Đất và người xứ Nghệ
Địa danh Nghệ An qua tài liệu lịch sử
Lễ kỷ niệm 990 năm danh xưng Nghệ An
Năm 2005, Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An và UBND tỉnh Nghệ An đã quyết địch tổ chức kỷ niệm 975 năm danh xưng Nghệ An và 2005 cũng là năm Chính phủ cho tỉnh nhà được tổ chức Năm Du lịch Nghệ An. Để lựa chọn mốc kỷ niệm năm danh xưng Nghệ An, tỉnh cũng đã phối hợp với Hội Sử học Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học 975 năm danh xưng Nghệ An do Giáo sư Phan Huy Lê chủ trì. Hội thảo đã nhất trí chọn mốc thời gian năm 1030 làm mốc ra đời sớm nhất danh xưng Nghệ An. Năm 2020, UBND tỉnh Nghệ An đã có báo cáo gửi Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo việc tổ chức kỷ niệm 990 năm ra đời danh xưng Nghệ An (Số 9272/UBND-KGVX: V/v báo cáo xin ý kiến chỉ đạo tổ chức kỷ niệm 990 năm danh xưng Nghệ An, ngày 27/12/2019). Năm 1030 đến 2025 sẽ là 995 năm danh xưng Nghệ An. Để làm rõ về mốc danh xưng Nghệ An trong lịch sử dân tộc, chúng tôi xin cung cấp các tài liệu ghi chép liên quan đến mốc này và lý giải việc tại sao lại chọn năm 1030 làm mốc danh xưng Nghệ An.
Trước hết chúng ta nghiên cứu về gốc chữ Nghệ An có từ chữ Hán:
乂 Nghệ: Theo Hán Việt từ điển (1) của Thiều Chỉu, Nghệ: 1, Trị, cai trị được dân yên gọi là Nghệ; 2, Tài giỏi.
安 An: 1, Yên, bình an; 2, Định, không miễn cưỡng gì (như An cư lạc nghiệp); 3, Làm yên, như An phủ (Phủ dụ cho yên); 4, Tiếng giúp cho lời, như sao vây!
Theo Giản yếu Hán Việt từ điển (2) của Đào Duy Anh: 1, Nghệ: Sửa trị, Người hiền tài. 2, An: Êm đềm, trái với nguy.
乂安 Nghệ An: Một tỉnh ở phía bắc Trung Kỳ.
Vậy, có thể hiểu, Nghệ An là Cai trị (Tổ chức cai quản thật tốt) và làm cho dân được yên cư lạc nghiệp ở trên vùng đất Nghệ An.
Mốc ra đời danh xưng Nghệ An được thấy trong các bộ chính sử dân tộc và các sách lịch sử do các nhà sử học nổi tiếng biên soạn. Tiêu biểu là các sách:
1. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản in Nội các quan bản - Mộc bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1697). T.1/Giới thiệu: Nguyễn Khánh Toàn; Khảo tác giả, văn bản, tác phẩm: Phan Huy Lê; Dịch, chú thích: Ngô Đức Thọ; Hiệu đính: Hà Văn Tấn.- H., Khoa học xã hội, 1998.- Tr. 258 có ghi:
Bính Tý, [Thông Thụy] năm thứ 3 [1036]…
Mùa hạ, tháng 4, đặt Hành dinh ở Châu Hoan, nhân đó đổi tên châu ấy là Nghệ An.
2. Quốc Sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. T.1/Tổng tài: Cao Xuân Dục; Toản tu: Lưu Đức Xứng, Trần Xán. H., Lao động - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2012.- Tr. 768 ghi:
Năm Thiên Thành thứ 3 đời Lí Thái Tông (1030), mới đổi Châu Hoan thành Nghệ An (tên Nghệ An bắt đầu có từ đây).
3. Quốc Sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí. T.2/Huế, thuận Hoá, 1997. Tr. 118 có ghi:
4. Đại Nam nhất thống chí. Quyển V. Tỉnh Nghệ An… Dựng đặt và diên cách.
