- Về ý tưởng hay định huớng nghiên cứu “ngọai cảm”, thì khả năng có hạn nên tôi chỉ chú ý mặt triết học xem nó thực chất là cái gì, liên quan gì đến Tâm thức, lý thuyết phản ánh, lý thuyết thông tin, điều khiển học, hiệu ứng sinh học, lý thuyết/ chiêm nghiệm bằng tưởng thức và cả nguyên lý mày tính... và có thể khái quát lên cái gì? (lý thuyết tâm siêu trường - phản- thông, chăng?).
Hiện tại thực tế và khoa học hiện đại liên quan tới tôn giáo và triết học cũng như đời sống thường nhật đang đặt ra có nhiều vấn đề phải nhận thức, thông hiểu, nêu giá thuyết nghiên cứu. Đã có một số bài viết rất đáng chú ý. Nhưng ý kiến rất khác nhau, đối lập nhau (nhất là về tâm linh và các hiện tượng dị thường, về “hồn”:, :”vong”). Không mạnh dạn, né tránh là không nên. Cố nhiên là không thể chủ quan, nóng vội mà cẩn thận, chờ đợi nữa, nhưng đặt lại vấn đề là cần thiết. Nhận thức là một quá trình, có thể sai sót, nhất là vấn dề phức tạp, mù mờ như tâm linh, linh hồn. Với tinh thần đó, chúng tôi xin nêu và thảo luận về một vài vấn đề trên cơ sở thu hoạch, tổng hợp một số ý kiến các nhà nghiên cứu, bình luận và kiến giải để nghiên cứu, trao đổi, như sau:
1-Khái niệm tâm linh
Không thể đồng nhất tâm linh với tâm vụ trụ, cũng như không thể đồng nhất với “linh hồn người sau khi chết”?, nếu có.
Như chúng tôi đã có dịp trình bày, theo Roberto Assagioli, con người chỉ biết hướng vào thế giới vật chất bên ngoài mà lãng quên thế giới bên trong, cái tâm linh với những cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt, những cái dần dần mất đi và như vậy con người dần dần tự đánh mất mình, đây là điều tệ hại nhất đối với sự tồn tại của con người như nhận xét của chính tác giả. Ông muốn lập lại thế cân bằng của cả mặt hương ngoại và hướng nội của đời sống con người .
Tác giả coi tâm linh là một tồn tại hiên thực cần nghiên cứu theo phương pháp tâm lý học và chống lại việc khai trừ hiện tượng tâm linh ra khỏi phạm vi nghiên cứu khoa học và giải phóng nó ra khỏi rào chắn của các thiên kiến bị dồn nén trong các tôn giáo, triết học và các hệ tư tưởng thần bí khác nhau, ông đã đề xướng một hướng nghiên cứu thực nghiệm về nó, phương pháp Tổng hợp tâm lý coi con người là một thực thể sinh học - tâm lý - tâm linh, từ đó tạo ra phương pháp vững chắc để phát triển cá nhân, đúng như Roberto Assagioli (Ytalia) nhận xét. Ông coi con người là một nguyên tử có cấu tạo - tương tác giữa cấu trúc sinh học với cấu trúc tình cảm, tinh thần, tâm linh có tổng số năng lượng xuyên cả vũ trụ, con người là một hành tinh, một vũ trụ vi mô vĩnh viễn sinh thành, như một hệ thống mở với một sự sống vô hạn mà con người phải tự mình khám phá.
Vấn đề tâm linh, siêu thức là mạch ngầm trong đời sống tinh thần con người, được xem xét cả ba chiều: chiều văn hóa, chiều khoa học, chiều cá nhân từ chiều sâu đến đời thường trong sự vận động phong phú, sinh động của nó. (Cuốn sách Sự phát triển siêu cá nhân” cuả Roberto Assagioli) mà chúng tôi đã trình bày trong bài viết, Con người một tiểu vũ trụ- con người sinh thái cin người tâm linh, trên Chungta.com).
GSTS. Phạm Ngọc Quang, trong một bài viết (Xem Phạm Ngọc Quang, Góp phần tìm hiểu khái niệm “tâm linh”, mối quan hệ của nó với khái niệm “phản ánh” ,Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5/ 59/2008. tr.8-10) cho rằng, Tâm linh không phải là vấn đề mới, nhưng do nhiều nguyên nhân, vấn đề này chưa được đầu tư nghiên cứu đúng mức. Do vậy, quan niệm về nó còn có những ý kiến rất khác nhau. Sự cha tường minh trong nhận thức lí luận về “tâm linh” dẫn tới những cách đối xử rất khác nhau đối với nó. Thực tế trong những năm qua cho thấy, hầu hết chúng ta rơi vào hoặc là hữu khuynh, hoặc “tả” khuynh khi giải quyết vấn đề tâm linh. Để góp phần khắc phục hai cực đoan sai lầm đó, cần có sự đầu tư nghiên cứu công phu hơn, nghiêm túc hơn đối với vấn đề này….
Tác giả cũng đó bước đầu khảo sát khoái niệm tâm linh và đưa ra cách hiểu của mình. Nhưng chúng tôi thấy vẫn chưa đúng và có chỗ chưa thật ổn. Tác giả trình bày và lựa chọn các hàm nghĩa rõ ràng và có ý phản biện có phần rất đúng, như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, “tâm linh” là khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm (Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội – Trung tâm từ điển, Hà Hội, 1994, tr. 865). Trong quan niệm này, có hai điểm cần bàn: Một là, tâm linh không chỉ là khả năng tự mình biết trước biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, mà còn là khả năng biết trớc biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với người khác; hai là, có hai khả năng khiến người ta biết trước biến cố nào đó có thể xảy ra: a/ hoàn toàn có cơ ở thực tế, có thể kiểm chứng được chứng tỏ rằng sẽ có biến cố xảy ra (thí dụ, xăng để gần nơi nấu ăn nhất định sẽ sinh cháy nhà gây tai nạn chết ngời); b/ được sự mách bảo bởi lực lợng vô hình nào đó, bởi một tâm thức hết sức mơ hồ, trừu tượng không có cơ sở thực tế nào mà người đó vẫn biết trớc có sự cố nào đó sẽ xảy ra. Theo chúng tôi, chỉ trờng hợp thứ hai mới gọi là tâm linh, mới thuộc về hiện tượng “tâm linh”. Nhà nghiên cứu Lê Minh cho rằng: “Con người sở dĩ trở thành con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh - nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn” (Lê Minh, Chủ biên). Văn hoá gia đình Việt Nam và sự phát triển, Nxb..Lao động, Hà Nội, 1994, tr. 36.). Trong quan niệm tương tự, Vũ Tự Lập viết: “Thế giới tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, mà ở đó chỉ có cái gì cao cả, lương thiện và đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Cả cộng đồng tôn thờ và cố kết nhau lại trên cơ sở của cái thiêng liêng đó” (Vũ Tự Lập, Chủ biên). Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Hồng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.10). Theo chúng tôi, “cái thiêng” như là cơ sở cố kết cộng đồng có nhiều loại khác nhau, ít nhất có hai loại cơ bản: “cái thiêng” mang tính trần tục (như Tổ quốc, quê hương, làng xã..), “cái thiêng” mang tính siêu tự nhiên (nh Chúa Giêsu, Thích Ca Mâu Ni). Việc xếp cả hai loại đó vào “thế giới tâm linh” là không hợp lí. Trong trường hợp thứ hai, xem thế giới tâm linh là thế giới của những lực lượng siêu tự nhiên sẽ làm nhòa ranh giới giữa “tâm linh” và “tín ngỡng tôn giáo”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy cho rằng: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” (Nguyễn Đang Duy. Văn hoá tâm linh, Nxb. Hà Nội, 1996, tr.14.). Quan niệm này rất gần với quan niệm của Lê Tự Lập. Như trên đã đề cập, trong cuộc sống đời thường, “cái thiêng liêng cao cả” có thể là những con ngời, sự vật hiện thực (quê hơng, đất nớc, ngời có công với nớc); trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo, “cái thiêng liêng cao cả” là những yếu tố siêu tự nhiên (thần linh, Thượng Đế, Đức Chúa Trời). Trong trường hợp thứ nhất, theo chúng tôi, không thể xem đó là tâm linh. Trong trờng hợp thứ hai, đã đồng nhất tâm linh với tín ngỡng tôn giáo. Theo Nguyễn Hoàng Phương: Tâm linh là lễ nghi ma thuật của các tộc người nguyên thuỷ; là bói toán, tiên tri thời cổ đại; là tôn giáo, thần học thời trung cổ; là ngoại cảm, là sự hài hoà của vũ trụ, một phần là biểu hiện của trí tuệ đại vũ trụ thời hiện đại. Từ đó, ông dự báo rằng: “Các hiện tượng tâm linh sẽ trở thành khoa học thống soái của các thế kỉ sau, cũng nh khoa học vật lí là đế vơng của thế kỉ này” (Nguyễn Hoàng Phơng. Tích hợp đa văn hoá Đông - Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr. 727.). Trong quan niệm nêu trên, đặc biệt là quan niệm về tâm linh thời hiện đại, tác giả đã định nghĩa “tâm linh” bằng cách quy nó về một số khái niệm mà bản thân các khái niệm đó cũng chưa rõ: “Ngoại cảm”, “sự hài hoà của vũ trụ”, “biểu hiện của trí tuệ đại vũ trụ”.
