những người khác, đã nhận xét: “Hai ông quan già chẳng có ý kiến gì hay ho, còn ba anh trẻ, từng học ở Pháp, thì đều đồng ý giải pháp Nội các hẹp với Ngô Đình Diệm. Bảo đại còn nói thêm: Phan Anh là người thông minh hơn cả bọn” (Phạm Khắc Hòe – Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc – NXB Hà Nội, 1983).

… Trong khi chờ tin Ngô Đình Diệm thì khoảng 5-4-1945, Trần Trọng Kim về Huế. Sau khi được yết kiến Bảo đại và gặp Trần Đình Nam, Trần Trọng Kim cũng tán thành giải pháp Ngô Đình Diệm, và theo đề nghị của Trần Trọng Kim, một bức điện thứ hai triệu tập Ngô Đình Diệm đã được Tối cao cố vấn Yokoyama nhận chuyển đi.” (Phạm Khắc Hòe – SĐD)

Nhưng Ngô Đình Diệm không ra Huế (do Nhật không chuyển điện, hay nhận điện mà từ chối (?). Bảo đại triệu Trần Trọng Kim vào tiếp kiến lần thứ hai, và ngày 17-4-1945 danh sách Nội các do Trần Trọng Kim làm Tổng trưởng (Thủ tướng) được vua Bảo đại chuẩn y, gồm:

1. Trần Đình Nam (1896-1974) y sĩ Đông Dương, Bộ trưởng Nội vụ (Ông là con út ông Nghè Trần Đình Phong, quê Nghệ An, làm việc tại Đà Nẵng. Ông phát hiện nhiều tài liệu mật, chứng cứ việc Phạm Quỳnh câu kết với Pháp, và là người tích cực vận động Chính phủ Trần Trọng Kim từ chức. Thời chống Mỹ, ông sống ở Đà Nẵng, là một nhân sĩ yêu nước được trọng vọng).

2. Trần Văn Chương (?-?), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Ngoại giao (Ông là con Tổng đốc Trần Văn Thông, và là cha Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu, quê Biên Hòa. Về sau, anh em ông trở thành đồng lõa với gia đình họ Ngô).

3. Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Tư pháp. (Ông quê Hà Đông, làm nghề Luật sư ở Sài Gòn. Vừa nhận chức, ông liền ra lệnh thả tất cả tù chính trị do Pháp bắt giam trong cả nước. Về sau, ông hoạt động trong phong trào hòa bình ở Sài Gòn, rồi ra bưng biền tham gia chống Mỹ).

4. Vũ Văn Hiền (1911-1963), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng tài chính (Ông quê Hưng Yên, làm việc ở Hà Nội, ngoài nghề luật sư, còn là một chuyên gia tài chính giỏi. Ông cũng là một trong ba sáng lập viên báo Thanh nghị. Sau cách mạng 8-1945, ông tham gia phái đoàn Chính phủ VNDCCH dự Hội nghị trù bị Đà Lạt. Sau đó, ông cùng một số trí thức bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò một thời gian. Được tha, ông vào mở Văn phòng luật sư ở Sài Gòn, không tham gia tổ chức chính trị nào).

5. Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), Giáo sư, Thạc sĩ toán học, Bộ trưởng giáo dục và Mỹ thuật (Ông quê Hà Tĩnh, dạy học và viết sách ở Hà Nội, tham gia nhóm Thanh nghị - Sau 8/1945, ông là thành viên Chính phủ VNDCCH dự Hội nghị trù bị Đà Lạt. Sau đó bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò một thời gian rồi được tha. Năm 1951, Pháp lại định bắt ông, nhưng được bạn thân là Nguyễn Hữu Tri, Tổng trấn Bắc phần, giúp cho sang định cư ở Pháp. Từ đó, ông chuyên tâm nghiên cứu khoa học…).

6. Vũ Ngọc Ánh (1901-1945), Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Y tế. (Ông là con nhà khoa bảng, Tổng đốc Vũ Ngọc Oánh quê Nam Định, học ở Pháp về, làm việc tại các bệnh viện ở Hà Nội. Vừa nhận chức, ông từ Huế ra Hà Nội nhận các cơ sở Y tế do Nhật giao lại, bị bom Mỹ sát hại).

7. Lưu Văn Lang (1880-1969), Kỹ sư bách nghệ được vua Bảo đại mời làm Bộ trưởng Công chính, nhưng đến giờ chót ông từ chối vì tuổi cao. (Ông quê Thị xã Sa Đéc, học ở Pháp về, từng làm việc trong Sở công chính Nam Đông Dương; Sau 1954, ông là một trong những người sáng lập phong trào Hòa bình ở Sài Gòn, từng là cố vấn cho Hội trưởng Hội Liên Việt Sài Gòn (bí mật).

