Nằm trong lộ trình xây dựng nền văn hoá chữ Quốc ngữ, mong muốn tạo dựng sự độc lập về bản sắc văn hoá dân tộc, kiến tạo một nền học vấn mới mà được gọi là tri thức, từ đó làm nền tảng để xây dựng một nền cộng hoà và một xã hội dân chủ, bình đẳng, tự do, bác ái, người “Nhà quê” này đã cảm nhận được cực kỳ sâu sắc cái ý nghĩa, cái giá trị và cái tính thiết thực của sân khấu kịch nói Âu châu, ông còn tỏ ra tự tin đến mức tuyệt đối rằng, nó sẽ phù hợp với công cuộc canh tân văn hoá ở một đất nước thuần nông với những con dân luôn chấp nhận số phận: bán lưng cho Trời và bán mặt cho Đất!
Người đó là Nguyễn Văn Vĩnh.
Sokolov Anatoly là PGS, Viện Đông phương học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga Matxcơva, Liên bang Nga đã viết trong bài “Hiện đại hoá xã hội Việt Nam và sự ra đời của văn học kịch mới (Nửa đầu TK. XX)” đăng trên Văn hoá Nghệ An, ngày thứ Tư 28.7.2010 như sau:
“Sự ra đời của sân khấu kịch nói xuất phát từ mong muốn giới thiệu sân khấu phương Tây với khán giả Việt Nam của các văn nghệ sĩ. Buổi diễn kịch đầu tiên đánh dấu sự xuất hiện của một thể loại sân khấu mới ở Việt Nam, đã được ra mắt công chúng ngày 25 tháng 4 năm 1920 tại Nhà hát thành phố Hà Nội. Đó là vở kịch “Người bệnh tưởng” của Molie do một nhóm sân khấu nghiệp dư dàn dựng”.
Vậy là, qua ý kiến nêu có tính xác định về nguồn gốc ra đời của kịch nói Việt Nam (Tuy chưa thấu đáo) của một người Nga chuyên nghiên cứu về văn hoá Việt Nam, đã giúp chúng ta hình dung được điểm xuất phát của một loại hinh nghệ thuật mới, nghệ thuật sân khấu kịch nói xuất hiện ở Việt Nam như thế nào?!
Để giúp các độc giả nhận biết được đầy đủ hơn ý kiến của PGS. Sokolov Anatoly, để giúp các độc giả quan tâm đến sự nghiệp văn hoá của học giả Nguyễn Văn Vĩnh có thêm những hiểu biết cụ thể, chúng tôi gửi tặng đến các quý vị một tư liệu quý về sự ra đời của sân khấu kịch nói Việt Nam, đồng thời cũng để chứng minh một chức năng mà lịch sử đã trao tặng Nguyễn Văn Vĩnh rằng: ông là chiếc cầu nối đầu tiên của mối quan hệ văn hoá Đông-Tây.
Dưới đây là bài viết của nhà chính trị nổi tiếng người Pháp François de Tessan (1883-1944). Bài được đăng trên tờ báo “L’ILLUTRATION” (Minh hoạ), số 4038 ra ngày 24.7.1920 tại Paris.
Molière(tên thật là Jean-Baptiste Poquelin; sinh ngày 15 tháng Một năm 1622– Mất ngày 17 tháng Hai năm 1673) là nhà thơ, nhà viết kịch, nghệ sĩ người Pháp, người sáng tạo ra thể loại kịch cổ điển, một bậc thầy của kịch nghệ châu Âu. Molière là tác giả của những kiệt tác Le Misanthrope (Anh chàng ghét đời), L’École des femmes Tartuffe ou l’Imposteur (Thằng Táctuýp), L’Avare ou l’École du mensonge (Lão hà tiện) và Le Bourgeois gentilhomme (Trưởng giả học làm sang). Ông được coi là nhà hài kịch vĩ đại nhất thế kỷ XVII.
Molière để lại một di sản vô cùng đồ sộ với hơn 30 vở kịch nhiều thể loại. Ông thường xuyên thể nghiệm, chuyển thể và sáng tạo ra những hình thức mới cho kịch. Tác phẩm của ông đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống đương thời cũng như hiện tại: quan hệ của cha mẹ và con cái, hôn nhân và gia đình, giáo dục, đạo đức xã hội (thói hiếu danh, kiêu ngạo, thói giả nhân giả nghĩa…), những vấn đề về tôn giáo, văn hóa, khoa học vv… Molière sử dụng thực tế không chỉ của đời sống đương thời mà còn dùng nhiều tích từ thời cổ đại và của nhiều nhà viết kịch thời Phục Hưng. Ông có sự ảnh hưởng rất lớn đến kịch nghệ không chỉ của Phápmà của cả thế giới.
==============
François de Tessan
Molière ở An Nam
Hà nội, tháng 5 năm 1920.
Đây là lần đầu tiên một sự kiện trọng đại, vở kịch “Người Bệnh tưởng”(1)được trình diễn tại nhà hát thành phố Hà Nội ngày 25.4.1920. Làm sao mà người An Nam dám mơ dịch tác phẩm này ra tiếng Việt và tự dàn dựng, trình diễn vở kịch này?!