Trong những năm gần đây, trên sách báo chúng ta dùng chữ “tâm linh” để chỉ những hiện tượng như chị Hằng, cô Phơng, anh Liên tìm mộ, tìm người đã khuất hoặc còn sống; biết được những gì đã diễn ra trước khi, trong khi, sau khi chết của một con người cụ thể. Liên quan tới sự hiểu biết của người có khả năng đặc biệt, theo GSTS. Phạm Ngọc Quang, có hai khả năng xảy ra:
Một là, nhờ có khả năng đặc biệt, tự bản thân người đó biết được một số sự kiện đã, đang và sẽ xảy ra – mặc dầu họ không trực tiếp trải nghiệm, không trực tiếp chịu sự tác động, không chứng kiến các sự kiện đó.
Hai là, nhờ sự mách bảo của người đã khuất (vong) đối với người có khả năng đặc biệt kia. Chỉ một số người có khả năng đặc biệt (mà phần nhiều, khả năng này chỉ xuất hiện sau biến cố đặc biệt của người đó) mới “nghe” được tiếng nói của vong, mới “nhìn” thấy vong, mới tiếp xúc được với vong. Làm theo những chỉ dẫn của vong, con người có thể đạt những kết qủa nhất định.
Khái niệm “tâm linh” được dùng để chỉ những hiện tượng như vậy.
Chú ý tới điều vừa trình bày trên đây, có thể hiểu: “Tâm linh là khái niệm dùng để chỉ niềm tin vào khả năng tồn tại của vong (người sau khi chết) với khả năng nhận thức của vong, tin vào khả năng đặc biệt của con người có thể tiếp xúc với vong, nhờ vậy, có thể giúp con ngời đang sống biết được những thông tin về một số vấn đề đã, đang và sẽ diễn ra, từ đó, con người nhận thức và hoạt động có hiệu quả cao hơn” (PNQ)
Còn theo Hà Yên, tiếc thay, sự lầm lẫn đã dẫn đến một định nghĩa sai lầm, rằng Tâm linh chỉ là “Thế giới bên kia” (Thế giới của linh hồn sau cái chết). Một định nghĩa như thế, chẳng những tự phủ định chính mình, coi mình đang sống không có đời sống Tâm linh, nghĩa là một đời sống vô cảm ? (một hệ quả hết sức phi lý), mà còn phủ một màn sương u minh vào cái phần thanh khiết nhất của phẩm chất làm Người: Cái phẩm chất làm nên sức mạnh và động lực tinh thần của một cá thể, một cộng đồng dân tộc nói riêng, và của nhân loại nói chung(Hà Yên,http://www.chungta.com/nd/con-nguoi-1/tam_linh_lan_lon_va_tham_hoa/default.aspx).
Theo ĐKC, Theo quan niệm chính thức trong lĩnh vực dị thường học, ngoại cảm ESP (Extra-Sensory Perception) là sự cảm nhận không dùng năm giác quan quen thuộc. Nói cách khác, đó là giác quan thứ sáu. Ngoại cảm được chia thành bốn phạm trù: Thần giao cách cảm, thấu thị (hoặc thấu thính), tiên tri và hậu tri. Thần giao cách cảm (telepathy) là khả năng đọc ý nghĩ của người khác. Thấu thị hoặc thấu thính (clairvoyance hoặc clairaudience) là khả năng nhìn xuyên tường hoặc nghe được những âm thanh mà tai không nghe được. Tiên tri (precognition) là khả năng thấy một sự việc trước khi nó xẩy ra. Còn hậu tri (retrocognition) là khả năng giải đoán quá khứ, chẳng hạn biết “kiếp trước” của một người nào đó.
Thuật ngữ tâm linh trong lĩnh vực dị thường học được chia thành ba nhóm chính: Ngoại cảm (như trên); viễn di tâm học (psychokinesis), tức sức mạnh tâm trí trên vật chất, như bẻ cong thìa bằng ý nghĩ; và liên lạc với người chết. Theo tâm linh luận, một quan điểm tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, giới đồng cốt là những người có thể liên lạc với cõi âm (http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/ts-do-kien-cuong-tat-ca-ngoai-cam-tim-mo-deu-la-lua-dao-n20131030105442933.htm).
Chúng tôi, người viết bài này, cho rằng các tác giả có sư phân biệt về hiện tượng tinh tế nhưng quy tâm linh vào chỉ một hiện tượng có niềm tin vào 1) sự tồn tại của vong hồn (sau khi đã chết) và 2) vong hồn ầy có khả năng nhận thức, mách bảo, giúp người sống biết thông tin, dã đang và sẽ diễn ra giúp được con người họat động có hiệu quả hơn, và 3) con người (một số) có khà năng tiếp xúc được với vong… là không quá hạn hẹp và về bản chất “vong” là như thế nào, thực như thế nào thì rất đáng bàn...la qáu hạn hẹp, dù là quan trọng bậc nhất.
Chúng tôi sẽ lần lựợt trình bày ý kiến bước đầu của chúng tôi đây Nhưng xin vấn tắt trước như sau:
Tâm linh thường được hiểu rất đa dạng và khác nhau, nhưng theo nghĩa hẹp qui vào 2 phương diện. Hoặc là 1) hồn ma con người, hoặc thần thánh, 2) hoặc năng lực thần bí/ bí ẩn của vũ trụ hay con người. Tức là nó thể hiện 1) ở tín ngưởng dân gian, ở tôn giáo; 2) năng lực đặc biệt chưa rõ và có vẻ huyền bí ở con người hay tự nhiên. Cần chú ý “hồn ma”, thần thánh (phi thể xác) và năng lực tự nhiên, còn huyền bí của vũ trụ là khác nhau (năng lực vật chất vô hình hay phi vật thể, hay gần như với cái gọi là năng lực phản ánh thông tin - “trí tuệ vũ trụ”). Nhưng nhìn chung cả hai là tính “siêu nhiên” chăng? Không phải!
Như vậy bản chất của tâm linh là linh thiêng hóa cái huyền bí thế giới vật chất - con người và niềm tin về cái thiêng liêng siêu nhiên đó.Tâm linh như vậy là thiêng liêng hóa cái huyền diệu chưa biết. Quan niệm về Thượng đế hay linh hồn bất từ từ đó mà ra. Có tâm linh tôn giáo, tâm linh tín ngưỡng dân gian, tâm linh về hiện tượng dị thường.
