Phố Vũ Tông Phan đặt ở quận Thanh Xuân - Hà Nội ngày nay là đoạn đường rộng 11 mét, dài 2 km, chạy ven bờ sông Tô Lịch khoảng từ Cầu Mới đến cầu Lủ, đối diện với phố Khương Đình và phố Kim Giang chạy ven bờ sông bên kia.
Tuy gia tộc Vũ Tông Phan khoảng từ đầu thế kỷ XVIII đời nối đời ngụ cư ở thôn Tự Tháp phường Báo Thiên ven bờ tây Kiếm Hồ, nhưng bản thân ông Phan quả có nhiều duyên nợ với dòng sông Tô, nên ông mới đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Tô Khê tùy bút tập, dẫu trong cả tập thơ không có bài nào về sông Tô Lịch.
Trước hết, ở bờ đối diện phố Vũ Tông Phan bên này sông ngày nay, xưa có làng Kim Lũ, cổ danh Kẻ Lủ, là quê hương bản quán của người bạn thân thiết từ thuở thiếu thời Nguyễn Văn Siêu. Siêu cùng Phan, Trung (tức tiến sĩ khoa 1838 Lê Duy Trung, người làng Thượng Phúc, huyện Thường Tín) và Vinh (tức tiến sĩ khoa 1829 Ngô Thế Vinh, người làng Bái Dương, Nam Định) là “nhất nghiễn tịch chi giao” (lời thơ Ngô Thế Vinh), tức một chiếu bạn bút nghiên, cùng theo học danh sĩ triều Lê là ông Nghè Lập Trai Phạm Quý Thích, cũng là bác ruột của ông Phan về đằng họ mẹ. Là đồng môn, Siêu cũng là “đồng niên” với Phan, tức cùng đỗ cử nhân khoa thi Hương năm 1825, nhưng Phan ngay năm sau vào kinh đô Huế thi Hội, đỗ tiến sĩ rồi ra làm quan, Siêu ở nhà đóng cửa đọc sách, ba lần khước từ ra nhận chức ở bộ Lại.
Chỉ đến khi Vũ Tông Phan chán cảnh quan trường thời “bá đạo” của họ Nguyễn, mới làm quan có 7 năm, 1833 đã từ quan về lại thôn Tự Tháp ven bờ tây hồ Hoàn Kiếm, “bổ mao tân” (tu bổ ngôi nhà lá thành mới) làm chỗ dạy học, Nguyễn Văn Siêu thường cùng bạn hữu thanh khí cũ qua lại “Kiếm Hồ u cư” (ngôi nhà u tịch bên hồ Gươm), tụ hội, “tầm nguyên phỏng cổ” (truy tìm cội nguồn học hỏi đạo cổ), luận bàn và “tái thư” (cũng như “minh thư”- đều là lời thơ của Nguyễn Văn Siêu về các cuộc tụ hội của họ) tức thề ước với nhau cùng chấn hưng văn hóa-giáo dục của Thăng Long nghìn năm văn hiến, lúc ấy đang suy đồi nghiêm trọng do chủ trương của triều Nguyễn hạ thấp uy tín cố đô để độc tôn Thần Kinh Huế. Ngay năm sau, mùa xuân 1834, nhóm sĩ phu Hà thành này nhất loạt khai trường tại các phường thôn quanh hồ Hoàn Kiếm và trong khu phố cổ. Nguyễn Văn Siêu, từ trước đó đã chuyển nhà từ Lủ ra tồng Đồng Xuân phía bắc hồ Hoàn Kiếm, bèn dựng ở đây, vẫn trên bờ sông Tô Lịch, khoảng các số nhà 12 – 14 phố Nguyễn Văn Siêu ngày nay, một ngôi nhà hình vuông, đặt tên là Phương đình, để mở trường dạy học, bởi thế ông có biệt hiệu là “Phương Đình tiên sinh”.
Một chiều cuối xuân 1834, Phương Đình tiên sinh mở tiệc khánh thành nhà dạy học Phương đình trên bờ sông Tô, “dụng đình vận chiêu thi” (lấy vần “đình” mời làm thơ). Tham dự có tiến sĩ Vũ Tông Phan, các cử nhân Trần Văn Vi, Cao Bá Quát, Lê Duy Trung, Diệp Xuân Huyên và Khoái Ông Nguyễn (chưa xác định được danh tính). Các bài xướng họa độc nhất vô nhị này vẫn còn lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. Trong bữa tiệc ấy của các bậc danh sĩ Hà thành, Vũ Tông Phan được làm bài xướng vì ông là người duy nhất trong số họ đã đỗ tiến sĩ, lại từng trải qua chức Đốc học Bắc Ninh, tỉnh đến lúc ấy đứng đầu cả nước về số lượng tiến sĩ,. Ngày xưa ấy hẳn vẫn là:
Nước sông Tô vừa trong vừa mát,
Em dừng chèo ghé sát thuyền anh…
nên thi sĩ họ Vũ mới có thể mở đề rằng:
Nhật chính tà tà, phong chính thanh
Nhiễu tường trúc thụ chính thanh thanh…
(Ánh chiều đúng lúc tà tà / gió đúng hồi tươi mát / Rặng trúc quanh tường đúng độ ngắt xanh)
Vị tiến sĩ nguyên Đốc học không ngẫu nhiên láy đi láy lại ba lần chữ “chính”, vốn vô cùng quan trọng với Nho gia, mà nhóm Phan - Siêu cũng vừa nhất trí thề ước tại các cuộc tụ hội luận bàn ở Hồ đình và Phương đình về “chính nhân tâm” (làm cho nhân tâm đúng đắn) “chính phong tục” (làm cho phong tục đúng đắn) và “chính học thuật” (làm cho sự học đúng đắn). Chữ “chính” hợp với chữ “phương” thành “PHƯƠNG CHÍNH” – phương châm tư tưởng và hành động của quân tử: NGAY THẲNG, CHÍNH TRỰC. Bởi thế, trong một bài họa đáp tại bữa tiệc khai trường Phương đình trên bờ sông Tô ấy, Nguyễn Văn Siêu đã nguyện cùng các đồng chí:
Cố tri viên thị trí,
Nguyện thủ PHƯƠNG vi hình.