8. Hồ Tá Khanh (1908-1996), Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Kinh tế (Ông quê Thừa Thiên, con trai nhà hoạt động duy tân Hồ Tá Bang (Tổng lý công ty Liên Thành) và là con rể Nguyễn Quý Anh (người tổ chức và điều hành Trường Dục Thanh ở Phan Thiết). Lúc trẻ, dự lễ truy điệu Phan Châu Trinh bị đuổi học, ông trốn sang Pháp học, thi đỗ, về làm việc ở Sài Gòn, và sáng lập báo Văn Lang. Sau cách mạng 8-1945, Hồ Chủ tịch mời ông ra Bắc, nhưng đường sá khó khăn không đi được. Bị Pháp ép ra làm việc, ông sang Pháp, công tác ở châu Phi, về hưu, mất ở Pháp).

9. Nguyễn Hữu Thi (1899-?), Y sĩ, đại thương gia, Bộ trưởng tiếp tế (Ông quê Đà Nẵng – Quảng Nam. Sau về sống và mất ở Đà Nẵng).

10. Phan Anh (1911-1990) Luật sư, Bộ trưởng Thanh niên (Ông quê Hà Tĩnh, là một trong ba người sáng lập báo Thanh nghị - Khi làm Bộ trưởng, ông cùng Tạ Quang Bửu thành lập Trường Thanh niên tiền quyến ở Huế. Sau cách mạng 8/1945 là Chủ tịch Ủy ban kiến thiết quốc gia, Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Ngoại thương…, Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Phó chủ tịch Hội Luật gia dân chủ thế giới, Phó chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới…).

Ngoài các thành viên Nội các, rất nhiều nhà trí thức có tiếng tăm cùng tham gia công việc của chính quyền: Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc bộ), Bác sĩ Trần Văn Lai (Thị trưởng Hà Nội), Giáo sư Nguyễn Lân (Thị trưởng Huế), Phó bảng Đặng Văn Hướng (Tỉnh trưởng Nghệ An), Phó bảng Hà Văn Đại (Tỉnh trưởng Hà Tĩnh), Giáo sư Đặng Thai Mai (Tỉnh trưởng Thanh Hóa)… Các ông Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Nguyễn Xiển, Vũ Văn Cẩn, Nguy Như Kontum, được mời ra thành lập Hội đồng Thanh niên. Tạ Quang Bửu được mời làm Cố vấn đặc vụ ủy viên Bộ Thanh niên và Kỹ sư Lê Duy Thước làm Chánh văn phòng Bộ…

Ở Hà Nội, nhóm Thanh nghị đứng ra tổ chức Hội Tân Việt Nam làm hậu thuẫn, ủng hộ công cuộc độc lập, gồm đông đảo trí thức yêu nước, trong đó có các ông Nguyễn Đỗ Cung, Đỗ Đức Dục, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Huyên, Trần Duy Hưng, Ngụy Như Kontum, Ngô Thúc Địch, Nguyễn Đình Liên, Phạm Khắc Quảng, Vũ Đình Tụng, Nguyễn Xiển, Nghiêm Xuân Yêm v.v…(4). Ở Huế, theo gợi ý của Vũ Văn Hiền, Phan Anh và sự thôi thúc của nhiều cựu chính trị phạm, trí thức, (Đào Duy Anh, Trần Hữu Duẫn, Nguyễn Đức Nguyên tức Hoài Thanh…), ông Tôn Quang Phiệt cũng đứng ra lập Hội Tân Việt Nam, tập hợp những người yêu nước ở Trung kỳ, trong đó có nhiều cựu chính trị phạm Tân Việt(5).

*

Một chính phủ được thành lập trong bối cảnh lịch sử như chính phủ Trần Trọng Kim, thông thường dễ bị coi là thân Nhật, là tay sai Nhật. Và thực tế đã bị coi như vậy.

Nhưng xét nhân thân các thành viên Nội các và hầu hết trí thức có uy tín tham gia, ủng hộ chính phủ, thì khó mà tin họ là những tay sai của Nhật.

Giáo sư Đinh Xuân Lâm, trong bài “Nội các Trần Trọng Kim với Trường Thanh niên tiền tuyến Huế năm 1945” (T.C Huế - Xưa và Nay số tháng 7,8-2005) viết: “Nội các Trần Trọng Kim, với thành phần là những trí thức có tên tuổi, trong đó phải kể tới một số nhân vật tiêu biểu của nước ta trước năm 1945, có uy tín đối với nhân dân, như: Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan Anh… Họ đều là giáo sư, Luật gia, nhà báo, chưa hề dính líu với bộ máy quan trường, trước đó lại có nhiều hoạt động thể hiện có tư tưởng yêu nước, có tinh thần dân tộc, nên được nhiều người ngưỡng mộ…”.

Vậy thì tại sao những người như vậy lại chịu ra lập Chính phủ lúc ấy?

Có thể lấy lời Phan Anh trả lời phỏng vấn của nhà sử học Na-Uy Stein Tonnesson năm 1989 làm lời đáp chung cho tất cả họ:

“… Chúng tôi không muốn bị cả người Pháp lẫn người Nhật đánh lừa mình… Chúng tôi nghĩ rằng nhiệm vụ cấp bách là phải đuổi bọn Pháp ra khỏi bộ máy hành chính. Chúng tôi huy động sinh viên, công chức làm việc đó, đòi Nhật làm việc đó.