Có người còn mở rộng tâm linh, xem nó là toàn bộ ý thức (hữu thức, vô thức, siêu thức cả cấp độ tình yêu, mơ ước, niềm tin, lý tưởng…).Theo đó, chúng tôi cho rằng, bản chất Tâm linh theo nghĩa rộng là đời sống tinh thần hướng thiện, cao cả, tốt đẹp và linh thiêng.
Còn “linh hồn” sau khi chết, nếu có, chỉ là một loại cụ thể của tâm linh. Hơn nữa “linh hồn”- một hình ảnh nào đó của con người mà sau khi chết vẫn “còn tồn tại” và có người có năng lực ngoai cảm có thể thấy, biết được nhưng không thể có linh hồn sống và tư duy, mảnh bảo như người đang sống. Bên cạnh “linh hồn” ấy còn thần thánh và nhất là Thượng Đế, Tiên - Phật và những huyền diệu vật chất khi chưa biết, đã bị linh thiêng hóa (“trí tuệ vũ trụ”- cách nói hình tượng hóa), hay Tâm vũ trụ?.
Cần phân biệt bản chất của tâm linh, ý thức tâm linh, với biểu hiện của nó, các hình thức tồn tại của nó, tạo nên “hiện tượng tâm linh” (ngoài con người và trong con người như thế nào, nhưng không có khu vực riêng- cõi âm). Theo nghĩa rộng thì nó còn gồm cả hiện thực tâm linh và ý thức tâm linh của con người. Không hiểu như vậy, cứ nói “linh hồn”, thần thánh rồi cứ ca ngợi, hay phê phán tâm linh một chiều là không hợp lý.
2) Tâm lý học chiều cao và vấn đề Tâm, tâm thức, tâm trí, tâm linh
Chúng ta cần tìm hiểu các bí mật của vũ trụ và con người, sẽ rõ ràng hơn về lâm linh:
Không thể“khai trừ hiện tượng tâm linh ra khỏi phạm vi nghiên cứu khoa học”
Theo Roberto Assagioli, trên thế giới đang hình thành một nhánh khoa học mới: Tâm lý học chiều cao, nghiên cứu quá trình chuyển siêu thức vào cái trường ý thức thông thường với các mô thức: 1- Trực giác; 2-Tưởng tượng; 3- Lóe sáng; 4-Phát hiện; 5- Ngẫu hứng; 6- Sáng tạo; 7- Hiểu và lý giải.
- Trực giác có mức thấp là tri giác, rồi đến trực giác ý tưởng, trực giác trí tuệ, trực giác khoa học hay tôn giáo, trực gíac gắn liền với tình yêu
- Tưởng tượng gắn liền với trực giác, có cái tái hiện giản đơn, có cái tưởng tượng tái hiện, tưởng tượng sáng tạo
- Lóe sáng là đỉnh cao của trực giác nhưng trực giác chỉ thấy một mặt còn lóe sáng là nhận thấy toàn bộ, thống nhất tổng hợp
- Sự phát hiện là lóe sáng nhưng là nhận ra cái chưa biết tiền ẩn
- Ngẫu hứng và sáng tạo. Lóe sáng tạo ra ngẫu hứng, ngẫu hứng tạo ra sáng tạo, sáng tạo là sinh ra cái mới từ trên nền tảng ấy.
- Hiểu và lý giải bằng lý trí.
Sự phát triển của cái tâm linh. Tâm linh hay cái siêu thực thường là cái tiềm ẩn trong đời sống tinh thần, do những tác động ngoại cảnh có thể trở nên sống động, trãi qua một quá trình lâu dài, khó khăn mà ở đó năng lực tâm linh trước không hoạt động bây giờ trỏ nên sinh động và sáng tạo đã làm cho sự khủng hoảng, làm rối động thần kinh tâm thần.
Quá trình đó là: 1- Các cuộc khủng hoảng trước sự thức tỉnh tâm linh; 2- các cuộc khủng hoảng do sự thức tỉnh tâm linh sinh ra; 3- những phản ứng tiếp theo sự thức tỉnh tâm linh; các cuộc khủng hoảng gắn liền với các giai đoạn của quá trình biến đổi; 5- đêm tối của tâm linh. Sự diễn biến này có thể dẫn tới các kết quả khác nhau, tích cực hay tiêu cực, có thăng hoa sáng tạo hay không là tuỳ theo khả năng làm chủ bản thân, rèn luyện, thanh lọc ở từng người. Tác giả đã trình bày cụ thể sinh động về vấn đề này.
"Tâm linh là yếu tố siêu việt, ưu việt, thường hằng, tự do, nội tâm, sáng tạo, hài hòa và tổng hợp ở trong tất cả những gì biểu hiện ra về mặt cá nhân cũng như tập thể", với ý nghĩa đó, tâm linh (theo nghĩa rộng) trong cuộc sống hàng ngày, được biểu hiện ra ở những yếu tố sau đây:
- Lòng dũng cảm khiến cho người ta vượt qua bản năng bảo tồn thể xác;
- Tình thương yêu và tận tuỵ đối với người khác, đối với tổ quốc mình đối với loài người khi vượt qua thói vị kỷ;
- Ý thức trách nhiệm;
- Ý thức hợp tác, đoàn kết, tính xã hội;
- Không vụ lợi, tận tụy và hy sinh bản thân mình;
- Ý chí, khả năng tự quyết định, lực chọn, tự chủ, tổng hợp;
- "Hiểu biết, tức mở rộng lĩnh vực ý thức của chúng ta tự đồng nhất với những thực thể khác, với những biểu hiện khác của sự sống phổ biến và nhất là hiểu biết sự sống phổ biến này, lĩnh hội ý nghĩa và mục đích của nó thừa nhận một ý chí, một sức mạnh thông minh, sáng suốt, yêu thương từ Vũ trụ đến hướng dẫn sự tiến hóa của sự sống phổ biến và đưa nó tới một mục đích vinh quang".
Điều này chỉ đúng, khi hiểu “sự thông minh, sáng suốt, ý chí” (sự nhân cách hóa vũ trụ)… của thực thể sự sống vũ trụ chính là một thuộc tính có năng lực phản ánh, thông tin cuối cùng thể hiện cao nhất ở năng lực nhận thức cả lô gích và trực giác tâm linh của con người có ý thức mà trình độ cao nhất là cái siêu thức trong mối liên hệ với cái vô thức và hữu thức. Theo nghĩa này tâm linh là cái ở trình độ siêu thức.
Như vậỵ, là cái siêu thực, tâm linh có nhiều trình độ, mức độ khác nhau, ở từng người cũng khác nhau, có thể là cái thiêng liêng, cái siêu việt, cái cao cả thăng hoa ở mức cao hoặc cũng thể hiện trong cái thường ngày dưới hình thức "cái bình thường".Có lẽ tác giả này hiểu tâm linh theo nghĩa quá rộng chăng?
Có thể hiểu rằng cái siêu thức, cái tâm linh - trường ý thức này gắn liền với trường vũ trụ, dưới dạng vật lý lượng tử và siêu vật lý, vật lý sự sống của thế giới tâm thần, có năng lượng tâm thần và năng lực tinh thần cao, tinh khiết, tổng hợp khi hoà nhập vào trường ý thức - hữu thức dù từ vô thức trào dâng hay từ trên cao của vũ trụ tâm linh trên hữu thức tràn vào trường hữu thức đó đã lóe sáng nhận thức, trực giác năng động sáng tạo, biểu hiện rõ nhất trong các sáng tác văn học nghệ thuật, tôn giáo, triết học và khoa học của nhiều vĩ nhân trên thế giới, hoặc của cả con người bình thường diễn ra trong những trường hợp hàng ngày nhưng mang ý nghĩa đặc biệt.
