Lại Nguyên Ân nêu câu hỏi: thế nào là “tâm linh” và tra cứu, trả lời như sau:
Vốn từ tiếng Việt từ xưa (ví dụ được ghi trong các từ điển của A. de Rhodes, 1561, của P. de Béhaine, 1772, của J. L. Taberd, 1838) có “hồn”, có “tâm”, có “linh hồn”, nhưng không thấy nói “tâm linh”. Hầu như đến thời hiện đại, trong nửa đầu thế kỷ XX, mới thấy một số nhà soạn từ điển ghi từ “tâm linh”, nhưng nội hàm được ghi nhận lại mang nhiều khác biệt. Đào Duy Anh (“Hán-Việt từ điển”, 1932) định nghĩa tâm linh 心 靈 là “cái trí tuệ tự có trong lòng người”, và đối chiếu nó với một từ tiếng Pháp tương đương là “intelligence” mà ngày nay phải được hiểu là trí tuệ, trí năng. Thiều Chửu (“Hán-Việt tự điển”, 1942) không ghi từ “tâm linh” nhưng có một sự xác định rất hay: “thần” 神 và “linh” 靈 như cặp đối lập âm – dương: tinh anh của khí dương là “thần”, tinh anh của khí âm là “linh”. Tuy nhiên, những xác định trên hướng ngày càng tiệm cận đối tượng như vậy đã dừng lại. Trong khoa học xã hội ở Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tính đến giữa những năm 1980, không thấy từ “tâm linh” trong thao tác ngôn từ của giới cán bộ nghiên cứu.
Tất nhiên tình hình từ giữa những năm 1980 trở đi thì khác dần đi, người ta nói đến “tâm linh” nhiều hơn, nhưng những xác định hàm nghĩa lại thường cách biệt nhau. “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học, bản in 2006, xác định “tâm linh” trong hai nét nghĩa: “1/ tâm hồn, tinh thần; 2/ khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm”. Định nghĩa này, nhất là ở nét nghĩa thứ hai, rõ ràng quá hẹp, lại có dấu ấn của định hướng ý thức hệ trong lĩnh vực từ vựng học, tức là còn dính líu quá nhiều đến tập quán nghiên cứu trước 1990.
Có lẽ hiện tại vẫn còn khó tìm ra một định nghĩa thoả đáng về “tâm linh”. Và sở dĩ khó tìm, ngoài các hệ lụy phức tạp khác, theo tôi, một điểm khá then chốt chính là sự thừa nhận hay phủ nhận lĩnh vực được gọi là “đời sống tâm linh”, nói sát nghĩa hơn, tất cả phụ thuộc vào việc các chủ thể là chúng ta có tin rằng có “linh hồn” tức hồn người vẫn còn sau khi người ta đã chết? có tin rằng có tồn tại cõi sống của “thế giới bên kia”? Chỉ với niềm tin ấy, người ta mới thừa nhận ý nghĩa của những hành vi giao tiếp với thế giới siêu thực tại, bí ẩn ấy, tức là “đời sống tâm linh”. Không chỉ những tộc người đang còn ở trình độ mông muội, kém phát triển, mà ngay những tôn giáo lớn ở các xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp, ví dụ đạo Thiên Chúa, đạo Phật, các cộng đồng người thuộc các tôn giáo, các tín ngưỡng khác nhau, hầu hết vẫn đang sống với niềm tin vào một thế giới khác, siêu thực tại, dường như tồn tại song song với thế giới này; thế giới siêu thực tại ấy dường như chứa đựng những gì là lý tưởng cho những người hướng về nó, dường như cung cấp sự phán xét tiềm năng và xứng với sự mong đợi của họ. Như vậy, người nghiên cứu, dù có tin hay không tin vào “linh hồn” và “thế giới bên kia”, thì ta vẫn được/bị chứng kiến “đời sống tâm linh” của những cộng đồng người chung quanh mình như một thực tại khách quan, có thể và cần phải tìm hiểu, nghiên cứu. Một quan điểm duy vật triệt để sẽ tin rằng chỉ những con người đang sống mới có đời sống trí tuệ, có tư duy, có tâm hồn và đời sống nội tâm; rằng khi con người chết đi thì mọi thứ đó đều mất hết; rằng chẳng những không hề có “thế giới bên kia” mà việc người ta muốn và thực hành giao tiếp với cái thế giới tồn tại trong niềm tin ấy cũng là điều không thể được, thậm chí là điều hư ngụy, xằng bậy. Có lẽ, chính thứ duy vật luận “nhất quán” ấy đã là cái cớ khiến từ “tâm linh” không có trong bảng từ vựng thông dụng một thời gian dài.
Trái với trạng thái ấy, con người thực tiễn, vốn chiếm số đông ở ta, thường sống với trạng thái “nhị nguyên”, thỏa hiệp với cả hai tâm thế đối cực: vừa thừa nhận những xác định “duy vật” đại khái như trên, lại vừa ít nhiều tin vào cõi thiêng, và theo tập quán thì ít ra cũng thực hành nghi thức thờ cúng ông bà cha mẹ, dù có hay chỉ ngờ ngợ hoặc không thật tin rằng “linh hồn” những thế hệ quá cố vẫn tồn tại đâu đó ở “thế giới bên kia”. Vậy là, dù sao thì “đời sống tâm linh” cũng là một phương diện có thật của đời sống con người. “Tâm linh” nên được hiểu là khu vực siêu việt, siêu thực tại trong đời sống tinh thần con người, bên cạnh khu vực trí tuệ, tâm hồn vốn được xem là những hoạt động bình thường, thường hằng của nó. Chính những nhu cầu của đời sống tâm linh đã khiến người ta tạo ra những thiết chế (lễ hội, đền chùa, v.v…) và hệ thống những nghi thức, lễ thức để có thể thực hiện nhu cầu ấy. Cốt lõi của đời sống tâm linh là gì? Chính là sự giao tiếp với cõi thiêng, với đối tượng linh thiêng. Sự giao tiếp có thể là hư ảo dưới con mắt kẻ đứng ngoài, nhưng ở chủ thể đang thực hành nó thì giao tiếp kia là thực (Lại Nguyên Ân) - thực hay như thực- HBT.
http://nhathonguyentrongtao.wordpress.com/2014/03/07/doi-dieu-chung-quanh-quan-niem-ve-san-khau-tam-linh/)
Theo chúng tôi, Tâm là vô hình và là động lực ở chiều sâu thúc đẩy thế giới vật chất và toàn bộ cơ thể, hoạt động của con người. Còn Linh là linh diệu, linh cảm, linh nghiệm, linh hứng và linh thiêng, khó cảm nhận, đo lường, vượt qua lẽ thông thường, khác với hiện tượng đời thường ai cũng biết, cũng cảm nhận được, đo lường được, nhưng không hoàn toàn tách biệt mà cũng biến hóa trong đời thường…
Cái linh diệu và linh thiêng (cao cả, khác với cái phàm tục) xuất phát từ tự nhiên và con người, nhưng khi giải thích nó, có khi bị đẩy tới thành cái siêu nhiên, càng khó hiểu (đó là là một loại ý thức tâm linh). Như vậy, nói ngắn gọn Ý THỨC TÂM LINH LÀ LINH THIÊNG HÓA CÁI LINH DIỆU CỦA TÂM VŨ TRỤ VÀ TÂM CON NGƯỜI. Khi giải thích nó tại sao như thế, thì ý kiến, quan niệm khác nhau khá nhiều, thậm chí đối lập nhau, duy vật hay duy tâm, hay nhị nguyên, hoặc giao thoa trong quan niệm kiểu “toán học tập mờ” hay “biện chứng tập mờ”...