Khẩu hiệu thứ hai của chúng tôi là tạm thời ngồi làm việc với người Nhật, nhưng không phải là “đồng tác giả”, không phải là “kẻ hợp tác” với họ; phải giữ thế trung lập”(6).

“… Lấy tư cách là thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim, tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt đối không có ảo vọng gì về người Nhật. Tình thế đã dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên mới đi hợp tác với Nhật. Có những người điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng tôi tham gia chính phủ là để phụng sự… Chính vì muốn giữ thế trung lập mà chúng tôi đã quyết định không có bộ Quốc phòng. Người Nhật muốn có bộ ấy để lôi kéo chúng tôi đi với họ. Thay bộ  ấy chúng tôi lập Bộ Thanh niên. Phong trào Việt Minh đã nổi tiếng và gây được hiệu quả là vì được thanh niên ủng hộ. Chúng tôi vận động một phong trào thanh niên là nhằm mục đích quốc gia và mục đích xã hội. Phong trào thanh niên của chúng tôi không hề xung đột gì với Việt Minh. Cùng theo đuổi một mục tiêu như nhau mà!”…

Thật ra thì Phan Anh (và những người khác) đều biết rõ là họ bị nghi ngờ, nhưng vì mục đích phụng sự, họ cần phải hy sinh. Trong cuộc mít-tinh lớn do Tổng hội sinh viên và Đoàn hướng đạo tổ chức tại Quảng trường Nhà hát Thành phố Hà Nội, vào đầu tháng 6-1945, Bộ trưởng Thanh niên Phan Anh đặt tay lên ngực, và kết thúc bài diễn thuyết của mình:

- “Các bạn hãy hiểu cho lòng người bạn cùng lứa tuổi. Tôi tuyên truyền cho “Thanh niên Tiền tuyến”, các bạn hoan hô. Tôi rất cảm động. Nhưng các bạn biết không? Có một số anh em không hiểu tôi, và tôi bị mắc tiếng oan! Đó là một hy sinh. Một hy sinh khá đau đớn, vì là hy sinh danh dự… Âu cũng là vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc” (Hồi ký của Vũ Đình Hòe).

*

Để đánh giá đúng, cần xem Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm được những gì. Theo Lê Xuân Khoa (trong SĐD) thì trong phiên họp đầu tiên, ‘bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc…, Chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm: 1/ Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam; 2/ Thâu hồi đất Nam kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp; 3/ Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị; 4/ Cho phép thành lập các đảng phái chính trị; 5/ Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo; 6/ Thiết lập các ủy ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục.

Chỉ trong thời gian bốn tháng (từ 17-4 đến 16-8), chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này…”.

Cụ thể G.S Lê Xuân Khoa và nhiều người khác đều nêu lên mấy việc đáng chú ý:

- Mặc dầu gặp nhiều trở ngại, đường bộ bị máy bay Mỹ ném bom, đường biển bị thủy lôi, hải tặc đón cướp, Bộ tiếp tế đã đưa được mấy nghìn tấn gạo ra Bắc, Tổng hội cứu tế và Thanh niên xã hội nhiều nơi đã tích cực tham gia công việc cứu đói.

- Thả hết tù chính trị mà chủ yếu là đảng viên cọng sản và những người cách mạng.

- Cải tổ hệ thống giáo dục, bắt đầu bằng việc sử dụng tiếng Việt trong giảng dạy, hoạch định xây dựng một nền quốc học dân tộc và tiến bộ.

- Tổ chức Trường Thanh niên tiền tuyến đào tạo cán bộ quân sự cho đất nước và phát động phong trào Thanh niên xã hội rộng rãi, sẽ có tác dụng lớn trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945.

- Ban hành luật nghiệp đoàn, dự thảo sắc lệnh bỏ thuế thân và các thứ thuế bất hợp lý dưới thời Pháp và cả thời Nhật, và giảm tô…

- Đòi Nhật trao trả các thành phố nhượng địa và 15 hôm trước khi đầu hàng, Nhật cũng trao trả lại Nam bộ (Theo lời Phan Anh thì giá trị các cuộc đấu tranh này về hoạt động thực tế tuy chưa có gì, nhưng về mặt pháp lý là đã đạt được mục đích: “trả lại Nam kỳ cho Việt Nam”).

- Không để cho Nhật lợi dụng lực lượng Bảo an binh, và không chịu nhờ Nhật can thiệp khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, mặc dầu Nhật gợi ý cho Thủ tướng Trần Trọng Kim là “quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng minh đến thay!”.