Theo chúng tôi, có 4 lớp khái niệm cần chú ý: Tâm, tâm thức, tâm trí, tâm linh (không kể các khía niệm cụ thể hơn như tâm tinh, tâm tư, tâm niệm) mà chúng ta thường nói Tâm là khái niệm gốc, nó là cái toàn thể, chỉ thế giới vật chất vô hình (vi tế) ở cấp độ cái có là bản thể với các thuộc tính (phi không gian phi thời gian, năng lực phản ánh, tương tác, các lực trường, …) có năng lực sinh ra tất cả. Nó bất biến – bản thể nhưng nó cũng khá biến tức biến hóa vào không thời gian cụ thể thành “tâm thô kệch”. Tâm và vật cũng như Sóng và hạt là hai mặt cùng tồn tại và biến hóa, chuyển hóa lẫn nhau chứ không phải bên cạnh nhau bất biến. Nghĩa là trong vật có tâm, trong hạt có sóng và ngược lại khi xét nó ở trạng thái động, còn trạng thái tĩnh thì thấy cái nào là cái ấy thôi. Nhưng từ đó trong tương tác cụ thể ấy lại nảy sinh ra ở cấp độ tâm (tinh) cụ thể như sinh thức, tâm trí, tâm thức và tâm linh.. Sinh thức là năng lực phản ánh, cảm ứng sinh học. Tâm thức là tâm ở trình độ tri thức, trí tuệ, hiểu biết lý trí. Tâm thức là các biểu biện về tâm lý .
Tâm linh là linh thiêng hóa cái huyền bí thế giới vật chất- con người và niềm tin về cái thiêng liêng siêu nhiên đó. Năng lực cảm biết, thông hiểu cái huyền bí ấy là Siêu thức (trực giác linh cảm hay “tưởng thức”- tưởng thức chứ không phải là tưởng tượng mà là siêu thức, ngoại/ cận tâm lý). Không nền nhầm lẩn các khái niệm này. Tâm thức, tâm trí, tâm chí, tâm tinh, tâm khí là thức ý thức của con người. Ý thức của con người hay là tinh thần/ ý thức là do tương tác của tâm và vật trong vũ trụ sinh ra trong không gian thực tiễn cụ thể là loài người (trong óc người). Nên ý thức là cái có sau thế giới vũ trụ tâm vật ấy là đúng.
Còn tâm - vật vũ trụ là đồng thời. Nhưng ý thức con người ở cấp độ con người, loài người lịch sử thì ý thức ấy là cái không có ở tâm vụ trụ (cái riêng/ bộ phận phong phú hơn cái chung/ toàn thể), nó cũng là hính thức cao nhất trong tiến hóa của cái Tâm vũ trụ. Nhưng nó tư duy vẫn trên cái nền tâm vũ trụ và dựa một phần vào năng lực vũ trụ. Óc người có những phần hoạt động như sau: phần siêu thức, hữu thức và phần vô thức. Trong siêu thức có phần tinh thần của hữu thức đã vô thức hóa và phần hữu thức siêu thức hóa hay vũ trụ hóa. Hoạt động của tưởng thức. trực giác, ngoại cảm là cái siêu thức đấy, nhưng là khi có liên thông với cả hữu thức, vô thức và siêu thức (các loại tế bào thần kinh của các dạng thức này đều bị kích họat), nhưng tât cả đều hoạt động trong não người.
Theo A.G.Xpirkin (quan điểm của chủ nghĩa duy vật hiện đại, xin nhắc lại), cái tinh thần, ý thức của con người không thể tồn tại ở ngoài đầu óc con người và nó cũng không thể tách khỏi hoạt động xã hội. A.G.Xpirkin đưa ra định nghĩa về ý thức như sau: “Ý thức – đó là chức năng cao nhất của bộ óc, nó chỉ có ở con người và có liên quan với ngôn ngữ, chức năng này nằm trong sự phản ánh khái quát và có tính hướng đích rõ ràng đối với hiện thực trong việc xây dựng hành động có tính dự đoán trước những kết qủa của nó, trong sự điều chỉnh hợp lý và tự kiểm tra hành vi của con người” (Xpirkin A.G. Những cơ sở của triết học, Moxkva,1988, tr. 132). Định nghĩa này đã duy lý hóa cái ý thức, tất định hóa nó, không thấy cái ngoài duy lý, phi tất định.
Không thể đồng nhất làm một Tâm vũ trụ với ý thức con người. Nếu đồng nhất sẽ coi ý thức và tâm vũ trụ có đồng thời là không đúng, gây lầm lẫn… Nhưng giữa chúng có cái giống nhau ở chỗ đều sử dụng và hoạt dạng ở dạng sóng, phản ánh, thông tin, nghĩa là có chất tâm, vật chất vi tế (ở ý thức)… Nói sinh vật thông minh là nói về sinh thức (hoạt động theo các nguyên lý của sinh học phân tử và nhiều nguyên lý khác). Nói vũ trụ (ngoài con người) “thông minh” là nói về hoạt động của tâm vũ trụ. Nhưng tâm này, “trí tuệ vũ trụ”, nói theo hình ảnh của con người. Nó - “trí tuệ vũ trụ” (tâm vũ trụ) thực ra chính là lôgích (các qui luật), là kết quả các tương tác, phụ thuộc và tương sinh, là các dạng cấu trúc và năng lượng, phản ánh, cảm ứng, hiệu ứng, thông tin/ hay siêu năng lượng, phản ánh, cảm ứng, hiệu ứng, thông tin, tức không chỉ là dạng vật lý, sinh học mà cả dạng cao sâu hơn, nó là năng lượng phản ánh, cảm ứng, hiệu ứng, thông tin, tâm bản.
Trong khi đó, theo các nhà khoa học, con người có bảy cơ thể vô hình đó là:
1)- Cơ thể Ketheric, tại đây tâm thức thực hiện cá quan điểm cao cấp về tri thức (tổng hợp) và hệ thống đức tin;
2)- Cơ thể Thiên, tâm thức biểu hiện cảm xúc cao cấp như tình thương bao la trùm lên mọi sự sống;
3)- Cơ thể Eheric mẫu, tâm thức biểu hiện dạng ý thức cao cấp về sự vật xuyên qua bề ngoài của chúng;
4)- Cơ thể Tinh tú, tâm thức ở đây là vượt qua từng người, mang tính nhân loại;
5)- Cơ thể Tâm thần, ở đây tâm thức biểu hiện tư duy lý tính, phân tích giản đơn;
6)- Cơ thể Cảm xúc, tâm thức biểu hiện những cảm giác như khoái lạc, sợ hãi buồn, giận, lo, vui, tình yêu…;
7)- Cơ thể Vật lý, tâm thức ở đây ở dạng bản năng, phản xạ và điều khiển tự động của các cơ quan nội tạng .
Như vậy, cần hiểu con người trong tổng hòa giữa cái hữu hình và vô hình, không nên coi nhẹ mặt nào, dù rằng hàng ngày chúng ta thường chỉ thấy mặt hữu hình. Theo Tịnh Tiến (những vấn đề về tiềm năng con người) ta hãy điểm lại hai trường phái về Tâm:
1) Trường phái Não Luận (cérébrocentriseme) chủ trương rằng tâm chỉ là hiệu ứng hay phương diện tác dụng của bộ não, của hệ thần kinh, của hệ nội tiết, nói gọn lại là hoạt động hóa - điện trong khuôn viên Thời - Không của một số mô tế bào có cấu tạo Hạt. Nếu có sự xộc xệch, "bệnh tật" của chúng thì tâm cũng hết hoạt động bình thường, thậm chí tâm chấm dứt hẳn hoạt động, tức là Chết. Tóm lại, thân chết là tâm chết, và chết là hết, không còn gì để bàn nữa. Não luận có sức thuyết phục mạnh mẽ ở chỗ mọi người đều thấy quả thật thân chết, ví dụ ngã vỡ sọ, thì tâm chết. Nhưng như thế là Hết chăng? Luận điểm cuối cùng này chỉ đủ vững chắc khi não luận bác bỏ được mọi hiệu ứng Linh của Tâm.
