Những góc nhìn Văn hoá

Tư tưởng “Độc lập, tự do, hạnh phúc” trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh - giá trị, mục tiêu và động lực nền tảng cho sự phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập. (Ảnh đồ họa: Quang Huy)

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là sự thể hiện tập trung, sinh động tinh thần yêu nước vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với giá trị nền tảng, xuyên suốt là tư tưởng “độc lập, tự do, hạnh phúc”.

Độc lập, tự do - Sự tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc, tư tưởng cốt lõi, giá trị nền tảng trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bản Tuyên ngôn độc lập là sự đúc kết, phát triển đến đỉnh cao tư tưởng và truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam. Đó là bản anh hùng ca bất tử, hội tụ khí phách sức lực và máu xương của Nhân dân Việt Nam. Đó là sự thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng tâm nhất trí để vươn tới sự khẳng định mình với tư cách quốc gia, với lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước - chủ nghĩa dân tộc mà cốt lõi là ý chí độc lập và khát vọng tự do được khơi dậy và phát huy trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã tạo nên động lực lớn của đất nước. Cũng nhờ ý chí độc lập và khát vọng tự do, đã động viên được cả dân tộc tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, lấy ít đánh nhiều, chuyển yếu thành mạnh. Và cũng nhờ ý chí độc lập và khát vọng tự do mà mỗi lần Tổ quốc bị xâm lăng thì toàn thể Nhân dân luôn đặt lợi ích đất nước lên trên hết, trước hết sẵn sàng gạt bỏ mọi lợi ích riêng, đoàn kết toàn dân tộc, bất chấp mọi gian nan, thử thách, kể cả hy sinh tính mạng, của cải vì độc lập của dân tộc, như Hồ Chí Minh đã tổng kết: “nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng”[1].

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi cả dân tộc đang rên siết dưới gót dày thực dân đế quốc, là một người dân thuộc địa, xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự đồng cảm sâu sắc với đồng bào bị áp bức, trong những năm bôn ba ở nước ngoài, Người đã chứng kiến nỗi đau mất nước, nỗi thống khổ bị xâm lược, bị đô hộ và bị bóc lột không chỉ ở Việt Nam mà rất nhiều quốc gia - dân tộc khác trên thế giới. Theo Người, dù da trắng hay da màu, dân tộc văn minh hay “dã man”, châu Á hay châu Phi … Đều bị áp bức, bóc lột. Thực dân đế quốc dù là Anh hay Pháp … đều tàn bạo. Từ đó, Người hiểu rằng, độc lập, tự do luôn là khát vọng cháy bỏng của mỗi con người, mỗi dân tộc bị áp bức. Khi trả lời câu hỏi của Tổng Thư ký của Đại hội Tua về việc tại sao Người lại bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều Đệ tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[2]. Đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc, ấm no của đồng bào là tâm niệm, mục đích suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người chỉ có “một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do”[3]. Vì vậy, theo Người, điều mà người dân cần nhất trên đời là “đồng bào được tự do, Tổ quốc được độc lập”.

Chủ nghĩa đế quốc thực hiện chính sách xâm lược, biến nhiều dân tộc châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh thành thuộc địa. Từ đó tạo ra sự đối lập, sự bất bình đẳng lớn nhất trong lịch sử nhân loại giữa các dân tộc đi áp bức và các dân tộc bị áp bức. Các nước đế quốc tự cho mình là “dân tộc thượng đẳng”, là “mẫu quốc”, đi “khai hóa văn minh” cho các dân tộc “lạc hậu”. Tuy nhiên trên thực tế họ lại thực hiện chính sách cai trị, bóc lột dã man, tàn bạo. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác của bọn tư bản đối với người dân thuộc địa. Về chính trị, chúng tước đoạt hết quyền tự do dân chủ, thực hiện luật pháp dã man, chia để trị, đàn áp, khủng bố, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc nhân dân thuộc địa bằng “rượu cồn và thuốc phiện” để làm cho “nòi giống ta suy nhược”. Nếu Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo đã vạch rõ tội ác của quân Minh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”. Thì hơn 500 năm sau, trong Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khắc họa rõ nét hơn tội ác của kẻ thù: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”[4]. Về kinh tế, thực dân Pháp bóc lột Nhân dân ta đến tận xương tủy, “khiến cho dân nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng”[5]. Người lên án chính sách sưu thuế vô nhân đạo của chủ nghĩa đế quốc: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”[6].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp, Nhật, tố cáo chủ nghĩa thực dân đã vi phạm thô bạo quyền tự do, độc lập và bình đẳng của các quốc gia dân tộc. Vì vậy, đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn liền với đấu tranh giành quyền tự do, dân chủ của nhân dân không chỉ riêng đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa.