Tóm lại, “…Nội các Trần Trọng Kim, dù không phải là những chính trị gia có thành tích và kinh nghiệm, song đều là những trí thức nhiệt tình với đất nước, hết lòng phục vụ cho quyền lợi chung của dân tộc, không tham nhũng, không chia rẽ bè phái, không tham quyền, cố vị…” “… Trong thời gian quá ngắn phục vụ đất nước, chính phủ Trần Trọng Kim không mắc phải sai lầm nào đáng bị chỉ trích…” (Lê Xuân Khoa – SĐD).

*

Cuối cùng, một vấn đề quan trọng cần làm sáng tỏ là thái độ của Chính phủ Trần Trọng Kim đối với Mặt trận Việt Minh, với cách mạng.

Lúc ấy, nhiều trí thức yêu nước, cũng như Phan Anh, “có biết Việt Minh, có thanh niên Việt Minh trong các phong trào sinh viên và học sinh” (và sau này, trong Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên xã hội, cả trong bộ máy chính quyền – như Phan Đăng Tài ở dinh Tỉnh trưởng Hà Tĩnh, Lê Duy Thước, Chánh văn phòng Bộ Thanh niên… - “nhưng chưa quan niệm được lực lượng to lớn của nhân dân đang tiến lên dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh…”. Khi vua Bảo đại mời vào Huế hỏi ý kiến, Phan Anh đã nói: “… Vấn đề chủ yếu là giữ được thế trung lập, đặc biệt là không chống những người thuộc lực lượng “cánh tả” như Việt Minh…” (Đỗ Hồng Chỉnh – Những chặng đường anh đi – NXB Công an nhân dân, H.2011). Cũng có người cho Việt Minh là cọng sản nên có ý e ngại. Nhưng nhiều người là Bộ trưởng và Khâm sai Phan Kế Toại lại có cảm tình với Việt Minh. Chính Trần Trọng Kim, về sau cũng viết trong Hồi ký Một cơn gió bụi: “Đảng Việt Minh cọng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học… Đảng viên cọng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc… Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm sao mà không mạnh”.

Do đó, Chính phủ Trần Trọng Kim và mọi thành viên Nội các cũng như nhiều Tỉnh trưởng đều có thái độ đúng đắn đối với Việt Minh.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Đình Nam ra lệnh cho lực lượng Bảo an binh không được “đụng chạm với Việt Minh”. Chính phủ đòi Nhật thả những người bị bắt, kể cả sinh viên, thanh niên Việt Minh.

Bộ trưởng Thanh niên Phan Anh thường liên hệ với Tôn Quang Phiệt. Tôn Quang Phiệt đã đưa Hoàng Anh, lúc đó là đại diện của Việt Minh ở Huế, đến gặp riêng Phan Anh ở tòa Khâm cũ – nơi Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn và Phan Anh ở và làm việc. Về sau, ông Hoàng Anh đã nói với ông Phan Anh: “Các anh đã sẵn sàng để đón chúng tôi” (Theo Đỗ Hồng Chỉnh – SĐD).

Khi Thủ tướng Trần Trọng Kim ra Hà Nội điều đình với tướng Tsuchihashi, Tổng tư lệnh quân đội Nhật về việc chuyển giao Nam kỳ cho Việt Nam, qua Khâm sai Phan Kế Toại, có yêu cầu gặp lãnh đạo Việt Minh. Lê Trọng Nghĩa – (cán bộ Việt Minh Hà Nội, người trước đó có tiếp xúc với Phan Kế Toại và sau, với Hoàng Xuân Hãn), đóng vai Giáo sư Lê Ngọc, đã đến gặp. Trong bài Đại diện Việt Minh với chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội năm 1945 (Xưa và Nay, số 409 – 8/1912), Lê Trọng Nghĩa viết: “… Ngay từ phút đầu, qua thái độ và vẻ mệt nhọc hơi khô khan của ông Trần Trọng Kim, khi nghe ông Phan Kế Toại giới thiệu, tôi linh cảm thấy như cuộc gặp gỡ và cá nhân tôi không được coi trọng đúng mức. Phải chăng vì mình còn quá trẻ…” (Và khi nghe Trần Trọng Kim nói “Lịch sử sẽ phán xét công việc của chúng tôi”, Lê Trọng Nghĩa phản ứng) “Tôi cảm thấy như có một sự thách thức. Lại chợt nhớ đến quyển Việt Nam sử lược của ông. Tôi hơi nóng mặt…” (!). Về cuộc gặp này, trong bài Tưởng nhớ Phan Anh (La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập I), Hoàng Xuân Hãn, viết: “Thủ tướng nhờ bắt liên lạc với nhân vật cao cấp trong phong trào để thương lượng lợi chung, nhưng rồi lại gặp một ông đảng viên rất trẻ, chỉ biết tuyên truyền!...”.

Việc làm cuối cùng của Chính phủ Trần Trọng Kim là tự giải tán, trao quyền lại cho cách mạng.