Hiện tượng, biểu hiện tâm linh qui về 2 mặt: i) các hiện tượng dị thường của con người và vũ trụ, như tiên tri…, ii) Thượng đế, thần thánh, linh hồn (nhưng cách hiểu mức độ cũng khác nhau).
Nói cách khác tâm linh là hiện tượng linh diệu và linh thiêng. Đây là hiện tượng có thật từ TÂM CỦA CON NGƯỜI và TÂM VŨ TRỤ.
Còn “Chứng minh có sức thuyết phục về tâm linh? Đây là vấn đề rất trừu tượng, không nhìn thấy, không nghe thấy, không ngửi thấy, có người nói nó như không khí ấy, là có thật, nhưng không nhìn thấy, không ngửi thấy, không nghe thấy,...” ư? Tâm linh cả khách quan và chủ quan đề thuộc về “cái vô hình”, như quan niệm Phật giáo và khoa học hiện đại đã chỉ ra (nên không nhìn thấy, không ngửi thấy, không nghe thấy, không sờ thấy…).
Vấn đề là giải thích nó (nhiệm vụ của khoa học và triết học) “có hay không” như thế nào, hay “vừa không vừa có” ra sao là khó nhất và đặc biệt mặt thứ hai của tâm linh.
Khí nhất là vấn đề linh hồn.
“Sau khi chết “chúng ta la ai”?Đó là tên cuốn sách của GS-TS Đoàn Xuân Mượu (NXB Thanh Niên – 2007). Xuân Cang: “rằng tôi đã đọc một mạch cuốn sách này và lấy làm thú vị. Như tên gọi của sách, tác giả muốn tìm hiểu một vấn đề hãy còn nhiều bí ẩn, đó chính làCon Người chúng ta”.
Theo bình luận của nhà văn Xuân Cang, thì GS -TS Đoàn Xuân Mượuđã sưu tập và tổng hợp sự hình thành con người trên trái đất, các nền văn minh mà loài người đã trải qua, các công trình gây dựng được trên trái đất này, trong đó có các công trình tìm hiểu bản thân con người, để đến nay chúng ta vẫn đứng trước những bí ẩn của chính chúng ta. Cuốn sách có 361 trang, đã dừng lại ở trang 221 để đặt ra vấn đề mà tôi hiểu chính là trọng tâm của sách này: Cần hiểu biết chính mình (Chương 6). Điều khó nhất là tìm hiểu chính mình. Một triết gia cổ Hy Lạp đã nói thế, và điều khó nhất ấy còn nguyên vẹn đến những ngày này. Tác giả dẫn chúng ta đến điều khó hiểu nhất ấy, là con người có linh hồn hay không, linh hồn là gì, có phải chính linh hồn là cái động lực mạnh nhất, siêu đẳng nhất, đang điều khiển mọi hành động của con người, mọi suy nghĩ, khám phá của con người hay không?. Dân gian ta vẫn có câu nói: Đi đâu mà như kẻ mất hồn ấy?“Lúc người ta sống, mọi hành động của ta đều do hồn. Chỉ cần mất tỉnh táo một chút, lung lay một chút đều bị người đời ví như kẻ mất hồn” (Trang 319).Theo tác giả thì khoa học Vật lý đã khám phá được cái thực tế gọi là “linh hồn” ấy cũng thuộc về thế giới vật chất, các nhà khoa học thế kỷ 20 đã tìm ra sự tồn tại của phản vật chất, ngành vật lý lượng tử đã tạo ra được “phản-hydrogen”, cho thấy rằng trong những điều kiện nhất định vẫn tồn tại những vật chất ẩn thể, khi là sóng, khi là hạt, không nhìn thấy được. Chúng có 5 đặc điểm: không có trong, không có ngoài; theo luật không gian ba chiều; theo luật thời gian mà trong đó quá khứ, hiện tại, tương lai diễn ra cùng một lúc; chuyển động với tốc độ lớn hơn ánh sáng; những thông tin truyền trên những đơn vị vật chất ấy sẽ được người tiếp nhận tức thì (tr.242).Đã xuất hiện hàng loạt các ngành khoa học khám phá cái thế giới bí ẩn, không nhìn thấy ấy: Đó là học thuyết Vô thức của Freud, các khoa học Cận tâm lý, Cảm xạ học...
Cuối sách, tác giả đưa ra những bằng chứng ở Việt Nam, người thật việc thật. Giờ đây, bạn đọc đã có thể hiểunhững vần “thơ điên” của Hàn Mặc Tử tả linh hồn thoát ra khỏi cái xác trần tục và bay vào cõi phiêu diêu. Thơ ấy không “điên” một chút nào, viết sau những lần chết đi sống lại, ghi lại những khoảnh khắc hồn lìa khỏi xác, những cảm nhận về đời sống linh hồn, những cảm xúc được ghi lại trong tiềm thức, được xuất hiện viết ra khi sống lại. Những vần thơ người đời không hiểu được và nhà thơ cũng không giải thích được. Cuốn sách đi đến kết luận rằng con người ta có linh hồn, khi còn sống thì cảm nhận sự vật bằng thể vía, khi chết thì linh hồn ra khỏi cơ thể và tiếp tục một đời sống riêng, vĩnh cửu (thác là thể phách còn là tinh anh - Kiều). Và con người không phải chết là hết. Đây là một bí ẩn của chính chúng ta mà chúng ta chưa thể biết được. Đã có những người tiếp cận được với đời sống linh hồn nhưng số người ấy tuy có thật mà không nhiều, hay nói đúng hơn, trước đây có nhiều, có những khả năng kỳ diệu ấy, nhưng cùng với sự phát triển của khoa học duy lý, những con người ấy, khả năng kỳ diệu ấy mất dần đi, con người tự phủ định mình.
Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần có một thái độ mới, trân trọng với những tiếng nói của một nền văn hóa tâm linh, mở đường khám phá để chúng ta hiểu rõ chúng ta là ai trong vũ trụ này.Có khám phá về cái tiểu vũ trụ thì mới mong có những khám phá nhiều hơn nữa cái đại vũ trụ vẫn ngày đêm hiển hiện trước mắt chúng ta mà chúng ta chưa bao giờ hiểu biết được. Đoàn Xuân Mượu không làm hoặc chưa làm cái việc khám phá ấy, ông chỉ khiêm tốn tổng hợp từ một góc độ riêng những thông tin về công cuộc khám phá con người, và cố gắng trình bày một cách đơn giản, dễ hiểu, xen với những cảm xúc khi chính bàn chân ông đã đi đến những cái nôi văn minh ở Trung Hoa, ở Hy Lạp. Nhưng cũng đủ để người đọc chúng ta cảm nhận một cách vừa rõ ràng, vừa kinh ngạc, vừa mơ hồ về chính con người, và gợi ý cho các bạn trẻ về một chân trời khoa học mới, nơi cái bầu trời lại ở chính trong ta.(Nguồn: Nhà văn Xuân Cang, Tiền phong, Chungta.com, Cập nhật lần cuối: 17/04/2009 10:37:17 AM).