Trong giờ phút thiêng liêng của dân tộc, thay mặt quốc dân đồng bào tuyên bố khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người trịnh trọng tuyên bố: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[7]. Từ quyền mỗi con người, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền của các dân tộc, suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Có thể nói, từ việc xác nhận và đề cao lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền để đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của Nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc.

Người khẳng định giá trị của độc lập, tự do mà Nhân dân Việt Nam phải hy sinh xương máu mới giành lại được. “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[8]. Đồng thời, Người nêu cao quyết tâm chiến đấu bảo vệ quyền thiêng liêng đó của dân tộc. Bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”[9]. Đây được coi là chân lý hiển nhiên, là lẽ phải không ai chối cãi được, bất di bất dịch của mỗi con người cũng như mỗi dân tộc. Độc lập, tự do là quyền tự nhiên, quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó là quyền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, độc lập về mọi mặt: về chính trị, kinh tế, văn hóa, về chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn phải thực hiện một cách triệt để theo nguyên tắc nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc về chủ quyền quốc gia - dân tộc phải do Nhân dân Việt Nam tư giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài. Độc lập đó phải được thể hiện bằng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự của Nhân dân: “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Niềm ước vọng cao nhất, ham muốn tột bậc mà suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu, hi sinh cũng là nhằm hướng tới một mục đích “là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”[10], cho đến khi phải từ biệt thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người vẫn chỉ là “không được phục vụ cho Nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Còn về phần mình, Người chỉ mơ ước một cuộc đời bình dị “một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”[11]. Với ý nghĩa đó, độc lập, tự do đã trở thành khát vọng cháy bỏng không chỉ của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là của cả dân tộc Việt Nam. Chúng ta giành được tự do và độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do cũng không làm gì, dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc ấm. Quyền dân tộc ở đây không chỉ là độc lập mà mà còn ở quyền mọi người dân được sống cuộc đời hạnh phúc.

Tuyên ngôn độc lập là bản hùng ca thời đại Hồ Chí Minh, phản ánh khát vọng, tự do, độc lập của cả một dân tộc từ thời Hùng Vương dựng nước. Suốt chiều dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, dân tộc Việt Nam luôn đã luôn bền gan, vững chí trong đấu tranh cho quyền độc lập, tự do ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân cho nền văn hiến Việt Nam - một dân tộc luôn được coi trọng bậc nhất giá trị độc lập, tự do và sẵn sàng xả thân để giữ vững giá trị đó.

Độc lập, tự do, hạnh phúc là giá trị, mục tiêu và động lực nền tảng cho sự phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hy sinh cả cuộc đời mình đấu tranh cho nền độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân. Thế kỷ XX được xem là thế kỷ phi thực dân hóa và chủ nghĩa thực dân được xem là vết nhơ lớn nhất của loài người. Việt Nam là một dân tộc đi tiên phong trong việc xóa đi vết nhơ đó.

Độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng thiêng liêng nhất của cả dân tộc, là ngọn cờ dẫn dắt toàn dân tộc, khơi dậy khát vọng yêu nước và trí tuệ con người Việt Nam: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của việc dương cao ngọn cờ độc lập, tự do dẫn dắt toàn dân đấu tranh của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giương cao hơn bao giờ hết ngọn cờ độc lập, tự do để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - giá trị đích thực của độc lập, tự do, hạnh phúc.