Khi trả lời phỏng vấn của S.Tonnesson, Phan Anh cũng đã nói: “…Lúc nãy tôi đã nói với ông về cái nguyên tắc lớn này của lịch sử: Sự liên tục… Chúng tôi đã tự coi không phải là những người lãnh đạo phong trào, lãnh đạo đất nước, mà là những công cụ, những tay chân của công cuộc đấu tranh dân tộc. Và do đó sự chuyển tiếp từ Chính phủ Trần Trọng Kim đến nền Cộng hòa trong Cách mạng Tháng Tám diễn ra một cách tự nhiên, suôn sẻ nữa cơ. Tôi có thể nói với ông rằng với tư cách Bộ trưởng, chúng tôi trăm phần trăm ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất cả, kể cả Thủ tướng Trần Trọng Kim. Đã có sự nhất trí toàn vẹn, sâu sắc về sự chuyển tiếp ấy…

Nhưng còn lại một vấn đề pháp lý. Chính phủ nước Việt Nam là một chính phủ cách mạng, hẳn là thế, nhưng ngay đối với một chính phủ cách mạng, nếu kẻ đương quyền tuyên bố từ chức và bằng cách nào đó thừa nhận chính phủ cách mạng thì cũng có thể coi đó là điều có lợi… Nhưng còn một vấn đề. Sau chính phủ còn cái ngai vàng trước mắt, biểu tượng của chủ quyền quốc gia. Đó là một vấn đề pháp lý và nhất là chính trị… Nhiều trí thức Hà Nội có ý kiến phải yêu cầu nhà vua thoái vị…”. Và như ta biết, trong buổi họp cuối cùng của Chính phủ, ông Trần Đình Nam cũng đã nêu vấn đề “nhà vua nên rút lui”. Sau một cuộc vận động, vua Bảo đại tuyên bố thoái vị.

Sau cách mạng Tháng Tám, khi những người trong Việt Quốc, Việt Cách theo chân quân Tàu Tưởng trở về quấy rối, hòng dựa vào chủ, đòi lật đổ Chính phủ ta, ông Hoàng Xuân Hãn đến gặp cố vấn Vĩnh Thụy đề nghị Cố vấn bàn với Chính phủ tìm cách giải quyết cho êm đẹp. Ngày 13-10-1945 Cố vấn Vĩnh Thụy báo với ông là Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ tiếp ông vào buổi chiều.

… Trong suốt một giờ, Chủ tịch đã chăm chú lắng nghe những lời thẳng thắn và tâm huyết của Hoàng Xuân Hãn về nhiều vấn đề. Cuối cùng, Chủ tịch yêu cầu ông “cho biết một câu sát kết về Chính phủ”. Ông nói, đại ý:

“… Trước khi thẩm xét về Chính phủ xin nói về Mặt trận Việt Minh. Chủ trương Mặt trận là chống Pháp và chống Nhật… Vậy cái khẩu hiệu ấy là hợp. Nhưng trong hành động sau ngày Nhật diệt chính quyền thực dân Pháp và tuyên bố để Việt Nam tự chủ vận mệnh của mình, tự nhiên thấy rằng người cách mạng chống Nhật không thể ra công khai nhận lấy chủ quyền cho nước. Con thuyền bị buộc đã được cắt dây. Nước tự hào có lịch sử vẻ vang, gần hâm lăm triệu người; há lẽ để thuyền trôi không lái. Cả Nhật, Pháp và Đồng minh sẽ đánh giá lòng yêu chuộng độc lập của dân ta thế nào? Vì vậy đã có Chính phủ Trần Trọng Kim. Chỉ tiếc rằng Mặt trận không làm dễ cho Chính phủ công khai quản lý việc dân và dự bị sự giao tiếp khi quân Nhật tất phải đầu hàng. Dẫu sao, sau khi Nhật đầu hàng, Mặt trận ra nắm chính quyền là hợp lẽ và có thế lợi cho dân tộc được nhìn nhận. Nghĩ như vậy, Chính phủ Trần Trọng Kim đã có tác động cuối cùng là khuyên cựu hoàng mời các nhà cách mạng ra chính thức lập chính phủ, nhưng thiếu chuẩn bị, sự ấy không thể thành… Nói về Chính phủ, thì chủ trương đại thể chính trị hợp lẽ, nhưng hành động hình như tưởng đã thành công cho nên sợ chia trách nhiệm và chính quyền. Chắc riêng Chủ tịch hiểu rằng đường đi đến độc lập và thống nhất còn dài và khó, nhưng đại đa số còn lầm tưởng gần xong.”

Chủ tịch cảm ơn và nói thêm: “Hôm nay ông cho tôi biết được nhiều điều”. Tôi đứng dậy, từ giả, xuống lầu, cảm động vì đã có dịp tỏ nhiều lời tâm huyết, vì thấy vấn mệnh của dân nước đè trên vai một vị cách mệnh thâm niên gầy ốm, nhưng tinh thần tinh anh, mặc tĩnh, thâm trầm và cử chỉ ôn tồn, gẫy gọn và kiên quyết…” (“Một vài ký vãng về Hội nghị Đà Lạt” – SĐD, Tập II).