Chúng tôi trích lại nguyên văn để bạn đọc tiện theo dõi. Và chú ý bình luận của chúng tôi. Chúng tôi thấy nhưng những gì mà nhà văn Xuân Cang giới thiệu cũng toát lên tinh thần cốt yếu của nó.
Có ba khía cạnh cần chú ý:
Một là, về cái trường “siêu trường” có tốc độ nhanh hơn ánh sáng thì trong não người, phản vật chất, ngành vật lý lượng tử đã tạo ra được “phản-hydrogen”, cho thấy rằng trong những điều kiện nhất định vẫn tồn tại những vật chất ẩn thể, khi là sóng, khi là hạt, không nhìn thấy được và nó là cơ sở của trình độ trực giác và tưởng thức hay siêu thức, năng lực ngoại cảm thì đã có và nó cùng bản chất với vũ trụ.
Nhưng, CHÚNG TÔI CHO RẰNG:
Trước hết, trong dân gian hay cả cả trong thơ Hàn Mặc tử hay Nguyễn Du, thì nó cũng không chứng minh được linh hồn sống như từng mô tả ở trên, vì nó vẫn là một kinh nghiệm dân gian, một kinh nghiệm sáng tác khi xuất thần trong sáng tạo (thần bút).
Hai là, nếu “kết luận rằng con người ta có linh hồn, khi còn sống thì cảm nhận sự vật bằng thể vía, khi chết thì linh hồn ra khỏi cơ thể và tiếp tục một đời sống riêng, vĩnh cửu” thì chúng tôi cho rằng không có như thế, nó chỉ là dạng năng lượng - thông tin tàn dư. Có thể khi con người đã chết thì trường này với mức độ nhất định còn lưu lai đâu đó với ký ức của đời sống quá khứ đời người… Điều đó không tạo nên “thế giới linh hồn sống” như từng được mô tả có năng lực hơn con người sống, có thể mách bảo con người sống, như một trình độ tiến hóa cao hơn. Bởi vì từ nguồn gốc và tiền dề tạo nên ý thức, tinh thần là não con người (với cấu trúc thật sự tunh vi) sống trong tương tác môi trường sống mới có ý thức, tinh thần, tư duy sáng tạo, cả lô gích và trực giác, như linh hồn sống động. Khi não chết thì cái ý thức, tinh thần, tư duy, linh hồn ấy dừng lại, năng lượng, thông tin do nó sản sinh ra cũng ngừng lại. Nó có thể còn tàn dư thoát ra khỏi cơ thể và nếu có phần năng lượng - thông tin chiều sâu liên thông với tâm vũ trụ, hay từ vũ trụ nhập vào não người, thì là dạng tinh khiết/ thuần túy này nếu khi não chết, có thể mang theo thông tin ký ức thì cũng là dạng mặc định, không sống, không có năng lực mách bảo, suy nghĩ, tư duy, sáng tạo.
Ba là, người thật việc thật của các nhà ngoại cảm có thật có giả và cũng chưa đủ để chứng minh có linh hồn hay “thế giới linh hồn” sống vĩnh cữu và mách bảo cho người sống như thế. NẾU CHUNG TA ĐỌC KỸ BÀI VIẾT VỀ TƯỞNG THỨC CỦA SƯ THÍCH THÔNG LẠC khi giải thích căn nguyên từ năng lực tưởng thức của não người mà nhà ngoại cảm có được ở một thời đển nào đó, ở đây là hai nhà ngoai cảm VN là Phạm Thị Bích Hằng và Nguyễn Văn Nhã đăng tải trên Chungta.com.
Chúng ta tham khảo thêm lý giải về người chết sống lại thấy gì và vì sao như thế?
Cần phải phân tích cân nhắc nghiên cứu kỹ về các hình ảnh mà những con người vừa đặt chân vào bên kia thế giới trở về kể lại. Trường hợp của những người bị đánh thuốc mê giải phẫu thì phần lớn các hình ảnh họ thấy thường là khoảng không gian tối đen rồi xen lẫn những lóe sáng lạ lùng. Theo các nhà sinh tâm lý học thì có sự tác động của bộ não, nơi tầng sâu kín nhất tạo nên những hình ảnh kỳ lạ này. Ðiều cần lưu ý là lúc gây mê nhịp tim vẫn còn đập, khác với những người được xem như chết hẳn. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ nghiên cứu về vấn đề này vẫn cảm thấy có bất ổn trong việc nhận định như trên vì có thể các hình ảnh về đường hầm tối đen kia chính là biên giới, là con đường vào cõi chết và khi ánh sáng lóe tỏa ra chính là lúc người chết bắt đầu bước vào ven bìa của cõi chết hay thế giới bên kia. Nhưng sở dĩ người ấy chỉ thấy được chừng đó thôi là bởi nguyên nhân họ chưa thật sự chết hẳn.
Bác sĩ chuyên về khoa tâm sinh lý học Patri Dewarin đã nghiên cứu rất nhiều trường hợp như đã kể trên và ông đã nêu ra một nghi vấn khá lạ lùng, lý thú đó là sự lập lại của chu kỳ của mỗi đời người. Lúc đứa bé lọt lòng mẹ, hình ảnh của nó là trôi qua một khoảng tối om, qua một đường hầm sâu thẳm để rồi khi hoàn toàn đã lọt lòng mẹ, bé lại cảm thấy như rơi vào một đường hầm tối đen khác để rồi lại thấy ánh sáng chan hòa, vậy có thể đây là một thế giới mới. Ðiều này đã khiến cho một số nhà nghiên cứu nghĩ đến vấn đề hậu kiếp, vấn đề đầu thai ở một kiếp khác v.v...