Xưa là đất việt Thường, đời Tần thuộc Tượng Quận; đời Hán thuộc Cửu Chân, đời Ngô chia quận Cửu Chân mà đặt quận Cửu Đức; đời Tùy Khai Hoàng đặt Châu Hoan, Đại Nghiệp đổi là quận Nhật Nam; đời Đường đặt 3 châu Hoan, Diễn và Đường Lâm. Nước ta đời Đinh, Lê là Châu Hoan, đời Lý năm thuận Thiên thứ 1 lấy Châu Hoan làm trại, năm Thông Thụy thứ 3 đổi là châu Nghệ An (tên Nghệ An bắt đầu từ đây).
5. Bùi Dương Lịch. Nghệ An ký. Quyển I và II/Dịch và chú: Nguyễn Thị Thảo; Hiệu đính: Bạch Hào.- H., KHXH, 2004. Tr. 52 ghi:
Năm Thiên thành thứ 3 [1030], Lý Thái Tông đổi Hoan Châu làm Nghệ An.
6. Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí. T.1/Viện Sử học.- H., Giáo dục, 2007. Tr. 72 ghi:
Buổi đầu, nhà Lý đổi Hoan Châu làm trại; đời Thái Tông, năm Thiên Thành thứ 3 (1030), đổi gọi là Nghệ An.
7. Phan Huy Chú. Hoàng Việt dư địa chí/ Phan Đăng dịch.- Huế, Thuận Hóa, 1997.- Tr. 173 ghi:
Trấn Nghệ An
Nghệ An xưa thuộc nước Việt Thường, thời Tần thuộc Tượng Quận, thời Hán gọi là quận Nhật Nam, thời Ngô gọi là quận Cửu Đức, thời Lương đổi từ quận ra châu, ban đầu gọi là Hoan Châu, sau gọi là Diễn Châu, đến nhà Lý đổi lại là trại. Niên hiệu Thiên Thành thứ 3 (1030) thời Lý Thái Tông đổi tên Hoan Châu thành Nghệ An và tách Diễn Châu thành một châu riêng...
Mộc bản triều Nguyễn được trưng bày tại Triển lãm “Những dấu mốc lịch sử hình thành tỉnh Nghệ An trong mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới”. Ảnh: Công Kiên
Qua 7 bộ sách lịch sử có giá trị, uy tín, được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nước nhà và địa phương sử dụng thường xuyên và thường trích dẫn cho các công trình về sau thì có một bộ sử là Đại Việt sử ký toàn thư là ghi mốc danh xưng Nghệ An vào năm Thông Thụy thứ 3 (1036), còn lại 6 bộ sử: Đại Nam nhất thống chí (2 bộ sử của Quốc Sử quán triều Nguyễn, in 2 năm khác nhau: 1997 và 2012); Lịch triều hiến chương loại chí và Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú; Nghệ An ký của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch đều ghi mốc là năm Thiên Thành thứ 3 (1030). Vậy, ta nên lấy mốc danh xưng Nghệ An vào năm Thiên Thành thứ 3 (1030) với các lí do như sau:
Một: Mốc danh xưng Nghệ An vào năm Thiên Thành thứ 3 là sớm nhất và rất đáng tin cậy, vì được ghi lại trong các bộ sử và sách địa chí quý hiếm của nước ta, được viết bởi các nhà sử học nổi tiếng, trong đó có Cao Xuân Dục giữ trọng trách lớn nhất Quốc sử quán và cả 3 tác gia lại là người xứ Nghệ:
1. Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn do Cao Xuân Dục làm Tổng tài (Chủ biên). Cao Xuân Dục (1842-1923), tự Tử Phát, hiệu Long Cương, quê ở làng (L) Thịnh Mỹ, tổng (T) Cao Xá, huyện (H) Đông Thành, nay thuộc xã (X) An Châu, tỉnh Nghệ An. Ông thi đậu Cử nhân khoa Bính Tý - Tự Đức 29 (1876), làm quan đến các chức: Hàn lâm viện Biên tu, Hồng lô tự Thiếu khanh, Biện lý bộ Hình, Án sát và Bố chánh Hà Nội, Thị lang, sung Hải phòng sứ tỉnh Hải Dương. Tại đây, do bất đồng ý kiến dẫn tới việc xô xát với viên Công sứ Pháp, ông bị dáng một cấp, nhưng vẫn giữ chức cũ. Năm 1889, ông làm Tán lý quân vụ Tuần phủ Hưng Yên, thăng Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, tước An Xuân Nam. Năm 1894, ông được cử làm Chánh chủ khảo trường thi Hương Hà Nam, Thự Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Tổng tài Quốc sử quán. Năm 1901, được cử làm Chánh chủ khảo khoa thi Hội ở Huế, rồi làm quyền quản Quốc