Trong bối cảnh mới hiện nay, sự giao lưu, hợp tác quốc tế để phát triển là xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia - dân tộc. Vấn đề đặt ra là làm sao để một dân tộc không “đánh mất mình”, không mất chủ quyền, độc lập dân tộc trong quá trình hội nhập vào dòng chảy chung của nhân loại. Có thể thấy rằng, giành lại độc lập, tự do là khát vọng to lớn nhất của các dân tộc bị áp bức trong thế kỷ XX, và Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là chiến sĩ tiên phong trong việc thức tỉnh dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và phẩm giá của con người. Lời dạy của Người vẫn còn rung động một cách thấm thía: “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng, Cay đắng chi bằng mất tự do?”[12]. “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” không đơn thuần chỉ là tiêu ngữ của quốc gia, mà còn là mục tiêu, ngọn cờ chiến đấu của Nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Giá trị độc lập, tự do thực sự đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh thực hiện khát vọng của dân tộc ta quyết không chịu làm nô lệ, không chịu đói nghèo, lạc hậu; thôi thúc triệu triệu người Việt Nam trở thành dũng sĩ xông pha trong lửa đạn, vượt qua bao gian khó, hiểm nguy để cho nước ta từng bước khẳng định tiềm lực, vị thế và uy tín của mình trên trường quốc tế.

“Độc lập, tự do, hạnh phúc” là một động lực tinh thần to lớn để Nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, đánh thắng các đế quốc to, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, “độc lập, tự do, hạnh phúc” vẫn là một động lực để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không nuôi dưỡng, hun đúc, phát huy ý thức về độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no trong mỗi con người Việt Nam hôm nay, thì chúng ta sẽ không khơi dậy được mọi nguồn lực, không tạo ra được một nội lực tinh thần to lớn để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng, phát triển đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, tiến bước cùng thời đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước. Không phát huy ý thức độc lập, tự do, hạnh phúc trong xây dựng đất nước thì sẽ rơi vào một sự lệ thuộc mới, đất nước vẫn hòa bình mà không có được độc lập, tự do thực sự.

Dưới ngọn cờ độc lập và tự do, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên, giành được những thắng lợi lịch sử mang tầm thời đại. Đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, Đảng ta khẳng định tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Trong điều kiện mới, Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; ...; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa[13]. Với khát vọng phát triển đất nước hùng cường, quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII của Đảng là bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới cả bề rộng và chiều sâu với một trình độ và chất lượng mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”[14].

Yêu cầu đặt ra là phải không ngừng “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; ...; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa[15]. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, cho đến khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm 100 năm ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, và 100 năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), bối cảnh thế giới sẽ tiếp tục còn nhiều thay đổi rất nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng tới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng chắc chắn giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về “độc lập, tự do, hạnh phúc” sẽ không thay đổi. Những bài học kinh nghiệm quý giá được đúc rút từ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục được vận dụng và phát huy, sẽ là những nhân tố quan trọng thúc đẩy công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đất nước phát triển nhanh và bền vững, dân tộc cường thịnh và trường tồn. Đó là những bài học lớn về tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng trên các mặt: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; coi cán bộ là gốc của mọi công việc, mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, bởi không thể có độc lập, tự do nếu không có được lớp người biết kế thừa và phát huy truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước. Đó là bài học lấy dân làm gốc, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược của cách mạng, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để giành được thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng to lớn, lâu dài này, chống mọi trở lực của phát triển, “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”[16]. Đó là bài học về kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới, ổn định với hội nhập và phát triển trên cơ sở đồng tâm, đồng lòng, không bi quan dao động, nhưng cũng không chủ quan tự mãn, phát huy cao độ bài học về “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về “độc lập, tự do” và chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội, kết hợp chặt chẽ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến bước sánh vai với các cường quốc năm châu theo tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khát vọng của toàn dân tộc./.

 


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1, tr. 98.

[2] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb CTQG, Hà Nội, 2015, tr. 65.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 187.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 2.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 2.

[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 2

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 1.

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd tập 4, tr. 3.

[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 3.

[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 272

[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr. 187.

[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 3, tr. 366.

[13] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 14

[14] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđ d, t. I, tr. 34

[15] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 35-36.

[16] Hồ Chí Minh, Toàn tậpSđd, t. 15, tr. 617

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114443904

Hôm nay

2155

Hôm qua

2307

Tuần này

21717

Tháng này

219078

Tháng qua

112676

Tất cả

114443904