Vấn đề nghiên cứu về những gì hiện hữu ở đằng sau cái chết quả thật cho đến nay vẫn còn tiếp tục trong giai đoạn, tiến trình nghiên cứu. Các nhà sưu tập dữ kiện qua các lời khai của nhân chứng đã đi đến một số khái quát về thống kê như sau: Theo lời thuật lại của những người đã ít nhất một lần di vào cõi chết thì cứ 120 người, có khoảng 23% cho thấy họ rơi vào một khoảng hun hút tối đen rồi thấy ánh sáng chan hòa. 16% thấy thoải mái tâm hồn như đang vào cảnh yên bình diệu vợi. Khoảng 40% cảm thấy mình như lìa khỏi xác để lơ lửng nhẹ nhành vào quảng vô biên. Ngoài ra, theo các tài liệu thu thập có tính cách chính xác, các nhà nghiên cứu đã phân ra các trường hợp đáng quan tâm hơn, đó là sự miêu tả cảnh trí, người và vật ở bên kia thế giới. Nhà bác học Aoriani Rani có lần bị chấn thương sọ não và ông đã được ghi nhận là "đã qua đời" nhưng lạ lùng thay, sau một ngày đêm ở phòng lạnh ông tỉnh lại và đã kể rõ ràng rằng "tôi đi qua một cái cầu cất cao như lơ lửng trên bầu trời tối đen. Tôi sợ sệt run rẩy không dám bước nhưng có tiếng nói xa vắng bên tai, như ra lệnh, như hối thúc tôi hãy đi mau, tiến về phía trước kia kìa...", thế rồi như có một lực kỳ diệu đẩy tôi lướt về phía trước, nơi đó như le lói ánh đèn. Từ xa, tôi nghe như tiếng lao xao và vô số người chen chúc như chuẩn bị bước lên bờ của một cái hố đen ngòm sâu thẳm ..."
Tiến sĩ Kenneth Ring ghi trong tài liệu sưu tập của mình một vấn đề mà ông đánh dấu nhiều ngôi sao để tạo sự chú ý. Ðó là lời kể của những người đi vào cõi chết, họ khẳng định là đã gặp những thân nhân hay bạn bè đã chết trước đó. Những người này có gương mặt thoáng hiện thoáng khuất và yên lặng. Ðiều đáng quan tâm là chỉ gặp lại phần lớn những người mới chết còn những người đã chết quá lâu thì hiếm gặp (có thể vì không có trong ký ức - HBT). Vậy câu hỏi được đặt ra là những người ấy đi đâu? Phải chăng nếu tin vào thuyết luân hồi thì họ đã tái sinh vào nơi nào đó. Còn những người mới gặp thì đang chờ đợi đi vào kiếp lai sinh?
Ðây là câu hỏi muôn đời của con người, không những ở những người già mà thôi mà cả người trẻ cũng thường nhiều lần trong đời thắc mắc điều đó nhất là khi có nhiều người chết lúc thanh xuân hay có khi mới lọt lòng thì đã chết... Trên thế giới có biết bao câu chuyện có những người chết rồi bất thần sống lại. Mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy được trong thời gian chết ấy. Cõi chết mà họ bước vào như thế nào? Phong cảnh, sự vật, màu sắc, âm thanh thế nào? Nơi ấy con người ra sao? Sinh vật nào hiện diện và sự sinh hoạt nơi ấy diễn ra có giống với thế giới mà ta gọi là dương thế hay dương gian hay không?
Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều sự mô tả về cõi chết đã được nhiều người chết đi sống lại tường thuật nhưng ít ai chịu tin nhất là trong thời đại văn minh này. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là hiện nay vấn đề này lại nở rộ tại Pháp, ngay giữa kinh thành Paris, nơi quy tụ các nhà sinh lý, tâm lý và các nhà khoa học. Những người này đang cố gắng gạt bỏ ra mọi ý nghĩ có tính cách mê tín dị đoan khi nghĩ về vấn đề của sự chết để có thể tự nhiên đón nhận và nghiên cứu các trường hợp liên quan về cõi chết. Qua hàng ngàn hồ sơ lưu trữ tại các viện nghiên cứu về Ðằng Sau Sự Chết, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu, gom góp được một số sự kiện trên đoạn đường mà sau khi thở hơi cuối cùng, người chết đã đi qua. Dĩ nhiên, những người này vì lý do nào đó được sống lại và mô tả tỉ mỉ. Hiện nay, phân tâm học, thôi miên học góp phần đắc lực thên cho sự kiểm tra, nghiên cứu về vấn đề này.
Nữ bác sĩ tim mạch R. Mantain đã kể lại trường hợp của mình có lần ngất đi gần 20 phút đồng hồn, bà thấy mình đi quanh quẩn trong nhà như cố tìm lối thoát ra cửa và trong lúc đó bà thấy rõ ràng mình nằm bất động trên gường, đầu nghiêng bên gối, còn người chồng cũng là bác sĩ hốt hoảng lăng xăng tìm cách giúp bà hồi tỉnh. Sau đó, bà thấy thân mình bà cử động, bà muốn giúp sức vào nhưng thật khó khăn và khi thân xác của bà nằm trên giường mở mắt chính là lúc bà trở lại vào người bà.
Ở đây bà R. Mantain chỉ thấy "hồn" mình chưa thật sự đi vào thế giới bên kia. Một tài liệu khác cho biết ông Gerard Chouraqui, cố vấn pháp luật tại Paris đã trãi qua hai ngày ở giữa chặng đường biên giới giữa cõi sống và cõi chết. Theo lời thuật lại của chính ông sau khi được các bác sĩ giải phẩu cứu thoát căn bệnh hiểm nghèo thì ông như trôi vào một lỗ đen tối yên lặng một cách dễ sợ. Cái lỗ ấy giống như đường hầm hun hút và ông tự nhủ thầm với cái vía của mình lúc ấy là: " Mình đang rơi vào địa ngục". Một lúc sau, ở cuối lỗ đen ấy xuất hiện chút ánh sáng. Rồi ánh sáng tỏa ra sáng dần khiến mắt bị chói lòa như ánh hào quang muôn sắc bao phủ. Lúc này thân xác ông bị cuốn hút vào chỗ sáng lòa ấy với vận tốc nhanh một cách lạ kỳ để đến một nơi yên tĩnh, êm đềm trắng xóa như tuyết nhưng không nóng không lạnh. Cơ thể và đầu óc bỗng như bị một năng lực siêu phàm nào đó làm quay đảo và trước mắt ông là quãng đời qua, nào vợ, nào con, nào nhà cử, họ hàng bè bạn... Tất cả hiện ra rõ ràng như thật và bỗng nhiên niềm yêu thương cảm mến dâng tràn và ông có ý hướng muốn quay lại với các người thân. Thế rồi ông bừng tỉnh. Bác sĩ cho biết là ông đã trãi qua gần 20 giờ giải phẫu. Hiện nay, qua hàng ngàn bằng chứng thu thập, các nhà nghiên cứu thấy không phải luôn luôn hình ảnh về bên kia thế giới của những người đã trãi qua một thời gian coi như "tạm rời bỏ chốn gian trần" vì một nguyên nhân nào đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích cân nhắc nghiên cứu kỹ về các hình ảnh mà những con người vừa đặt chân vào bên kia thế giới trở về kể lại. Trường hợp của những người bị đánh thuốc mê giải phẫu thì phần lớn các hình ảnh họ thấy thường là khoảng không gian tối đen rồi xen lẫn những lóe sáng lạ lùng.