2) Trường phái Tâm Luận (psychocentriseme) lại cho Tâm, chẳng những có một vị thế độc lập với não mà lại còn xem Tâm là thực thể đầu tiên, còn não chỉ là công cụ thể hiện, hiệu ứng dẫn xuất hoặc kênh trào ra của Tâm. Có lẽ trong nguồn gốc sâu xa, Tâm Luận phát sinh từ thuyết "linh hồn vĩnh cửu” của Đạo Cơ Đốc, sau này được củng cố mạnh mẽ bởi những hiện tượng "linh" được trắc nghiệm chặt chẽ và nhiều lần.
Phải chăng, từ vị thế yếu hơn lúc đầu, Tâm Luận dần dần tiến lên vị thế áp đảo hơn so với Não Luận?.
"Khoa học của thế kỷ XXI phải là khoa học tâm linh, nếu không sẽ không làm gì còn khoa học nữa" (André Malraux). Như vậy phải chăng, là khoa học sẽ hiểu đựợc tâm linh. Trong khi đó vó bài viết nói rằng khoa học cuối cùng là nghiên cứu cái tâm thức.. Nhưng tâm thức và tâm linh đâu có là một!? Tâm linh chỉ là một mặt của Tâm thức?
Huy Minh còn lý tưởng hóa phần mềm máy tính cho rằng có phần mềm vũ trụ (?): “Chúng ta có thể thấy được sự gần gũi của Tâm linh với sức mạnh của máy tính và Internet. Những phần mềm tin học như những người ảo đã hiện diện ở khắp nơi khắp chốn trong xã hội loài người. Sức mạnh của phần mềm, của mạng Internet chính là sức mạnh của Trí tuệ, của sự sáng tạo và cũng chính là sức mạnh Tâm linh xuất hiện một cách phù hợp nhất, không gây sốc cho con người. Nên nhớ rằng, sự phát triển của một thực thể lớn như vũ trụ không có tính đột biến, sự đột biến sẽ gây sốc và sẽ làm hỗn loạn. Với Internet, sự biến đổi đã rất nhanh chóng, 20-30 năm bằng cả nghìn năm trước, tuy nhiên đã không làm chúng ta phải sốc, chúng ta hoàn toàn chấp nhận được những kỳ tích của thời đại kinh tế tri thức. May thay, Việt Nam bắt kịp rất nhanh cả về lý luận và thực tiến.”(Huy Minh).
Liệu chúng ta có nhầm giữa tâm linh và tâm thức không?
3- Phải có cái nhìn ở chiều cao, chiều sâu và tổng tích hợp lý thuyết
Giả thuyết là cần có một cái nhìn tổng hợp tâm siêu trường - phản – thông (tâm thức, trường sinh học tâm thần, phản ánh và thông tin) là cơ sở giải thích tâm linh, “hồn”, “vong” trên nền tảng tâm vũ trụ và não người.
- Từ những khái quát phân tích các định luật hiệu ứng sinh học, hiệu ứng tâm thức nói trên cho ta quan niệm về sự hài hòa trong và tương tác, tuơng khắc, tương sinh, tương thuận giữa thể sinh học nguời và môi trường xung quanh cùng vũ trụ của nó. Sức khỏe và đạo đức, tài năng của con người, kể cả năng lưc dị thường có thể giải thích được về mặt nguyên nhân sinh học vũ trụ và hệ nhân thể này (từ phong thủy đến hiện tượng dị thường.).
Điều đáng chú ý là khà năng khai mở 90% năng lực tiềm ẩn trong não người, mà “hộp đen” này sẽ chứa đựng tất cả các năng lực của vũ trụ, năng lực về “Tính thấy”(Phât tính), và các năng lực tầm nhìn xuyên đêm tối, nhìn thấy vật xuyên vật, nhìn và nghe mọi âm thanh không thể nghe bằng tai thường, thấy bằng, mắt thường, những giao tiếp bằng thông tin đện từ và thông tin sinh học từ xa… mà các động vật vẫn có. Đó cũng là những năng lực dị thường mà thỉnh thoảng có người có hay mở được “túi càn khôn”.
Nhưng hiện nay có nhiều câu hỏi đặt ra chưa giải thích được về mặt khoa học. Rằng liệu khi chết thì 10% hay cả 90% ấy của não thoát ra ngoài? Có thể là cả hai. Cả hai cái này hỗ trợ với nhau thế nào? giữa vô thức, tiềm thức và hửu thức ở “linh hồn” người đã chết có hòa nhập vào nhau không? Hoặc hòa nhập với “trí tuệ vũ trụ” thề nào? Nhưng khó nhất là “hồn” người chết còn có khả năng suy nghĩ, giao tiếp như khi đang sống, thậm chí còn hơn thế không?
Hiện nay giới khoa học vật lý và sinh học có ý kiến rất khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, Nhưng các nhà triết học thì hầu như im tiếng. Mới đây GS, Phạm Ngọc Quang đã có trình bày bài nghiên cứu rất đáng chú ý. (xem Góp phần tìm hiểu khái niệm “tâm linh”, mối quan hệ của nó với khái niệm “phản ánh” )
Theo Phạm Ngọc Quang, trong hệ vấn đề cần làm sáng tỏ, thì việc hiểu “tâm linh” là gì, nó có quan hệ như thế nào với “phản ánh” chiếm vị trí then chốt nhất, nó là chìa khoá để hiểu mọi vấn đề còn lại của “tâm linh”. Rằng, trong quan niệm nêu trên về “tâm linh”, khi xem xét mối quan hệ giữa “tâm linh” và “phản ánh”, cần phân biệt hai khả năng tương ứng nêu trên:
Thứ nhất, một người nhờ khả năng đặc biệt có được hiểu biết nào đó về quá khứ, hiện tại và tương lai của mình, của đối tượng khác (đã chết hoặc đang còn sống) không phải nhờ “sự mách bảo” của vong mà do họ tự cảm nhận được, tự mình có được những hiểu biết đó (kể cả về quá khứ của người đã khuất, hiện tại và tương lai của người đang sống, mặc dù trước đó không biết gì về họ). Trong trường hợp này, nếu chỉ dừng lại kiến thức cơ bản về lí luận phản ánh như lâu nay chúng ta đã biết - mà theo đó, “ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, là hình ảnh của sự vật có trong não người nhờ sự vật tác động vào các giác quan của con người thì hoàn toàn không thể lí giải được. Như vậy, vấn đề tâm linh có liên quan nội tại với học thuyết phản ánh, nhưng theo hướng: học thuyết phản ánh không đúng (hoặc chưa bao quát được hiện tượng này), hoặc cần nhìn nhận học thuyết phản ánh trên một tinh thần mới, liên quan tới sự biến đổi có tính vật chất trong quá trình phản ánh: Sự tác động qua lại giữa những sự vật vật chất (bao gồm: các sự vật tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của chủ thể phản ánh và các khí quan vật chất của con người) sẽ gây ra những biến đổi vật chất trong não người (có thể dưới dạng những xung động thần kinh, những biến đổi của trường sinh học trong não bộ) dẫn đến việc tạo ra trong óc người những hình ảnh, những xúc cảm tâm lí được vật chất hoá qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ, cảm xúc. Những xung động thần kinh, những biến đổi của trường sinh học trong não bộ là các hiện tượng vật chất, chúng có thể thoát ra khỏi cơ thể sinh ra nó, sự tồn tại của nó không gắn hữu cơ với sự tồn tại của não bộ, chúng không mất đi sau khi não bộ chết. Những xung động thần kinh, những biến đổi của trường sinh học này tác động vào não bộ của những người có khả năng đặc biệt sẽ tái tạo lại những hình ảnh, những xúc cảm tâm lí được vật chất hoá qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ, cảm xúc, v.v.