Đó là những ý kiến chân thành, thẳng thắn và đúng đắn của một trí thức yêu nước, thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim.

Nhận xét chung về Chính phủ Trần Trọng Kim, đến nay nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là một Chính phủ gồm những nhà yêu nước nhiệt thành, sáng suốt, biết lợi dụng thời cơ hiếm có để nắm lấy quyền cai trị, không để lọt vào tay kẻ xấu, và khôn khéo tránh được mưu mô lợi dụng của Nhật, giữ cho đất nước tạm ổn một thời gian, rồi chuyển cho chính quyền cách mạng một cách êm thấm. Chính phủ ấy không phải là bù nhìn, là tay sai Nhật. Nền độc lập lúc ấy chưa trọn vẹn, nhưng là một thực tại chứ không phải là “bánh vẽ”.

Một điểm khác cũng cần được ghi nhận là các thành viên Nội các, các nhà trí thức tham gia công việc hoặc ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim về sau hầu hết đều tiếp tục thể hiện lòng yêu nước bằng cách tham gia ủng hộ chính quyền cách mạng.(7)

*

Trên đây là những ý kiến đánh giá Chỉnh phủ Trần Trọng Kim. Còn về cá nhân Thủ tướng Trần Trọng Kim?

Trong bài đã dẫn (Xem Chú thích 4 ở dưới), Phạm Hồng Tung viết: “… Bản thân Trần Trọng Kim lại hầu như không có được uy tín, danh vọng và đặc biệt là mối quan hệ mật thiết với các trí thức, nhân sĩ nổi tiếng ở cả ba kỳ. Vì vậy, ông đã đem việc lựa chọn nhân sự của Nội các bàn bạc với Hoàng Xuân Hãn”.

Có thật thế không? Nếu quả Trần Trọng Kim “hầu như không có được uy tín, danh vọng” thì chắc chắn các nhà đại trí thức hồi ấy không ai lại chịu hợp tác với ông.

Trong phần I bài này – Học giả - tôi đã đưa nhiều chứng cứ về uy tín của Trần Trọng Kim. Ở đây xin nêu thêm ý kiến của một người đồng thời, một bạn cọng sự của ông trong Nội các, Luật sư Phan Anh. Theo Phan Anh cho biết: Ông tin Trần Trọng Kim không chỉ vì ông ấy là trí thức, một nhà học giả…, và là một nhà nho, mà còn vì đã có dịp tiếp xúc, trao đổi trong những năm 1942-1943, hiểu hướng phấn đấu của ông ấy cũng là giải phóng dân tộc (Đỗ Hồng Chỉnh – SĐD). Khi trả lời phỏng vấn của Tonnesson, Phan Anh cũng nói: “Tôi quen Trần Trọng Kim từ ngày ông còn dạy học, viết sử. Trong những tác phẩm của mình, ông động viên ý chí quật cường cho thanh niên… Tôi rất có cảm tình đối với ông ấy. Trần Trọng Kim là một người yêu nước nhưng không phải là một nhà chính trị. Ông ta cần được sự giúp đỡ ý kiến”. Còn G.S Đinh Xuân Lâm, lớp sau, thời hiện tại, thì xếp những người tiêu biểu trong những trí thức có tên tuổi ở nước ta trước 1945 là “Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan Anh…”.

Ông Phạm Khắc Hòe (trong SĐD) thì căn cứ vào câu “…quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa, và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á…” trong bản Tuyên cáo của Nội các, mà cho rằng “Rõ ràng là Trần Trọng Kim đã hạ quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật đến cùng…”. Ta thử xem lúc đó, bản Tuyên cáo không viết như vậy có được không?

Bây giờ ta hãy xem xét vì sao Trần Trọng Kim nhận đứng ra lập Nội các?

Trong cuốn Hồi ký (ĐD) của mình, Trần Trọng Kim đã viết: “…Từ trước, tôi không biết vua Bảo đại là người như thế nào. Vì trong thời bảo hộ của nước Pháp, hình như ngài chán nản không làm gì cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng bảy tháng tư tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và có điều rất đúng đắn…” “…Trước kia người mình chưa độc lập. nay có cơ hội, tuy chưa phải là độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh, rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ lập thành một chính phủ để lo việc nước” “…Khi tôi đứng ra lập chính phủ, không phải là không hiểu tình thế rất khó của nước Việt Nam… (Nhưng) vua Bảo đại đã đứng lên tuyên bố độc lập, thì nghĩa vụ người Việt Nam là ai nấy đều phải cố hết sức làm việc giúp nước, rồi sau tình thế thay đổi thế nào sẽ có cuộc điều đình cho đúng công lý và đúng phong trào hiện thời…”.