Theo các nhà sinh tâm lý học thì có sự tác động của bộ não, nơi tầng sâu kín nhất tạo nên những hình ảnh kỳ lạ này. Ðiều cần lưu ý là lúc gây mê nhịp tim vẫn còn đập, khác với những người được xem như chết hẳn. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ nghiên cứu về vấn đề này vẫn cảm thấy có bất ổn trong việc nhận định như trên vì có thể các hình ảnh về đường hầm tối đen kia chính là biên giới, là con đường vào cõi chết và khi ánh sáng lóe tỏa ra chính là lúc người chết bắt đầu bước vào ven bìa của cõi chết hay thế giới bên kia. Nhưng sở dĩ người ấy chỉ thấy được chừng đó thôi là bởi nguyên nhân họ chưa thật sự chết hẳn. Bác sĩ chuyên về khoa tâm sinh lý học Patri Dewarin đã nghiên cứu rất nhiều trường hợp như đã kể trên và ông đã nêu ra một nghi vấn khá lạ lùng, lý thú đó là sự lập lại của chu kỳ của mỗi đời người. Lúc đứa bé lọt lòng mẹ, hình ảnh của nó là trôi qua một khoảng tối om, qua một đường hầm sâu thẳm để rồi khi hoàn toàn đã lọt lòng mẹ, bé lại cảm thấy như rơi vào một đường hầm tối đen khác để rồi lại thấy ánh sáng chan hòa, vậy có thể đây là một thế giới mới. Ðiều này đã khiến cho một số nhà nghiên cứu nghĩ đến vấn đề hậu kiếp, vấn đề đầu thai ở một kiếp khác v.v...
Vấn đề nghiên cứu về những gì hiện hữu ở đằng sau cái chết quả thật cho đến nay vẫn còn tiếp tục trong giai đoạn, tiến trình nghiên cứu. Các nhà sưu tập dữ kiện qua các lời khai của nhân chứng đã đi đến một số khái quát về thống kê như sau: Theo lời thuật lại của những người đã ít nhất một lần di vào cõi chết thì cứ 120 người, có khoảng 23% cho thấy họ rơi vào một khoảng hun hút tối đen rồi thấy ánh sáng chan hòa. 16% thấy thoải mái tâm hồn như đang vào cảnh yên bình diệu vợi. Khoảng 40% cảm thấy mình như lìa khỏi xác để lơ lửng nhẹ nhành vào quảng vô biên. Ngoài ra, theo các tài liệu thu thập có tính cách chính xác, các nhà nghiên cứu đã phân ra các trường hợp đáng quan tâm hơn, đó là sự miêu tả cảnh trí, người và vật ở bên kia thế giới.
Nhà bác học Aoriani Rani có lần bị chấn thương sọ não và ông đã được ghi nhận là "đã qua đời" nhưng lạ lùng thay, sau một ngày đêm ở phòng lạnh ông tỉnh lại và đã kể rõ ràng rằng "tôi đi qua một cái cầu cất cao như lơ lửng trên bầu trời tối đen. Tôi sợ sệt run rẩy không dám bước nhưng có tiếng nói xa vắng bên tai, như ra lệnh, như hối thúc tôi hãy đi mau, tiến về phía trước kia kìa...", thế rồi như có một lực kỳ diệu đẩy tôi lướt về phía trước, nơi đó như le lói ánh đèn. Từ xa, tôi nghe như tiếng lao xao và vô số người chen chúc như chuẩn bị bước lên bờ của một cái hố đen ngòm sâu thẳm ...". Tiến sĩ Kenneth Ring ghi trong tài liệu sưu tập của mình một vấn đề mà ông đánh dấu nhiều ngôi sao để tạo sự chú ý. Ðó là lời kể của những người đi vào cõi chết, họ khẳng định là đã gặp những thân nhân hay bạn bè đã chết trước đó. Những người này có gương mặt thoáng hiện thoáng khuất và yên lặng. Ðiều đáng quan tâm là chỉ gặp lại phần lớn những người mới chết còn những người đã chết quá lâu thì hiếm gặp. Vậy câu hỏi được đặt ra là những người ấy đi đâu? Phải chăng nếu tin vào thuyết luân hồi thì họ đã tái sinh vào nơi nào đó. Còn những người mới gặp thì đang chờ đợi đi vào kiếp lai sinh?
Trên thế giới, hiện vấn đề này xảy ra không riêng gì cho một quốc gia nào, nơi đâu cũng đều có những người chết sống lại, cho dù sự miêu tả của họ về những cõi chết có khác nhau nhưng ít nhất cũng cho thấy rằng họ đã thấy và thấy cái gì đó. Tại Việt Nam, trường hợp này không phải là hiếm. Bà Lê Thị Duyên sống tại chợ Vườn Chuối năm 1972 bị trúng gió và qua đời. Người nhà khóc lóc lo việc tẩm liệm... nhưng hai ngày sau, bà vươn vai ngồi dậy khiến mọi người hoảng hồn. Bà nói như đang nói chuyện bình thường với người trong nhà. - Người ta đuổi tôi lên, dưới đó tối tăm dễ sợ lắm, tôi có gặp ông chủ Cửu Hợi, ông nói đói lạnh lắm, cúng cho ông..."
Trong các báo cáo của các nhà nghiên cứu về cõi chết và linh hồn có rất nhiều vấn đề làm mọi người trong thời đại khoa học ngày nay ngạc nhiên và sửng sốt. Ngạc nhiên và sửng sốt không những vì vấn đề được nêu ra mà còn vì chính do các nhà khoa học nổi danh đã viết như Bác Sĩ B.ẸSchwarz, Ian Stevenson, Alexander Graham Bell, D. Danielle v..v... họ cho biết như sau: Chết không phải là hết, cát bụi lại trở về cát bụi, chỉ là đối với thân xác, là phần giả tạm mà thôi, còn phần mà ta gọi là linh hồn đã thoát ra khỏi thể xác khi con người chết đi. Linh hồn ấy dật dờ trôi nổi, phiêu du... và khi chết điều tiên khởi lúc bước vào cõi chết là cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát, linh hồn chuyển qua những đoạn đường dài hun hút tối tăm để rồi dần dần tới một nơi đầy sương khói và sau đó là một vùng chan hòa muôn ngàn tia sáng với những âm thanh huyền diệu lạ lùng....
Theo bác sĩ Ian Stevenson thì "chúng tôi chỉ mới nghiên cứu và phân tích đến chặng đường đó và có lẽ câu hỏi : "có gì đằng sau sự chết" vẫn chưa có lời giải đáp trong giai đoạn hiện nay nhưng hy vọng ở tương lai không xa, nhân loại sẽ biết rõ được điều mà từ cổ đại đến nay họ quan tâm thắc mắc. (Tamlinh.net
|
|
http://tamlinh.ucoz.com/publ/chuyn_tam_linh/ng_sau_c_a_s_ch_t_la_gi/1-1-0-92)
ẢNH CẠN TỬ NHƯ NÓI Ở TRÊN THỰC CHẤT đó là sự lập lại, TÁI HIỆN LẠI KÝ ỨC “của chu kỳ của mỗi đời người. Lúc đứa bé lọt lòng mẹ, hình ảnh của nó là trôi qua một khoảng tối om, qua một đường hầm sâu thẳm để rồi khi hoàn toàn đã lọt lòng mẹ, bé lại cảm thấy như rơi vào một đường hầm tối đen khác để rồi lại thấy ánh sáng chan hòa, vậy có thể đây là một thế giới mới”, chứ không phải hồn bay đến gặp cõi âm.