Tử Giám. Tháng 11 năm 1907, ông được thăng Thượng thư bộ Học, sung Phụ chính Đại thần. Năm 1908-1909 được phong hàm Thái tử Thiếu bảo, tước An Xuân tử. Năm 1913, Cao Xuân Dục xin về hưu và được ban hàm Đông các Đại học sĩ. Ông là tác gia lớn của đất nước với nhiều công trình chủ biên, biên soạn và sáng tác thơ, văn: Quốc triều tiền biên toát yếu, Đại Nam thực lục (Đệ ngũ kỷ và Đệ lục ký), Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam dư địa chí ước biên thông quốc thổ sản, Viêm giao trung cổ ký, Đại Nam quốc sử quán tàng thư mục, Quốc triều luật lệ toát yếu, Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập, Quốc triều Hương khoa lục, Quốc triều khoa bảng lục, Khâm định nhân sự kim giám, Luận thể tân tuyển…
Lãnh đạo Bộ Nội vụ và UBND tỉnh Nghệ An cùng bà con nhân dân nghe thuyết minh về Mộc bản triều Nguyễn tại Triển lãm “Những dấu mốc lịch sử hình thành tỉnh Nghệ An trong mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới”. Ảnh: Đức Anh
Nhà Hán học, Thư mục học Trần Văn Giáp có viết về Cao Xuân Dục:
Cao Xuân Dục… Trong khi làm quan đầu Sử quán, thu tập được nhiều sách cổ Việt Nam và trứ thuật biên toản được nhiều sách. Tương truyền ông là người ham thích sách cổ, nhất là sách Việt, khi đã về hưu, để đề phòng thất lạc, ông thu tập nhiều sách cổ, mỗi bộ thuê người chép làm năm bản, giao cho mỗi con cháu giữ một bản, bảo tồn cho sau này. Nhờ đó một số lớn sách Việt sử của Thư viện Long Cương còn đến ngày nay, giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu. (3)
2. Lịch triều hiến chương loại chí và Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú. Phan Huy Chú (1782-1840), quê X. Thu Hoạch, H. Thiên Lộc, nay là X. Thạch Châu, H. Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, con của Phan Huy Ích, cháu Phan Huy Ôn. Ông đậu Tú tài 2 khoa, làm quan Biên tu ở viện Hàn lâm, Phủ thừa Thừa Thiên, thăng Hiệp trấn Quảng Nam, 2 lần Phó sứ sang Trung Quốc, làn thứ 2 về bị cách, rồi đi sứ Batavia, về làm Tư vụ bộ Công. Ông bị bệnh, xin về hưu, dạy học ở Thanh Mai, Sơn Tây. Ông được tôn vinh như một nhà bác học của Việt Nam, tác gia của nhiều bộ sách: Hoàng Việt dư địa chí, Mai Phong du Tây thành dã lục, Hoa Thiều ngâm lục, Bình định qui trang, Hoa trình tục ngâm, Lịch đại điển yếu thông luận, Hải trình chí lược, Dương trình ký kiến, Điều trần tự sự tấu sớ…
3. Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch. Bùi Dương Lịch (1758 - 1827), tự là Tồn Trai, Tôn Thành, hiệu Ốc Lậu, Thạch Phủ, người L. Yên Đồng, nay thuộc X. Tùng Ảnh, H. Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Đậu Tiến sĩ Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) năm 1787. Làm quan Nội hàn viên cung phụng sứ ngoại lang triều lê. Đến triều Tây Sơn, năm 1790, dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm ở Sùng chính Thư viện do La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng . Đến Triều Nguyễn, vua Gia Long triệu ra là Đốc học Nghệ An. Năm 1813, cáo quan về nhà dạy học và viết sách. Tác phẩm: Bùi gia huấn hài, Nghệ An ký, Nghệ An phong thổ thoại, Lê quí dật sử. Ốc lậu thoại, Yên Hội thôn chí, Thanh Chương huyện chí…
Ba nhà sử học trên đều là những tác gia lớn, từng trực tiếp làm việc tại các kho sách lưu trữ - thư viện của triều đình, từng đọc và tham khảo các tài liệu quý hiếm, nên đã chọn thời gian mốc danh xưng Nghệ An vào năm Thiên Thành thứ 3 (1030) ghi vào các bộ sử sách của nước nhà.