Trong bài “60 năm nhìn lại Trần Trọng Kim và Chính phủ của ông” (Luật sư Phan Anh – SĐD), Phạm Cao Dương viết theo lời kể của Hoàng Xuân Hãn: (Trước khi vào gặp vua Bảo đại, Trần Trọng Kim nói với Hoàng Xuân Hãn): “Bảo đại nó ngốc lắm, gặp nó làm gì?” và Hoàng Xuân Hãn trả lời: “Mình nghe tiếng thì thế, mà sự thực chưa chắc đã thế đâu. Cụ có thì giờ thì cụ cứ gặp đi, rồi cụ hãy nói sau”. Kết quả của cuộc gặp mặt là khi ra, Trần Trọng Kim đã nói với Hoàng Xuân Hãn rằng: “Lạ lắm! Tôi vào gặp ông Bảo đại, nghĩa là ông ấy biết hết các chuyện, chứ không như người ta nói”.

Luật sư Trịnh Đình Thảo, một thành viên Nội các Trần Trọng Kim, viết trong cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp “Công cuộc giải thực dân của Việt Nam  -Một luật sư làm chứng”(8) mà Lê Xuân Khoa trích dẫn (trong SĐD) có đoạn: Trần Trọng Kim “không tin ở sự thành thật của nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào những biến cố có hại cho tương lai xứ sở”, nhưng ông Thảo đã thuyết phục được ông Kim nhận lời yêu cầu của Bảo đại với lý do “phải gấp rút thành lập Chính phủ Việt Nam độc lập để đặt các lực lượng đồng minh, nhất là Pháp, trước một tình trạng pháp lý không thể đảo ngược bằng lời tuyên bố hủy bỏ những hiệp ước Bảo hộ năm 1862 và 1874, tuyên cáo nước Việt Nam độc lập và thống nhất”.

Cũng theo Lê Xuân Khoa, trong Hồi ký, Luật sư Thảo còn cho biết một chuyện đáng lưu ý khác: Trần Trọng Kim đã được một chính khách Thái Lan, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Pridi Banomyong chia sẻ kinh nghiệm “bắt cá hai tay” để có thể tồn tại của Thái Lan: Khi chính phủ Thái Lan do Thống chế Phibul Songram bắt buộc phải thân Nhật…, Pridi Banomyong phải sang Sài Gòn để hoạt động cho vai trò trung lập của Thái Lan – một số chính trị gia Thái ở Anh và Mỹ hợp tác với đồng minh, thành lập một chính phủ trù bị - Lời khuyên của Pridi Banomyong cho Trần Trọng Kim là: “Hãy nắm lấy độc lập mà không theo Nhật”. Lê Xuân Khoa viết tiếp: “Sai lầm chính trị, đúng ra là một nhược điểm đáng nói đến của Trần Trọng Kim là không thực hiện được sách lược “bắt cả hai tay” của Thái Lan.

Hoàng Xuân Hãn cũng viết trong bài Tưởng nhớ Phan Anh (ĐD) về nhận định tình hình lúc ấy: “…Kim, Hiền, Anh và tôi đồng ý rằng: Thế Nhật Bản chỉ còn đứng được hơn một năm là cùng. Chính phủ nào từ bây giờ cũng chỉ có chừng ấy để củng cố thế độc lập của nước ta mà thôi. Vậy nên khuyên nhà vua mời Ngô lập chính phủ vì y được người Nhật tin và nhóm “thân Nhật” ủng hộ…” “…Nhưng Diệm từ chối lấy cớ bệnh không về. Cuối cùng Trần Trọng Kim tuy còn ốm, phải nhận lời Bảo đại năn nỉ ra thiết lập một chính phủ cách tân trong ấy Phan Anh phụ trách Bộ Thanh niên để tránh tiếng Bộ Quốc phòng vì ta chưa có bộ đôi và không muốn ai hiểu lầm và lợi dụng. Còn mục tiêu chung thì gấp rút trong khoảng một năm, tập cho quốc dân quen với tính cách độc lập, tự tin để đến khi hòa bình trở lại, Đồng minh không có cớ đặt ách ngoại trị vào cổ dân ta”.

Như vậy, rõ ràng là không phải Trần Trọng Kim theo Nhật về đứng ra lập Nội các cốt làm tay sai cho Nhật. Để làm sáng tỏ hơn, xin chép thêm một đoạn trong sách của G.S Lê Xuân Khoa (SĐD): “Khoảng tháng 6-1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khóat trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam kỳ cho Việt Nam, ông đã nói: “Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn sàng xin lui…”.

*

Sau ngót 70 năm nhìn lại, chính phủ Trần Trọng Kim đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá tích cực như ở phần trên. Vậy về người đứng đầu chính phủ ấy, Thủ tướng Trần Trọng Kim, cũng không có lý do gì đánh giá khác được.

Đúng, Trần Trọng Kim là một trí thức yêu nước nhiệt thành, có uy tín về kiến thức và nhân cách. Lòng yêu nước thể hiện thường trực trong trước tác và khi tham chính, nên ông được đông đảo trí thức đương thời cọng tác, ủng hộ. Điều đó là khẳng định.