Theo chúng tôi, HBT, vấn đề chính là BÍ ẨN Ở HỌẠT ĐỘNG CỦA TƯỞNG THỨC KHI VÔ THỨC, ĐƯỢC KHAI MỞ LÚC CẬN TỬ như thế nào đó mà thôi!
Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh nghiên cứu vấn đề tiếp theo đi đã.
Chúng tôi, thông tin thêm và bình luận một số kết quả nghiên cứu của một số người để bạn đọc tham khảo, rộng đường duy nghĩ thêm.
Chúng tôi thấy hiện nay có bài viết của sư Thích Thông Lạc về Năng lực của Tưởng thức trong não người sống là đáng chú ý nhất. Nhưng cũng không thể bỏ qua nhiều cách tiếp cận khác.
2-Tưởng thức - Bức màn bí mật đã được vén lên: từ tế bào thần kinh loại tưởng thức
Trưởng lão A la hán Thích Thông Lạc, sau khi đọc bài viết của giáo sư Trần Phương “Tìm hài cốt liệt sĩ, một hành trình đầy bí ẩn”. Trong bài viết này đoạn cuối, chúng tôi, tức sư Thích Thông Lạc, thấy giáo sư Trần Phương có đưa ra nhiều câu hỏi để gợi ý giúp cho Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Của Con Người qua tựa đề “Khám phá sự bí ẩn”, đã viết bài trao đổi lại một bí mật. Sau đây là tóm tắt nội dung bài viết (Giải thích về các nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng và Nguyễn Văn Nhã) của Trưởng lão A la hán Thích Thông Lạc..
- Sau khi tìm hài cốt cô em gái của mình giáo sư Trần Phương không còn đứng yên trên vị trí khoa học nữa mà đã bị đảo lộn tư tưởng bởi những nhà ngoại cảm làm sống lại cái thế giới siêu hình. Rồi đây ai cũng nghĩ: sau khi chết còn có sự sống. Sau khi chết còn có sự sống, thì tệ nạn mê tín dị đoan lại sẽ gia tăng lên nhiều hơn nữa, thì đạo đức lại xuống dốc.Giáo sư nêu lên những câu hỏi để mong cầu những ai có thể giải đáp cho mình, cho mọi người những điều mắt thấy tai nghe mà riêng tri thức của giáo sư cũng như mọi người khác không thể hiểu và giải thích được. Những câu hỏi ấy giáo sư đã lấy tên: “KHÁM PHÁ SỰ BÍ ẨN”. Có nghĩa là ai trả lời được những câu hỏi của giáo sư là khám phá ra sự bí ẩn của thế giới siêu hình.
Đọc bài này chúng tôi cảm thấy vô tình giáo sư đã làm sống lại cái thế giới siêu hình mà từ lâu các nhà khoa học không chấp nhận thường tìm mọi cách để chứng minh cho mọi người biết thế giới siêu hình không có, nhưng khả năng của khoa học còn phải tiến xa hơn nữa và tiến xa hơn nữa thì mới có mong khám phá ra những sự bí ẩn này.
Còn hiện giờ thì sao? Thì cứ mặc tình cho mọi người mê tín dị đoan. Do kẽ hở này mà một số tôn giáo, một số người lợi dụng khoa học không giải thích được thế giới siêu hình mà bịa ra nhiều điều mê tín, dị đoan để làm tiền thiên hạ mà không pháp luật nào bắt tội họ được.Đứng trước những sự lừa đảo lường gạt người bất chánh của Đại Thừa giáo, của các thầy phù thủy, của đồng, bóng, cốt, tự xưng là Phật, Thánh, Tiên, bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, quỷ, ma, cô, cậu v.v...Bài viết này của giáo sư Trần Phương, là một cái cớ để cho những người vô loại này thừa “nước đục thả câu” mà phát triển giáo pháp mê tín, thì đạo đức nhân bản - nhân quả làm người sẽ mất dần và loài người không còn là người nữa mà là ác thú, ác quỷ.
Hiểu được điều này chúng tôi không thể làm ngơ. Vì ích lợi cho mọi người và vì nền đạo đức của con người trên hành tinh này, vì thế chúng tôi xin mạo muội trả lời những câu hỏi của giáo sư không phải để khám phá những điều bí ẩn của giáo sư mà chỉ nêu lên một sự thật “Thế giới linh hồn không có” để đem lại sự lợi ích cho mọi người, không còn bị người khác lợi dụng sự chưa hiểu của mình mà làm những điều lừa gạt bất chánh (Trưởng lão A la hán Thích Thông Lạc).
Có thể tóm tắt lập luận và quan niệm của Trưởng lão A la hán Thích Thông Lạc, như sau:
- Cách đây 2548 năm có một người đã xác định rằng: “không có thế giới siêu hình” có nghĩa là không có đời sống sau khi chết. Ngài đã chia thân người làm năm phần: Phần thứ nhất là sắc uẩn; Phần thứ hai là thọ uẩn; Phần thứ ba là tưởng uẩn; Phần thứ tư là hành uẩn.; Phần thứ năm là thức uẩn. Một người chết năm uẩn này đều tan rã không còn một chút xíu nào cả. Người xác định điều này là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy thì cái gì còn lại gọi là linh hồn của con người?
Theo cái nhìn của Phật giáo thì một con người là do năm duyên hợp lại mà thành ra. Và xa hơn nữa là vạn vật trên thế gian này đều hiện hữu, sự hiện hữu có mặt của một vật đều do nhiều duyên hợp lại. Cho nên một thế giới mà có được thì phải có nhiều duyên kết hợp mới lập thành. Một thế giới không thể nào chỉ có một vật thể đơn điệu được.
- Nếu cho linh hồn là một vật thể không thay đổi. Vì thế linh hồn là bất tử, nên thường đi tái sanh luân hồi từ thân này, đến thân khác. Thân thì có trẻ, có già, có chết. Còn linh hồn thì không già, không trẻ và không chết. Như vậy cháu Bích Hằng phải xem bức ảnh của cô Khang rồi mới nhận ra linh hồn của cô Khang thì như vậy không đúng. Vì sao vậy? Là vì linh hồn của cô Khang bây giờ không còn là hình dáng của cô Khang nữa, mà là hình dáng bất di bất dịch của linh hồn. Khi linh hồn ấy còn mang thân xác của cô Khang thì hình dáng ấy là hình dáng xác thân của cô Khang, chứ đâu phải là hình dáng linh hồn của cô Khang phải không thưa quý vị? Khi cô Khang chết thì hình dáng của cô Khang cũng không còn, thì như vậy linh hồn của cô Khang phải trở về với hình dáng nguyên thủy của nó, thì làm sao linh hồn có hình dáng giống cô Khang được. Vì linh hồn là một vật không thay đổi, như chúng tôi đã nói ở trên. Xét ở góc độ này thì cháu BíchHằng gọi hồn cô Khang về là một năng lực trong thân ngũ uẩn của cháu Bích Hằng tạo ra linh hồn của cô Khang, chứ không phải có linh hồn cô Khang thật, vì thế cháu phải nhìn hình ảnh cô Khang rồi mới tạo ra hình ảnh cô Khang được. Do đó chúng ta suy ra, nếu có thế giới linh hồn của người chết thì những linh hồn ấy không có hình dáng giống như chúng ta. Tại sao vậy? Tại vì một linh hồn phải trải qua nhiều lần tái sanh luân hồi, do đó mỗi lần tái sanh là mỗi lần có hình dáng khác nhau của thân xác, có nhiều hình dáng khác nhau như vậy thì làm sao linh hồn cô Khang giống cô Khang được?