Hai: Mốc ghi trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, với thông tin: Bính Tý, [Thông Thụy] năm thứ 3 [1036]… Mùa hạ, tháng 4, đặt Hành dinh ở Châu Hoan, nhân đó đổi tên châu ấy là Nghệ An. Năm này, triều Lý, sau khi đã bình định yên được nạn loạn phỉ cướp phá ở Châu Hoan - Châu Diễn, cho xây dựng các dinh trại, trong đó có (Hành tại) nơi để vua nghỉ lại mỗi khi kinh lý vào Nghệ An, nên nhân đó công bố cho đổi Châu Hoan thành Nghệ An. Điều đó cho thấy, từ năm Thiên Thành thứ 3 (1030) triều đình đã đặt tên mới cho Châu Hoan là Nghệ An, nhưng Châu Hoan lúc đó chưa có trung tâm lị sở chính thức của triều đình đặt tại đây để trực tiếp quản lý. Châu Hoan và Châu Diễn vốn là vùng đất biên trấn, biên viễn xa Kinh đô Thăng Long, đường sá đi lại trắc trở, việc cai quản khó khăn, nên thường bị nạn thổ phỉ nổi loạn cướp phá, lại giặc giã nhiều lần xâm lấn từ cả phương Tây và phương Nam. Các triều đại, nhất là thời kỳ chế độ độc lập tự chủ phong kiến nước ta đã coi vùng đất này rất quan trọng, nên thường xuyên quan tâm việc cử các quan lại và tướng soái, hoàng thân quốc thích đến trấn nhậm ở đây để bảo vệ, xây dựng thành trấn vững mạnh, phát triển, đủ sức chống nội loạn và giặc ngoại xâm. Thời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành đã trực tiếp chỉ huy việc đào Kênh nhà Lê tại Nghệ An để khai thông đường thủy, nối kinh đô Hoa Lư đến tận Đèo Ngang với mục tiêu có thể nhanh chóng đưa lực lượng vào trấn áp giặc, phỉ, bảo vệ vững chắc Châu Hoan, Châu Diễn. Triều Lý, Lý Công Uẩn (974-1028), sau khi lên ngôi đã cho đổi 10 đạo cả nước thành 24 lộ, Châu Hoan, Châu Ái làm trại. Kể từ đây nhiều đời vua phong kiến đã trực tiếp đi thị sát vùng đất này, chỉ huy việc dẹp giặc phỉ và cử người hiền tài, tướng giỏi đến đây để bảo vệ vững chắc biên giới và tổ chức di dân đến khai hoang, giữ yên ổn đời sống nhân dân, xây dựng nhiều kho trại, căn cứ, mở mang bờ cõi, giang sơn đất nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Năm Thuận Thiên thứ 3 (1012), vua thân đi đánh Diễn Châu… Năm Thuận Thiên 16 (1025), xuống chiếu lập trại Định Phiên ở địa giới phía nam Châu Hoan, cho quản giáp Lý Thai Giai làm Trại chủ… Vua Lý Thái Tông (1028-1054), năm Thiên Thành thứ 4 (1031), tháng 2, ngày mồng 1, vua thân đi đánh Châu Hoan, cho Đông cung Thái tử làm Giám quốc. quân đi từ Kinh sư đến Châu Hoan, người châu ấy đầu hàng. Xuống chiếu tha tội cho các quan châu huyện, sai Trung sứ phủ dụ dân chúng… Tháng 3, vua từ Châu Hoan về đến Kinh. Sau khi vua cho xây dựng dinh trại, chính thức gọi Châu Hoan là Nghệ An, thì Xuống chiếu cho châu Nghệ An dựng các kho ở trong châu như Tư Thành, Lợi Nhân, Vĩnh Phong, tất cả 50 sở. Đến năm Càn Phù Hữu Đạo thứ 3 (1041), Tháng 11, xuống chiếu cho Uy Minh hầu Nhật Quang làm Tri châu Nghệ An. Uy Minh hầu Lý Nhật Quang là con thứ 8 của vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn).