(Vẫn biết tròn là khôn ngoan / Xin nguyện giữ VUÔNG làm khuôn mẫu )
Sông Tô Lịch gắn bó với họ về tình cảm, tư tưởng và sự nghiệp chung như vậy cho nên năm 1838, khi Nguyễn Văn Siêu buộc phải ứng thí, chỉ được cho đỗ Phó bảng, dẫu “văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán” (văn mà như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì văn chương thời Tiền Hán bên Trung Hoa chẳng còn là cái gì), và bị triệu vào Huế làm quan, Vũ Tông Phan trong bài thơ tiễn, đã khắc ghi với bạn tâm đắc:
Thử biệt cư hành tâm chiếu xứ
Tô giang thu nguyệt, Kiếm hồ tôn.
Xin tạm dịch:
Biệt ly soi tấc dạ này
Trăng thu Tô Lịch, men say Kiếm Hồ.
Nhưng không chỉ có vậy. Trong tâm thức của Vũ Tông Phan, sông Tô cùng núi Nùng được coi là biểu tượng của vùng đất kinh kỳ Thăng Long xưa, cũng như núi Tản sông Đà là biểu tượng của cố đô Phong Châu, núi Ngự sông Hương là biểu tượng của đất Thần Kinh Huế.
Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ là tập thơ từng được lưu hành rộng rãi ở đời sau khi ông Nghè Tự Tháp tạ thế, nhờ công lao “điểm duyệt” của một đồng chí tâm đắc khác của ông trong sự nghiệp chấn hưng văn hóa-giáo dục Thăng Long là tiến sĩ Nguyễn Văn Lý, người làng Đông Tác - Kim Liên Hà Nội. Tập thơ ấy mở đầu bằng bài Đề Tô giang (Vịnh sông Tô Lịch). Trong Tự Tháp Vũ tiên sinh thi tập, bài thơ này có đầu đề thể hiện rõ hơn tư tưởng của tác giả: Tây xuất Tô giang đăng Lí thành cảm tác (Ra sông Tô từ cửa Tây, lên thành nhà Lý cảm tác). Thi sĩ họ Vũ khẳng định công lao lập đô Thăng Long của Lý Thái Tổ là trường tồn cùng hình ảnh sừng sững của tòa thành nhà Lý trên vùng địa linh Tô Lịch mà đầu thế kỷ XIX ông còn được chứng kiến, chỉ có La thành của Cao Biền là hoang phế mà thôi:
…
Lý khuyết La thành tê
Tô giang vi nhất phái
Lý khuyết cổ thành lập
La thành hoang nhất đái
Sở văn giả bất kiến
Sở kiến giả trường tại
Dữ ngô nhất biệt hề
Kỷ hà nhi thiên tải …
Xin tạm dịch:
Ngoài cửa cung nhà Lý,
Về phía tây La thành,
Dòng Tô vẫn vây quanh
Cổ thành còn sừng sững,
Riêng thành La hoang tàn.
Trước chỉ nghe chưa thấy,
Nay thấy quả trường tồn,
Dù cùng ta cách biệt
Mấy mà nghìn năm tròn…
“Cổ thành” là đoạn đường Hoàng Hoa Thám và đường Bưởi ngày nay mà trên bản đồ Hà Nội 1873 có ghi hai Hán tự “Lý thành”, người Pháp gọi là “digue Parreau” (đê Pa-rô).
Ngày nay nhờ ý tưởng sáng tạo của KTS trẻ tài năng Hoàng Thúc Hào, một đoạn tường thành cổ nhà Lý đã được bắt đầu phục dựng nhân dịp chuẩn bị Đại lễ 1000 năm Thăng Long: đứng ở ngã ba đầu đường Hoàng Quốc Việt nhìn lên, vẫn có thể thấy mặt đường Bưởi mới được kè lại, cao hơn mặt nước sông Tô Lịch chảy bên dưới đến 3m. Tiếc rằng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan nào đó, công trình bị bỏ dở dang, không thì đã có thể lập bia khắc bài thơ của tiến sĩ Vũ Tông Phan, sáng tác gần hai trăm năm trước, ghi nhận một di tích cổ nữa của Thăng Long 1000 năm văn hiến.