Vở kịch của Molière được dịch ra tiếng Việt là điều mới lạ vô cùng! Thần khí nhà hài kịch vĩ đại Pháp đã nhập được vào hồn của người dân Bắc Kỳ, và đã chinh phục được sự say mê văn hoá của một dân tộc khác chúng ta rất xa về cách suy nghĩ, chắc chắn đây là một sự kiện đầy bất ngờ mà trước đó chẳng ai dám nghĩ đến, và nảy sinh các ý kiến rất trái ngược nhau, bán tín bán nghi về một sự thành công.
Tuy nhiên, những người cách tân đã không lầm, và họ đã thành công, nhất là khi người ta muốn đưa ra một tác phẩm đầy tính nhân văn sâu sắc với sinh lực mạnh mẽ của Molière, nó đã hấp dẫn được những khán giả An Nam. Người ta có thể nghi ngại về chất hài hước của vở kịch bị biến đổi, có khi bực tức vì sự nghịch nghĩa do mô phỏng tính hài. Nhưng tài dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh đã tránh được những sai sót này. Nếu tác giả không thể chuyển tải được tuyệt đối cách nghĩ của người Pháp, – từ vựng trong tiếng An Nam còn khá giới hạn, và chữ Quốc ngữ chưa sẵn sàng để diễn đạt được sự uyển chuyển của văn chương Pháp – Song, chí ít là tác giả đã lột tả được giá trị cốt lõi của chất hài hước trong vở kịch “Người Bệnh tưởng”.
Mặt khác, Nguyễn Văn Vĩnh cũng không phải là lần đầu tiên thực hiện việc mô phỏng một tác phẩm văn học Pháp. Ông đang là người điều khiển tờ báo “Trung Bắc Tân Văn” (La Gazette de l’Annam –Tonkin). Từ 1913, ông đã cố gắng tặng cho độc giả rất nhiều (có thể đến hàng nghìn) trích đoạn từ các tác phẩm văn học cổ điển Pháp. Ông đã dịch “Trưởng giả học làm sang, Lão Hà tiện, Tartuffe, Ngụ ngôn La Fontaine (dịch theo thơ vần), chuyện cổ tích của Perrault, và Gil Blas (tác phẩm đặc biệt thu hút được người dân bản địa). Nhờ vào sự lựa chọn rất thận trọng của Nguyễn Văn Vĩnh, độc giả An Nam đã biết đến những tác phẩm chính của Balzac, và A. Dumas. Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã dám tấn công vào việc dịch Anatole France tinh tế của chúng ta. Gần đây nhất, người ta có thể đọc Vườn Epicure trên tờ Trung Bắc Tân Văn.
Do đó, chẳng ai vượt được Nguyễn Văn Vĩnh trong việc truyền bá các tác phẩm văn học cổ điển của chúng ta và thu hút được quần chúng như với vở kịch “Người Bệnh tưởng”
Việc lựa chọn vở kịch này lại càng thích hợp hơn vào thời buổi hiện nay, vì trong những năm qua nền giáo dục khoa học đã hoàn toàn đổi mới ở Đông Dương. Những người với lối suy nghĩ cổ hủ theo kiểu nhân vật bác sỹ Diafoirus trong bản kịch được thay thế bởi cả một thế hệ các y sĩ trẻ đầy nhiệt huyết. Biết bao nhiêu điểm tương đồng trong cuộc sống đương thời mà người dân An Nam nhận thấy trong ba màn kịch này của Molière, nó đã tô điểm thêm cho tính châm biếm sâu sắc của kịch bản.
Tất cả những người nổi tiếng ở bản địa đã chen nhau đến dự buổi trình diễn ngày 25.04 ở Nhà hát Lớn Hà Nội. Nhiều vị quan chức quần áo chỉnh tề, sang trọng, dẫn đầu là Tổng đốc Hà Đông cùng gia quyến đến xem(2). Các doanh nghiệp danh tiếng, sinh viên và dân chúng đến chật kín nhà hát từ sớm. Nhiều phụ nữ An Nam kiều diễm trang điểm như đi lễ hội kích thích sự tò mò của đám đông. Tất nhiên, ngài phụ trách hội Khai trí tiến đức An Nam đã đứng ra trình bày về ý tưởng và mục đích dàn dựng vở kịch “Người Bệnh tưởng” khi vở kịch đã được dịch ra Quốc ngữ. Hội có hai mục đích: đầu tiên là toan tính cách tân sân khấu An Nam, sau là góp quỹ cho những người lính thợ Đông Dương hy sinh vì nước Pháp trong đại chiến Thế giới.
Tiếp đó, chính ngài Hội trưởng đã trình bày một cách uyên bác sự khác biệt giữa sân khấu châu Âu và An Nam. Cuối cùng, theo ngài sự khác biệt này chính là việc hát đi kèm với dáng vẻ, điệu bộ và âm nhạc trên sân khấu, nó có thể làm cho sướng mắt và vui tai, mà điều này tuyệt nhiên không hề ảnh hưởng chút nào đến thần cảm (tinh thần và cảm xúc)”.