Song, nếu chỉ như vậy, nhiều lắm mới hé mở khả năng lí giải nhà ngoại cảm (người có khả năng đặc biệt) biết được những thông tin mà người đã khuất có trước khi chết. Trong khi đó, như nhiều tài liệu đã đưa ra, nhà ngoại cảm biết đựơc cả những gì diễn ra sau khi con người kia đã qua đời, cả sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai. Khi dựa trên học thuyết phản ánh, chúng tôi chưa có một cơ sở nào để lí giải những hiện tượng như vậy.
Thứ hai, một số người có khả năng đặc biệt (mà phần nhiều, khả năng này chỉ xuất hiện sau biến cố đặc biệt của người đó) có thể “nghe” được tiếng nói của vong, “nhìn” thấy vong, tiếp xúc được với vong, v.v. Trong trờng hợp này, việc một người đặc biệt (tạm gọi là “nhà ngoại cảm”) có được hiểu biết nào đó về quá khứ, hiện tại và tương lai không phải do người đó trực tiếp phản ánh sự vật thông qua cảm tính và lí tính, mà họ có được tri thức ấy nhờ “sự mách bảo” của vong. Xét từ giác độ đó, tri thức mà nhà ngoại cảm có được là kết quả của sự giao lưu trí tuệ giữa người sống và người đã chết, là sự kế thừa tri thức của vong; không có mối liên hệ nội tại, trực tiếp nào với học thuyết phản ánh. Người có niềm tin tâm linh là những người tin vào sự tồn tại của vong và tính xác thực của những thông tin mà vong mách bảo (trực tiếp với mình hoặc qua những người có khả năng đặc biệt giao tiếp được với vong).
Vấn đề đặt ra là: Người đã chết có còn lưu giữ được những hiểu biết khi còn sống, có còn nhận biết được những cái diễn ra sau khi chết hay không? Quan trọng hơn nữa là: có cái ta gọi là “vong” với năng lực nhận thức và giao tiếp như người đang sống (thậm chí có khả năng nhận thức hơn người đang sống, khi nói về những cảnh báo, tiên lượng sự kiện mà người đang sống sẽ trải qua) không? Đây là hai vấn đề mà khoa học hiện nay chưa có cơ sở đem lại câu trả lời hoàn toàn khẳng định hay phủ định cho hai câu hỏi đó.
Không thể hoàn toàn phủ định, bởi lẽ, chúng ta đã chứng kiến (hoặc đã được nghe) không ít trường hợp mang tính tâm linh nhưng lại kiểm chứng được qua thực tế. Đứng xa nơi có mộ hàng trăm cây số mà biết được dưới mộ là tiểu sành bị nghiêng khoảng 30 độ, thành bên trái có đường nứt khoảng 20 cm. Khi đào lên, người ta thấy điều đó hoàn toàn đúng. Ngồi tại Hà Nội mà biết đợc con đường đi tới mộ cách xa Hà Nội hàng mấy trăm cây số phải qua địa hình, cảnh quan như thế nào, mặc dù nhà ngoại cảm cha từng đặt chân đến miền đất đó, v.v. Người ta hoàn toàn có thể kiểm chứng được sơ đồ do nhà ngoại cảm vẽ ra.
Không thể hoàn toàn khẳng định, bởi lẽ không phải mọi thông tin do nhà ngoại cảm đa ra đều thực chứng được, đều đúng.
Điều tương tự cũng có thể nói về tính chân thực của những dự báo, cảnh báo mà các nhà ngoại cảm đưa ra. Song, chỉ căn cứ vào các hiện tượng tâm linh được biết qua những nguồn khác nhau, thì sự hiện diện của vong dường như là điều khó bác bỏ.
Khó bác bỏ cũng không có nghĩa là hoàn toàn đáng tin cậy. Niềm tin phải được dựa trên cơ sở khoa học chứ không thể chỉ dựa vào trực giác. Tiếc rằng ngày nay khoa học chưa phát triển tới mức có thể hoàn toàn khẳng định hay bác bỏ những hiện tượng phức tạp nh vấn đề tâm linh - vấn đề mà theo chúng tôi, xét từ nhiều giác độ còn phức tạp hơn, khó khăn hơn khi bác bỏ Kitô giáo…(Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5/ 59/2008. tr.8-10).
Từ đó chúng tôi, HBT, xin mạnh dạn trao đổi, may ra góp phần làm rõ thêm một vào khía cạnh linh hồn, tâm linh và phản ánh, sau đây, hoặc tạo nên sự tranh luận để tìm chân lý, sự thật khả dĩ. Và điều GSTS Phạm Ngọc Quang nêu trên đã rõ dần thông qua bài viết của Trưởng lão Thích Thông Lạc (sẽ nói rõ sau).
Nhưng về năng lực nhìn xuyên không thời gian, hoặc năng lực di chuyển vật thể, không đến nỗi khó hiểu, và chúng tôi cũng đã trình bày trong bài viết “Con người là một tiểu vũ trụ - con người sinh thái con người tâm linh”, nên không bàn, hoặc ít bàn ở đây.
Hiện nay, chúng ta đã có thể giả định là sau khi người ta chết thì trường sinh học - hay trường tâm thần mang hình thái ý thức (nhưng phi nhân cách), tức ý thức có thuộc tính vật chất “thoát” khỏi cơ thể sống với ký ức về quá khứ của người đó (ta quen gọi hồn hay vong); hoặc thông tin về toàn bộ cuộc sống của người đó đã lưu lại ở đâu đó trong cơ thể, nhất là trong xương của họ… Có thể có cả hai trường hợp ấy kết hợp lại và trường hợp sau là chính chăng?
Có điều chưa biết hết nhưng có thể giả thuyết như sau:
+ Nếu “hồn” hay “vong” tồn tại, mà nhà ngoại cảm (thật sự có năng lực ấy) thu/ cảm được, biết, nghe, nói lại được, chứ không phải hồn mách bảo, khuyên răn), có thể mang hay “tái hiện” quá khứ mà họ sống chứ không biết được về tương lai sau khi chết. Hồn đó, cũng không thể suy nghĩ như khi người còn sống mà chỉ là theo kịch bản đã diễn ra trong quá khứ, phát lai nguyên xi như hình ảnh, âm thanh trên truyền hình vậy.
+ Thông tin này có thể truyền vào người thân trong tiềm thức nhưng họ không biết và thực ra ở người thân cũng có một phần ký ức, băng tần như vậy. Gộp nhiều người thân lại, những người cùng sống thì “biết được”(nhưng họ không ý thức được) toàn bộ thông tin diễn biến của người chết (tiềm thức). Mà người sống thì mới có thể suy nghĩ, mong ước tương lai. Mọi biến hóa thông tin là ở đây, ở trong não người sống (như truờng hợp qua năng lực tưởng thức.). Nên không có một “thế giới linh hồn”, như một thế giới riêng và hành xử như người trần, hoặc còn hơn cả người trần (mà có người mô tả) mà chỉ những dạng thông tin tàn dư nào đó mà thôi. Có vật chất vô hình và vật chất hữu hình, nhưng cũng không phải là hai thế giới riêng biệt mà đan xen nhau, hòa vào nhau.. Hơn nữa không thể đồng nhất hay lầm lẫn “thế giới linh hồn” với “thế giới siêu hình- phi vật thể”, giả dụ có như vậy.