Nhưng qua hành vi của ông, tôi thấy có vài điều xin được bàn thêm:

Trần Trọng Kim rất phục tinh thần và lối làm việc khoa học của Việt Minh mà ông cho là cọng sản. Và chắc chắn ông cũng biết rõ người lãnh đạo Việt Minh là Nguyễn Ái Quốc mà các trí thức du học ở Pháp đều tin tưởng. Nhưng nói đến cọng sản, đến công nông, thì ông cũng như một số trí thức lớp trên hồi ấy, thường ngại hoặc không tán đồng lý tưởng (?).

Hai là, Trần Trọng Kim là người tân học tiếp thụ sâu sắc cựu học, nho học. Ông tán thành một Nội các tân tiến, có học thức, nhưng có ý muốn thực hiện chế độ quân chủ theo truyền thống phương Đông như Nhật Bản, Thái Lan (?).

Phải vậy chăng? Nếu thật là vậy thì cũng dễ hiểu, cũng là chuyện thường tình. Điều đáng ghi nhận và trân trọng là lòng yêu nước chân thành của ông.

 

T.K.Đ

Mùa thu năm Nhâm thìn

(2012)

______________

(1) Ở Hương Khê có hai xã Phú Gia và Lộc Yên. Theo cụ Nguyễn Văn Thơi, 90 tuổi, thì thôn Phú Yên ở xã Phú Gia.

(2) Theo Phổ hệ họ Trần thì vợ ông Trần Trọng Kim là bà Bùi Thị Tuất. Ông bà chỉ có một con gái là Trần Thị Diệu Chương, lấy chồng làm Chưởng lý Bộ Quốc ấn tại Xê-nê-gan (Sénégal) sinh 1 trai, 4 gái.

(3) Phan Trọng Báu: Trần Trọng Kim với bộ sách giáo khoa bậc sơ học – (Văn hóa Nghệ An số 156-10/9/2009).

(4) Phạm Hồng Tung – Hoàng Xuân Hãn với Nội các Trần Trọng Kim – (Xưa và Nay số 329 – 1/2009).

(5) Tôn Quang Phiệt – Hội Tân Việt Nam với cách mạng Tháng Tám ở Huế (Xưa và Nay số 409 – 8/2012). Cũng theo bài viết này, ông Phiệt cho biết khi ra Vinh được các anh ở đây đem tờ báo Cờ giải phóng số 13 đọc cho nghe, trong đó có một bài công kích bọn Việt gian, tên Tôn Quang Phiệt bị xếp sau tên Phan Anh.

(6) Khẩu hiệu của Việt Minh trước đó là “Đánh đuổi Nhật, Pháp”; sau khi có chủ trương “Liên minh với Pháp Đờ-gôn” thì nêu khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật, Pháp”; sau cuộc đảo chính 9-3-1945 lại nêu khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật” để nhằm đúng kẻ thù chính.

Còn Chính phủ Trần Trọng Kim có Hoàng Xuân Hãn trước đây thường được Toàn quyền Decoux và tướng Mordant mời đến hỏi ý kiến, biết chắc chắn là Pháp không từ bỏ trở lại Đông dương, nên có nhận định: Nhật buộc phải giữ lại bộ máy hành chính của Pháp là có ý sẽ lấy đó mặc cả với Đồng minh nếu bại trận; còn Pháp đã mất quyền chính trị thì cố nhẫn nhục làm tay sai Nhật, giữ lấy quyền hành chính, nhờ chính quốc giúp đỡ, âm thầm tổ chức lực lượng, chờ thời cơ, khi Nhật thua sẽ trở lại Đông Dương một cách hợp pháp. Nhật, “lâu nhất là một năm” tất sẽ thua, phải rút khỏi Đông Dương. Do đó nêu khẩu hiệu “đòi Nhật đuổi bọn Pháp ra khỏi các công sở, giao lại cho công chức Việt Nam” và “giữ trung lập với Nhật” (không đối kháng nhưng không hợp tác).

(7) Về sau, chỉ có Trần Văn Chương, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Nội các Trần Trọng Kim theo phục vụ gia đình họ Ngô, và một ít người trong Hội Tân Việt Nam (như Trần Khánh Giư (Khái Hưng) vốn là đảng viên Đại Việt dân chính, Hoàng Phạm Trân (Nhượng Tống) là đảng viên Quốc dân đảng…) là đối lập chính phủ cách mạng.

(8) Giáo sư Lê Xuân Khoa (trong SĐD) cho biết: Cuốn Hồi ký do Luật sư Trịnh Đình Thảo, viết sau năm 1975, nhưng lấy tên con trưởng của ông là Luật sư Trịnh Đình Khải, xuất bản ở Pháp: “Trịnh Đình Khải – Décolonisation du Vietnam: Un avocat témoigne – Paris-L’Harmattan, 1994.

 

 

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114434702

Hôm nay

2322

Hôm qua

2310

Tuần này

21352

Tháng này

211750

Tháng qua

1114316576

Tất cả

114434702