Đến năm Minh Đạo thứ 3 (1044), tháng 8, đem quân về. Đến Hành dinh Nghệ An, gọi Uy Minh hầu Nhật Quang đến úy lạo rồi trao cho Tiết việt trấn thủ châu ấy, gia phong tước Vương. Trước đây, vua ủy cho Uy Minh thu tô hàng năm ở Nghệ An và sai lập trại Bà Hòa khiến cho trấn ấy được vững chắc, lại đặt điếm canh các nơi cất chứa lương thực đầy đủ, cái gì cũng vừa ý vua, cho nên được tước phong như thế.
Như vậy là Tri châu Nghệ An Uy Minh Vương Nhật Quang đã được vua trao cho quyền lớn, có thể tự quyết mọi việc như vua, nhằm cai quản được tốt nhất vùng đất này. Lý Nhật Quang (988 - 1060) là một nhà chính trị, danh tướng, danh thần có tài kinh bang tế thế tiêu biểu đời Lý, được nhiều tài liệu sử sách và truyền thuyết dân gian ghi chép, lưu truyền lại cho đến ngày nay. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam/ Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh CB có ghi về Lý Nhật Quang:
Mùa xuân năm 1044, vua Lý đem quân đi đánh Chăm Pa, khi qua Nghệ An ông cho người chở quân lương theo đầy đủ. Tháng 9 năm đó, khi chiến thắng trở về, vua triệu ông đến hành doanh khen ngợi, trao cho tiết việt trấn thủ Nghệ An và thăng lên tước Vương. Những năm sau đó, ông ra sức phát triển kinh tế trong châu. Ông là nhà khai hoang nổi tiếng đầu tiên của đất nước ta. Theo sử cũ, ông đã mở thêm được 5 châu 22 trại, 56 sách… (4)
Theo các tài liệu lịch sử và dân gian, Uy Minh Vương Nhật Quang đã có nhiều công lao cho đất Nghệ An, như mở đường Thượng đạo lên miền Tây và ra Thanh Hóa, cho đắp đê sông Lam (nay gọi là đê 42), tổ chức khai hoang lập ra hàng trăm làng, xã và trang trại, kho tàng, căn cứ. Do đó, ông được Nhân dân xứ Nghệ thờ làm Thành Hoàng ở trên 70 làng, xã.
Qua các sự kiện lịch sử trên, vùng đất Châu Hoan, Châu Diễn thật sự quan trọng cho chiến lược bảo vệ vững chắc biên cương và phát triển đất nước về phương Nam, nên đã có việc cần đổi tên trấn, châu này thành Nghệ An năm Thiên Thành thứ 3 (1030), sau đó mới công bố chính thức vào năm 1036 vào dịp xây dựng dinh phủ. Trong lịch sử dân tộc đã từng có những sự kiện tương tự, như việc đổi tên nước Việt Nam thành Đại Nam vào triều Nguyễn và được ghi trong cuốn sử Quốc sử di biên của Thám hoa Phan Thúc Trực (5). Sách ghi:
Năm Mậu Tuất [niên hiệu Minh Mạng] thứ 19 [1838]… Tháng 3, ngày mồng 2, bắt đầu đổi tên nước Đại Nam… Thay đổi quốc hiệu là Đại Nam, bắt đầu tính từ năm [Minh Mạng] thứ 20 [1839]. Hoặc gọi là nước Đại Việt Nam quốc cũng được.
Như vậy là khi công bố chính thức đổi tên nước bắt đầu tính từ năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì trước đó, triều đình đã thống nhất việc đổi và đặt tên nước Đại Nam vào năm Minh Mạng 19 (1838). Những việc quan trọng như vậy rõ ràng đã có sự bàn bạc, thảo luận và thống nhất đổi đặt tên nước, tên trấn, châu là phải có trước khi ra công bố chính thức. Việc đổi tên Châu Hoan thành Nghệ An cũng sẽ như vậy, phải có từ trước (năm 1030), rồi sau đó vào năm 1036 thì mới công bố chính thức.