Sau khi chỉ ra một cách chính xác rằng, nền sân khấu châu Âu luôn nhắm đến trí tuệ và cảm xúc, và đó cũng là cách giáo dục xã hội tuyệt vời, đúng như lời kết của Phạm Quỳnh(3)“Chúng tôi xin giải thích trước để tránh cho mọi người vốn quen với sân khấu truyền thống, không bị lối nhận định theo cách nhìn cũ khi xem cách trình diễn vở kịch sắp tới của chúng tôi, tránh khỏi những nhận định không đúng. Nếu vở hài kịch sắp diễn, được các quý vị yêu thích, nếu các quý vị thể hiện việc muốn thưởng thức, hơn là vẫn nghe những tiếng kêu than, rên rỉ trên sân khấu quen thuộc của chúng ta, vậy thì việc thử nghiệm của chúng tôi đã thành công. Nếu không đạt được điều đó, chúng tôi cũng xứng đáng vì đã dám làm một việc chưa từng có trước đây. Chúng tôi cũng mong có sự độ lượng của các quý vị, tránh không đánh giá nhầm theo lối cũ, dù thế nào đi nữa, mong các vị đừng gay gắt phê phán chúng tôi!”.
Mở màn, 16 nghệ sỹ Thái Hâp, áo dài hồng, đầu chít dải khăn xanh mềm mại đi vòng tròn, như khúc dạo đầu, các cô múa quạt với thân hình mềm mại uốn lượn một cách kiều diễm. Sau màn dạo đầu, các cô biến vào trong sân khấu, ba hồi trống nổi lên, các nghệ sỹ người An Nam bắt đầu trình diễn vở kịch của Molière.
Cả nhà hát im lặng chăm chú theo dõi. Tất cả khán giả đều tỏ ra căng thẳng, họ cố gắng lắng nghe sao cho chính xác các lời thoại của các nhân vât. Rồi đột ngột, sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng cười qua mỗi cảnh diễn. Người xem cảm thấy mỗi từ ngữ nghe như rõ hơn, dường như mọi người ngày càng bị cuốn hút, vở diễn càng ngày càng trở nên sống động, Molière cứ thế thấm dần với những khán giả mới , với những “đệ tử” mới.
Khi vở diễn kết thúc, tất cả các diễn viên trở lại sân khấu, họ trình diễn một màn trang phục dân tộc thật ấn tượng. Đây là một tạp chí sân khấu gồm các nhân vật trong các truyền thuyết kỳ quái kiểu Tàu, như: mặt nạ tuồng, màu sắc sặc sỡ, áo quần trang trí rực rỡ và lạ mắt, kèm theo là những tiếng hét nạt nộ, cùng với những tiếng kêu thất thanh theo lối tưởng tượng của các dân tộc châu Á. Và một lần nữa, lại xuất hiện trên sân khấu rực rỡ sắc màu vàng đỏ, chính là các nữ nghệ sỹ với áo dài hồng và khăn xanh nhạt đã xuất hiện ngay từ đầu của buổi trình diễn. các nghệ sỹ xuất hiện để gửi lời chào mừng từ đất nước An Nam tới ông Tổng phụ trách hội Khai trí Tiến Đức, người đã trịnh trọng đến dự buổi ra mắt đầu tiên vở hài kịch của nhà đại văn hào thiên tài Pháp Molière.
.....................
Người dịch: Trần Thu Dung.
Hiệu đính kỹ thuật và chú thích: Nguyễn Lân Bình
Chú thích:
1. Theo bản dịch gốc, Nguyễn Văn Vĩnh viết đầy đủ là “ Người bệnh tưởng”.
2. Vị Tổng đốc Hà Đông ( Tương tự như ngày nay là Chủ tịch tỉnh) lúc này là Hoàng Trọng Phu (con trai của Kinh lược đại thần Hoàng Cao Khải). Theo hệ thống hành chính thời thuộc Pháp, các tỉnh nhỏ chỉ được gọi là Tuần phủ.
3. Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh gắn bó với nhau trong các hoạt động văn hoá, báo chí và xuất bản từ năm 1913 khi cùng ở trong Ban Biên tập của Đông Dương Tạp chí. Năm 1917, Phạm Quỳnh tách ra độc lập, làm chủ bút báo “Nam Phong”. Cả ba ông (Phu-Vĩnh-Quỳnh) đều là hội viên của Hội Khai trí Tiến đức và Hội Tam Điểm (Les Franc-Macons).
********************************
Hình ảnh tại sân khấu Nhà hát Lớn, Thành phố Hà Nội.

Hồi 2, cảnh 6:
Cảnh Beline tố cáo thái độ hỗn láo của Angelique .
Ông Vượng (trong vai Thomas Diafoirus).
Ông Vĩnh (trong vai Diafoirus).
Ông Duyệt (trong vai Argen).
Cô Tửu ( trong vai Toinette).
Bà Kao (trong vai Angelique).
Bà Tuất (trong vai Beline).

Hồi 3, cảnh 14.
Argan( Do ông Duyệt thủ vai) đang làm cho Angelique (Do bà Kao thủ vai) yên lòng, người tưởng là đã chết