Tất cả những sự việc này lần lượt chúng tôi sẽ cố gắng vén bức màn bí ẩn để quý vị không còn thấy nó là bí ẩn nữa.
- Ở đây, chúng ta cần phải hiểu thêm về nhóm tế bào não thuộc về ý thức, khi nó hoạt động thì không vượt qua được không gian và thời gian, vì thế khoảng cách xa, như ngăn sông, cách núi, hoặc dưới lòng đất, dưới đáy biển đại dương, v.v... thì nó không thể thấy biết được. Về thời gian, nó bị chia cắt có quá khứ, vị lai và hiện tại, quá khứ nó không nhớ biết, vị lai thì mờ mịt không rõ. Ngược lại, nhóm tế bào não bộ thuộc về tưởng thức, khi nó hoạt động thì nó vượt qua hàng rào không gian và thời gian, nên thời gian và không gian không còn chia cắt và trải dài. Vì thế nó bắt gặp hay nói cách khác là giao cảm với những gì đã xảy ra ở quá khứ và vị lai.
- Ở trường hợp này nhóm tế bào não tưởng thức của anh Nhã thì quá rõ ràng, không có trạng thái đồng cốt như cháu Bích Hằng, nhưng nó hoạt động chưa chính xác 100%. Vì tưởng thức của anh tự nó hoạt động chứ không phải do anh triển khai, điều khiển, nên mức độ hoạt động của nó chưa hoàn chỉnh và chính xác… Vì biết rằng các nhà khoa học không thể chứng minh được những hiện tượng hoạt động của tưởng thức, nên trong các tôn giáo người ta cố ý tu tập để triển khai tưởng thức hoạt động ngõ hầu lấy đó tạo dựng thế giới siêu hình và thần thông để lừa đảo mọi người. Vì không nhận ra những hiện tượng đó nên mọi người tin tưởng gia nhập vào tôn giáo, nuôi hy vọng khi chết đi sẽ được sanh về nơi đó (Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết Bàn), hay có những thần thông pháp thuật.
Sự phát triển hoạt động của não bộ không đồng đều, khiến cho tưởng thức hoạt động nhiều hơn ý thức (trường hợp cháu Bích Hằng), hoặc ý thức và tưởng thức cùng hoạt động (trường hợp như anh Nhã). Vì thế biến họ từ một con người bình thường trở thành đồng, cốt và các nhà ngoại cảm. Họ là con người có khả năng đặc biệt.
Năng lực đó thể hiện ở tưởng thức:
1- Nó hoạt động rất đặc biệt tại một điểm, nên không có không gian và thời gian, khoa học không thể chứng minh được.
2- Nó giao cảm được mọi âm thanh sắc tướng, vì các từ trường của nó. Các nhà khoa học có thể chứng minh được.
3- Nó biến hiện ra muôn hình sắc tướng của những người đã chết không sai một nét nào cả. Đó là năng lực duyên hợp của tưởng thức. Các nhà khoa học không thể chứng minh được, vì nó không phải là vật lý học, hóa học, y học, sinh học, v.v...
4- Nó tạo ra một người thứ hai đang tiếp chuyện với ý thức của nó. Đó là năng lực hợp duyên của tưởng thức, khoa học không thể chứng minh được.
5- Vì không có không gian, nên nó nhìn suốt trong lòng đất thấy mọi vật và bất cứ địa phương nào ở nơi đâu, cách xa bao nhiêu, nó cũng biết được. Khoa học có thể chứng minh được vì đó là từ trường của tưởng thức.
6- Vì không có thời gian nên bất cứ chuyện gì đã xảy ra hoặc sắp xảy ra bao lâu nó cũng biết được. Và biết một cách rất cụ thể. Đó là từ trường của tưởng thức giao cảm và bắt gặp những hành động, hình ảnh và âm thanh của mọi sự việc đã xảy ra còn lưu lại trong môi trường sống, khoa học có thể chứng minh được.
- Cũng như những sự việc sắp xảy ra trong môi trường sống nhân quả của mỗi con người, nó đều bắt gặp và giao cảm được cả, khoa học không có thể chứng minh được.
Là một nhà tu tập thiền định theo Phật giáo, tự bản thân chúng tôi đã trực tiếp truy tìm thế giới siêu hình để thấy, nghe, hiểu biết, thì chúng tôi biết nó từ đâu xuất hiện những hiện tượng đó. Vì thế chúng tôi xác định quả quyết: “Thế giới siêu hình (thế giới linh hồn- HBT) không có, chỉ là năng lực tưởng thức của mỗi con người còn đang sống tạo ra, chứ người chết rồi thì không còn lưu lại một vật gì cả”. Xưa, thái tử Sĩ Đạt Ta khi tu thành Phật, Ngài cũng xác định: “Thế giới siêu hình là thế giới của tưởng tri”.
Thế giới linh hồn của con người do năng lực tưởng thức của người còn sống tạo ra thì có hai trường hợp:
1)- Không tin nó là thế giới linh hồn của người chết, mà biết sử dụng năng lực tưởng thức đó áp dụng vào cuộc sống hiện hữu của con người thì rất có lợi ích như: tìm hài cốt liệt sĩ, báo động trước những tai nạn sẽ xảy ra v.v...
2)- Nếu tin nó là thế giới linh hồn của con người, thì đó là một tai họa rất lớn, gây cho chúng ta bệnh tật và tai nạn “tiền mất tật mang”. Nếu tin nó thì đời sống của chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc, mất tự chủ, sống thiếu đạo đức.
Bởi vì thế giới siêu hình không có, tức là không có linh hồn người chết, không có linh hồn thì làm sao có chất liệu quang học, y học, vật lý học mà khám phá. Nếu rời khỏi bộ óc con người mà khám phá thì chẳng bao giờ khám phá ra được thế giới linh hồn.