+ Các nhà ngoại cảm có năng lực tiếp nhận (hay mới biết gần đây là “năng lực tưỡng thức”- năng lực vô thức, trực giác, siêu thức (xuyên không thời gian) chứ không phải tưởng tượng) được thông tin từ “vong, hồn” ấy, kể cả vong, cả người thân có liên quan theo nguyên lý đọc được suy nghĩ người khác trực tiếp hoặc từ xa (là có thật). Và cũng đọc đựợc suy nghĩ người đang sống và gỉai mã thông tin của người chết tự động trong tưởng thức. Mà người đang sống có cả thông tin ký ức người thân đã chết và ký ức, suy nghĩ của người đang sống liên quan đến “vong, hồn” ấy, nên người sống suy nghĩ, ước vọng nhiều điều liên quan tới người chết nên có thể nói về hiện tại kể cả tương lai liên quan tới người sau khi đã chết (suy nghĩ ngầm, không nói ra, hoặc có sẵn trong ký ức, tiềm thức). Trong khi đó nhà ngoại cảm đọc được suy nghĩ ấy và xướng lên (nhập “hồn” một cách vô thức - hay biến hóa của vô thức thành hữu thức). Nhưng ở đây nhà ngoại cảm có bịa thêm gì hay không?
+ Nguyên tắc các nhà ngọai cảm tìm mộ là phải có người thân, thành tâm tìm người nhà.. Việc này có 2 ý nghĩa, một là có thành tâm, và cùng dòng máu, cùng tần số năng lượng mới dễ bắt sóng và hai là, nhà ngọai cảm tìm thấy cái trung gian ở người thân về người đã khuất (cô Hằng - nhà ngoại cảm đọc suy nghĩ của ông Trần Phương và người khác có biết về em ông Phương, tức cô Khang đã sống và chết như thế nào), Như vậy, là cóbộ ba liên thông: nhà ngọai cảm chủ động, đối tượng tìm kiếm là vong hay kể cả hồn người chưa chết cần tìm, và trung gian, ăng ten là người nhà, người thân, hay người ít nhiều đã biết (quá khứ) về vong, hồn ấy. Ngoài ra có thể có vài vật hỗ trợ khác.
+ Và có cả khả năng nhà ngoại cảm thấy được/ đọc được chiều tương lai - quá khứ của “linh hồn” người chết (qua tưởng thức - nó gần giống cơ chế nằm mơ) đã kết nối với linh hồn người đang sống tạo nên một dòng năng lượng tổng hợp thông tin động (như một cuốn phim). Nhưng dù sao thì linh hồn người chết, nếu có chỉ là dòng năng lượng mang ký ức quá khứ. Nó không có khả năng sống, suy nghĩ, trực giác, mách bảo, nhất là về hiện tại, tương lai và không có hành vi như một người đang sống (trả thù, trả ơn, chỉ huy, dẫn đắt người sống). Phần suy nghĩ, trực giác mách bảo có thể lại là ở “linh hồn”, nói đúng hơn là ở tâm thức (qua năng lượng thông tin) người đang sống. Chính giao tiếp với cả hồn, tâm thức cả người đã mất và người đang sống mới có thể cho nhà ngọai cảm những hiểu biết cần thiết và hướng dẫn việc bốc mộ như thế nào (trong trạng thái liên thông cả hữu thức, vô thức và siêu thức).
+ Điều chú ý là khi thông tin của người quá cố trong não nhà ngoai cảm thì nó tự biểu hiện, tự nhân cách hóa và thông qua nhà ngọai cảm cùng nhà ngoại cảm đối thoại trao đổi nhau y như các nhân vật trong giấc mơ, hay trên phim hình vậy. Tức có sự nhập vai của “phần hồn” vào nhà ngoại cảm và nhà ngoại cảm cũng nhân cách hóa trong sự nhập vai đó. Điều này thuộc về năng lực siêu phản ánh, siêu thông tin của trường tâm thần, của tưởng thức hay siêu thức. Hay “đó là năng lực duyên hợp của tưởng thức”.Nếu hình ảnh thông tin của người quá cố tự nó, bên ngoài óc con người đang sống mà ở đây là nhà ngoại cảm thì nó không thể tự biểu hiện được (giống như thông truyền thanh và truyền hình phát đi trong không gian nhưng không có máy thu và phát thì làm sao chúng ta nghe và xem phim được).
Liệu suy nghĩ như vậy có đúng không? Nó liên quan tới đặc tính nào của vật chất? Nguyên lý phản ánh có giải thích được hiện tượng này không?
GSTS. Phạm Ngọc Quang, trong bài viết nói trên, cho rằng, “mối quan hệ giữa tâm linh và lí luận phản ánh vẫn còn là vấn đề chưa được giải quyết về cơ bản. Song, chính sự xuất hiện của cái mà ta gọi là tâm linh, phải chăng đã làm xuất hiện một antinomie mà việc giải quyết nó đòi hỏi phải xây dựng một lí luận mới, mang tính tổng quát hơn về nhận thức, vượt lên trên lí luận phản ánh. Trong lí luận mới đó, lí luận phản ánh vẫn đúng trong miền xác định của mình: nhận thức của những người đang sống đối với những sự vật đang tồn tại” (PNQ)
Đây là điều nghi vấn và gợi ý rất đáng trân trọng…
Nhưng theo chúng tôi, Lý luận nhận thức bây giờ không chỉ là lôgích học suy luận hình thức và biện chứng mà cả Lý thuyết trực giác, tâm thức, lý thuyết thông tin, lý thuyết về tâm vũ trụ, lý thuyết tưởng thức (như trường hợp mô tả của Trưởng lão Thích Thông Lạc)…
Thật ra thì hiện nay một mặt khoa học vât lý hạ nguyên từ, lý thuyết trường sinh học, lý thuyết thông tin, lý thuyết về “tâm vũ trụ”, lý thuyết điều khiển và lý thuyết Dây cũng dang tìm cách giải thích những bí ẩn của thế giới và con người - người sống và sau khi chết; mặt khác, là trở về kho tàng triết phương Đông, nhất là triết Phật để tìm phương pháp luận (về Tính thấy, Tâm thức, Trí huệ) định hướng nghiên cứu, tìm kiếm, làm rõ vấn đề ấy. Nhưng phải có cái nhìn tổng tích hợp - lý thuyết trên nền tảng triết học, minh triết, thiền định và khoa học ngày nay.
Nhưng theo chúng tôi thì thuyết phản ánh của chủ nghĩa Mác phải mở rộng vấn dề và cùng với lý thuyết trực giác, tâm thức của triết Phật, lý thuyết thông tin, thuyết hiệu ứng sinh học, thuyết trường sinh, hoc thuyết điều khiển học, lý thuyết về năng lực “trí tuệ vũ trụ”(năng lực phản ánh thông tin phổ quát chiều sâu) hay thuyết âm dương - ngũ hành, hợp lại, chắt lọc lại và tạo nên lý thuyết tổng hợp.
Một thuyết tổng hợp như thế tạm gọi cái tên để dễ hình dung “Tiếp cận tổng hợp Tâm siêu trường - phản - thông”. Nó có nền tảng lý thuyết phản ánh và lý thuyết thông tin, lý thuyết về các quy luật điều khiển vũ trụ nhưng không phải ở cập đô thô, trong không thời gian và siêu không thời gian, tức là ở chiều sâu của năng lực siêu thức và gắn với trường siêu thức (cũng có khi gọi là tưởng thức, trưởng tri và năng lực của tưởng thức, trưởng tri). Cho nên dùng các lý thuyết riêng rẽ và dừng lại bề mặt giới hạn không thời gian, với tư duy khoa học thông thường thì không thể giải thích đuợc. Rõ ràng là sử dụng cả hai chiều kết hợp vô thức, siêu thức và hữu thức, không thời gian và siêu không thời gian, thì mới hiểu được phần nào.
Phải chăng “Đây là hai vấn đề mà khoa học hiện nay chưa có cơ sở đem lại câu trả lời hoàn toàn khẳng định hay phủ định cho hai câu hỏi đó” (PNQ)? Không hoàn toàn như vậy!