Tại Cục Lữu trữ Trung ương 2 Đà Lạt còn lưu kho Mộc bản triều Nguyễn (Di sản tư liệu Thế giới), trong đó có bản Mộc bản bản sách Đại Nam nhất thống chí, khắc về việc vua “Lý Thái Tông năm Thiên Thành thứ 3 (1030), đổi Hoan Châu làm Nghệ An”. (Mộc bản và ảnh chụp trưng bày ngày 30/11/2020: Tỉnh Nghệ An và Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước phối hợp tổ chức triển lãm ảnh “Những mốc son hình thành lịch sử Nghệ An trong Mộc bản triều Nguyễn Di sản tư liệu Thế giới”). Đây là tư liệu cực kỳ quý hiếm có ghi mốc son đặt tên địa danh Nghệ An (1030).
Rõ ràng, kể từ khi Châu Hoan, Châu Diễn được đặt tên là Nghệ An (1030) thì mảnh đất này luôn được nhà nước tập trung đầu tư cai quản tốt, mở mang phát triển kinh tế, ổn định dân sinh, xây dựng thành một vùng đất giàu mạnh, làm thành căn cứ, bàn đạp đẩy lùi giặc ngoại xâm và tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều đời trong lịch sử thống nhất đất nước thành một cõi như ngày nay.
Năm 2025, vừa đúng 995 năm ra đời danh xưng Nghệ An được lãnh đạo tỉnh cho tổ chức kỷ niệm thật ý nghĩa, là dịp để chào mừng Đại hội Đảng các cấp, là dịp để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ noi theo tiên tổ, phấn đấu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp.
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An, số 18 - Tháng 9/2025)
_____________________
Chú thích:
1. Thiều Chỉu. Hán Việt từ điển.- HCM, 1993.
2. Đào Duy Anh. Giản yếu Hán - Việt từ điển.- Huế, Tiếng Dân, 1930.
3. Trần Văn Giáp. Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh - Tìm hiểu kho sách Hán Nôm.- T.1 - 2.-H., KHXH, 2003.- Tr. 504.
4. Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam.- H., Giáo dục, 2006.
5. Phan Thúc Trực. Quốc sử di biên/ (Thượng - Trung - Hạ)/ Dịch chú: Nguyễn Thị Oanh - Nguyễn Thị Hường - Nguyễn Tô Lan.- H., KHXH, 2010.- Tr. 438-439. Phan Thúc Trực (1808-1852), còn có tên là Phan Dưỡng Hạo, Phan Sư Mạnh, hiệu Hành Quý, Cẩm Đình, Dưỡng Hạo Hiên, quê ở L. Vân Tụ, H. Đông Thành, nay thuộc X. Khánh Thành, H. Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đậu Tú tài 10 khoa liên tiếp, được sung Cử nhân vào học Quốc tử Giám, đậu Đình nguyên Thám hoa khoa thi Hội năm Đinh Mùi (1848), khi vinh qui bái tổ được vua ban cho biển Khôi đa sĩ (đứng đầu nhiều sĩ tử). Làm quan: Hàn lâm viện Trước tác, Tập hiền Thị giảng, Kinh diên khởi cư chú, vâng lệnh vua đi sưu tầm sách quí ở Bắc Kỳ, lâm bệnh mất, được truy tặng hàm Thị giảng Học sĩ.
tin tức liên quan
Videos
Món cúng ngày Tết của người miền núi Nghệ An
Giấc mộng Trung Hoa: Tư duy nước lớn và tư thế chiến lược của Trung Quốc trong kỷ nguyên hậu Hoa kỳ” (Kỳ 2)
Đồng chí Lê Hồng Phong - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng*
Ngô Đức Kế - nhà báo, sĩ phu yêu nước
Báo chí cách mạng Việt Nam trong xây dựng Đảng, Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân
Thống kê truy cập
114610384

271

2534

22335

225636

131673

114610384