4- Sự thật và không thật, và giả dối. Rất cần phân biệt…
Phải thừa nhận rằng, hiện nay hiện tượng “tát nước theo mưa”, lợi dụng “ngoại cảm” (tạm dùng từ này) ở một bộ phận nào đó nhân danh có “năng lực ngọai cảm” để làm những việc mê tin dị đoan là có thât. Mà trước đây cũng có rất nhiều thầy bói lợi dung như vậy bên cạnh có thế có một vài thầy bói có năng lực thật. Và đúng là qua các sự kiện ngọai cảm gần đây cần pảhi tìm hiểu kỹ. Khi chưa biết rõ thì không nên thể bác bỏ sạch trơn như trước, nhưng cũng không nên quá tin.
Nhưng từ sự mù mờ và nhạy cảm của hiện tượng linh hồn nói riêng và tâm linh nói chung đã ngấm ngầm chinh phục một cách vô thức nhiều người, kể cả những người có trình độ học vấn cao, và từng có lập trường khoa học vững vàng. Mà không tin sao được, rằng có thờ có thiêng và có kiêng có lành, hơn nữa không chỉ là vấn đề tâm lý rất tế nhị mà còn là các bằng chứng thực tế tìm mộ có khi khá thuyết phục (như báo đưa tin, hoặc qua băng đĩa của nhà ngoại cảm)! Thế mới khó. Có người bảo ràng lĩnh vực này khoa học không thể biết được, nên vấn đề là tin hay không tin. Có người thì chỉ tin khi làm rõ về mặt khoa học.
Các nhà khoa học ở Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người, thì khẳng định năng lực ngọai cảm và kết quả tìm mộ là chính, nhưng khi giải thích (chủ yếu ở góc độ vật lý hạ nguyên tử) thì cũng chưa rõ.
Hiện nay có 4 luồng ý kiến chính:
Lọai thứ nhất, loại ý kiến tin có ngoại cảm và có linh hồn, có “thế giới linh hồn” sống như người đã sống, và có năng lực hơn cả người sống (mách bảo, chỉ dẫn cho người sống tìm mộ, biết được tương lai…). Từ đây dẫn đến tâm lý sùng bái nhà ngoại cảm trong việc tìm mộ.
Lọai ý kíến thứ 2: ý kiến bác bỏ quyết liệt, hoặc không có năng lực ngoại cảm, không có linh hồn, qua một vài nhà ngoại cảm họ biết thì họ cho rằng, tất cả chỉ là mẹo hay lừa dối. thậm chí lừa đảo. Các biều hiện đặc biết, dị thường chỉ là do hiện tượng đa nhân cách (đa nhân cách trong vô thức cũng có thật), hoặc bịa ra như thật khi tìm mộ.
Lọai ý kiến thứ 3: loại ý kiến này cho rằng, vì chưa biết thế nào, chờ nghiến cứu sẽ rõ hoặc không bao giờ có thể biết rõ được. Thôi cứ tin, không mất gì!
Loại ý kiến thứ 4: là cần tìm hiểu, thử lý giải. (và phân biệt rõ đâu là sự thật và không thật và đâu là giả dối). Sau khi người chết, “LINH HỒN” NẾU CÓ CHỈ LÀ CHỈ LÀ NĂNG LƯỢNG - THÔNG TIN TÀN DƯ, không có linh hồn vĩnh cửu, sống như ý thức người sống, thậm chí còn hơn thế. Đây là quan điểm của chúng tôi, tác giả bài viết này, và một số người khác.
Rằng có năng lực ngoại cảm, dị thường như một năng lực của óc người mang tính tiềm ẩn (năng lực tưởng thức chẳng hạn), nhưng thực tế chỉ xuất hiện ra ở một số rất ít người (hiếm). Mà ngay ở những người này cũng mức độ khác nhau, và cũng có khi mất đi, hết thiêng! Khi có thì thực hiện có kết quả, khi yếu hay mất đi thì tìm kiếm mộ chẳng hạn là không có kết quả.
Nhưng khi không có hay hết năng lực thì không biết nhà “ngoại cảm” có không hay nhiều không chứ nói đại lên, làm liều hay vì úy tín hay vì gì nữa, nên nó mới không thật và có khi bị coi là giả dối, thậm chí lừa đảo! (Theo cuộc tranh lụận hiện nay trên Chungta.com thì có 60% nhà ngoại cảm nọ tìm đựợc mộ là thật và 40% là sai, theo một tư liệu khác thì 70% và 30%, thậm chí 50%- 50%, (5 ăn 5 thua, nói theo kiễu Nam bộ) nghĩa là sai, bịa cũng khá lớn. Hoặc cũng có người nghi ngờ lớn hơn vì hầu như các nhà ngoai cảm không thích thử AND?).
Thực tế ngoài một số lừa mị thật ngay từ đầu như báo chí đã nêu và cũng có hiện tượng nhà ngoại cảm thật nhưng có khi hớ, hay lúc hết năng lực ấy rồi, hay có khi nói liều, (hay giả dối) qua chuyện một vài nhà báo đóng vai người tìm mộ đã đưa thông tin giả (nhằm kiểm tra) và nhà ngọai cảm đã mắc lưới, và lộ ra rằng không thât/ giả dối (người đang sống nhưng bảo rằng mộ đang ở chỗ nọ chỗ kia, đi tìm thế nào). Báo chí cũng đưa một số tin này. Với người bình thường là rất khó mà biết đâu là thật hay giả. Và có khi lỡ tin hay chính người nhà tìm mộ đã trót thì cũng ngại nên nói không thật nữa.
Do vậy, việc chống lừa mị bằng ngoại cảm giả hay thiếu trung thực khi hết năng lực ngoại cảm mà vẫn ta đây…, là rất cần thiết. Hơn nữa là chống mê tin dị đoan là rất quan trọng và phải thực hiện trong thực tế. Không có thế giới linh hồn với các biểu hiện nhân cách, luật lệ… như người sống (linh hồn chỉ là “người ảo” từ một vài dự liệu có thật). Rất nên nghiên cứu tìm hiểu năng lực tưởng thức như sư Thích Thông Lac đã nêu, hoặc về mặt khoa học thì nên đọc thêm các bài viết của TS. Đỗ Kiên Cường về lĩnh vực này thì rõ hơn (hiện tượng “ngoại cảm tìm mộ” ở VN là lừa dối VÀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI ĐÃ KHẲNG ĐỊNH KHÔNG TỒN TẠI LINH HỒN SAU KHI NGƯỜI CHẾT).
Còn hành vi tôn giáo hay lễ cầu siêu … là những việc làm theo ý nghĩa khác. Trước hết là an ủi cả người sống và người đã khuất trong lòng người sống, có ý nghĩa nhân đạo, vẫn có thể duy trì. Nhưng không vì vậy là thừa nhận thế giới linh hồn như Ý THỨC người sống!
Hiện tượng tâm linh(hiện thực) và ý thức tâm linh (phản ánh, nhận thức, cảm nhận hiện tượng tâm linh) là khác nhau. Ý thức tâm linh có thể duy tâm hay duy vật. Không thể đồng nhất tâm linh và duy tâm.
Ý kiến còn khác nhau, phải nghiên cứu thêm, không nên “hất chậu nước bản rồi hất luôn đưa bé tắm trong đó”. Bất cứ cực đoan nào cũng xa rời sự thật và chân lý.
Qua lý giải trên đây, ta biết giải thích, quan niệm thế nào là duy tâm, duy linh, biết cách giải thích nào sẽ là “duy vật tâm linh” (giải thích một cách duy vật về các hiện tượng tâm linh)[2]; thế nào sẽ là “khoa học tâm linh”.
[1]Bài viết soạn thảo năm 2011, xin công bô để học hỏi bạn đọc.
[2]Tác giả sẽ co bài luận bàn riêng.