Cho nên, các nhà y học và khoa học hãy khám phá nơi bộ óc của một nhà ngoại cảm đang hoạt động, thì có thể sẽ khám phá ra từ những từ trường của những tế bào não tưởng thức phóng ra giao cảm với những từ trường còn lưu giữ trong không gian, những hình ảnh, âm thanh, sắc tướng, những hành động và tình cảm của mỗi con người trước khi chết. Đó là y học và khoa học có thể khám phá ra được. Nhưng có những điều mà khoa học và y học không thể khám phá ra được, đó là năng lực của tưởng thức, năng lực đó có thể biến tạo ra hàng vạn vạn triệu triệu linh hồn con người chết và mỗi linh hồn người chết, từ hành động cử chỉ, lời ăn, tiếng nói đến đặc tướng, cung cách không sai khác như người đó lúc còn sống. Nhất là những linh hồn do tưởng thức của nhà ngoại cảm biến hiện ra, lại nói chuyện với nhà ngoại cảm, nhà ngoại cảm hiện giờ như người trung gian nói lại cho chúng ta nghe những sự việc xảy ra mà chỉ có những người thân trong gia đình mới biết. Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quý vị dễ hiểu hơn.
Trong giấc mộng chúng ta gặp lại ông, bà, cha, mẹ đã chết cách 10 năm hoặc 20 năm, cùng lúc trong đó chúng ta cũng gặp lại những người còn sống như anh, chị, em, cô, bác cùng bà con hàng xóm. Chúng ta đừng hiểu nông cạn là những linh hồn người còn sống cùng với những linh hồn người chết về gặp chúng ta trong giấc mộng. Nếu quả chăng những người còn sống xuất hồn gặp chúng ta thì những người ấy phải nằm mộng như chúng ta. Nhưng sự thật những người ấy không có nằm mộng. Như vậy những người gặp chúng ta trong giấc mộng là gì? Đó là do năng lực tưởng thức của chúng ta biến hiện ra, nó có thể biến hiện một số lượng người và xe cộ đông đúc như chợ Bến Thành, nó có thể biến hiện ra một thủ đô lớn như thủ đô Hà Nội, v.v... Xét qua giấc mộng thì năng lực tưởng thức của giấc mộng chỉ bằng một phần trăm của tưởng thức cháu Hằng khi tìm hài cốt liệt sĩ, và khả năng tưởng thức còn gấp trăm triệu lần khả năng tưởng thức của cháu Hằng hiện giờ, khi nó làm những việc còn siêu việt hơn. Cho nên những nhà Khí công, nhà Nhân điện đều dùng khả năng của tưởng thức.
- Thiền xuất hồn là một phương tiện tu tập khai triển năng lực của tưởng thức. Khí công là một môn võ học tập luyện để triển khai năng lực tưởng thức, Mật Tông cũng là một pháp môn triển khai sự mầu nhiệm của năng lực tưởng thức, Nhân điện cũng là một phương pháp triển khai năng lực tưởng thức để trị bệnh, Tịnh Độ Tông triển khai năng lực tưởng thức tạo ra thế giới siêu hình Cực Lạc Tây Phương, Thiền Tông là một pháp môn tu tập triển khai năng lực tưởng giải ảo giác, Chân không, Phật tánh v.v. Nếu có nghiên cứu xa hơn thì cũng dựa vào những nhà Nhân điện tưởng, Khí công tưởng, Xuất hồn tưởng, Võ công tưởng, Thiền tưởng, Định tưởng, Thần chú tưởng, Ngoại cảm tưởng v.v... Thì cũng không thể nào giải quyết được những gì mà giáo sư mong đợi. Còn nếu đem những nhà ngoại cảm này áp dụng vào hình sự thì chúng tôi e rằng không chính xác, vì các nhà ngoại cảm không phải tự mình điều khiển cái năng lực đó, mà chính cái năng lực tự động của tưởng thức đó điều khiển họ, nên có khi chính xác và có khi không chính xác, có nghĩa là tưởng thức của họ, lúc làm việc, lúc không làm việc.
- Tóm lại bài này, viết vì lợi ích cho mọi người trên hành tinh này, chúng tôi nói lên sự thật, sự thật 100%. Sự thật là sự thật, không thể nói khác được, chúng tôi nêu lên một sự thật, thời gian và sự tiến bộ của loài người sẽ xác chứng những điều này, những điều chúng tôi đã nói ngày hôm nay “Thế giới linh hồn là do tưởng tri”[1].
Đúng là “Hiện tại trên diễn đàn lại xuất hiện một người tu hành phải nhảy ra chỉ vì vấn đề Đạo Đức”! Và cũng vì MỘT SỰ THẬT ĐỰỢC DẤU KÍN LÂU NAY.
Phải nói ngay rằng bài viết trên của Trưởng lão A la hán Thích Thông Lạc trên ý nghĩa đó là rất thuyết phục. Bí mật và sự thật đã vén bức màn. Không phải thế là xong, nhưng phần óc người hơn 90% còn ở trong bóng tối còn chưa/ khó có thể biết hết, nhưng năng lực của tưởng thức như vậy cũng khá rõ. Nó gần và con cao hơn với trực giác, linh cảm... Năng lực tưởng thức này là năng lực (thông tin đặc biệt của trường tâm thức?), bí ẩn vũ trụ và óc người. Xin cảm ơn tác giả đã cung cấp thông tn và cảm biết của mình thật bổ ích và rất nhân văn... Theo chúng tôi cần phổ biến rộng thông tin này.
Nhưng….
3- Một số bằng chứng khác
Theo Đạo Trường:
+ Có người đã cho chúng tôi biết về năng lực nhìn thấy vật cản, nhìn thấy từ xa của một bổn sư, như sau:
Qua những buổi đàm đạo, dần dần biết được biết thêm vài khả năng siêu phàm của một bổn sư. Trong đó có khả năng rất lý thú đó là có thể “nhìn” thấy nhiều chuyện cách xa ngoài tầm nhìn của mắt người. Bởi vậy khi chúng tôi đang trên đường đến thăm Thầy thì Người đã thấy từ khi tôi còn ở trên đường cách xa vài km, và đã pha trà, mở cửa sẵn cho chúng tôi. Có những lúc Thầy thấy được túi chúng tôi không còn một đồng và chọc giỡn sao trên đời có người nghèo kiết xác như thế, có lúc chúng tôi buồn thì ông nói chuyện cho tôi quên ví dụ như ông nói cho chúng tôi biết trong bóp của chúng tôi có những giấy tờ gì, có bao nhiêu tiền và những đồng tiền loại nào. Hay chơi trò Thầy ngồi mặt quay vào trong đoán chuyện sau lưng chúng tôi ngồi đố và kiểm chứng, mọi chuyện ở nhà chúng tôi đang diễn ra như thế nào. Có khi ra về Thầy nói cho biết chúng tôi nên đi theo đường nào vì đường kia có đám lính say rượu đánh nhau rất nguy hiểm và chúng tôi tò mò kiểm chứng thì thấy đúng như vậy. Lần sau đến thăm thầy, ông đã nghiêm nghị nhắc nhở chúng tôi không được tò mò ngu xuẩn như vậy. Chúng tôi không còn nói được câu nào ngoài câu xin lỗi vì thừa biết rằng thầy tuy ngồi nhà nhưng đã thấy chúng tôi đến đó. Kính trọng thầy nên chúng tôi trở thành nhà tu bất đắc dĩ trong cái tuổi nghịch ngợm, yêu đương của tuổi trẻ. Tôi biết rằng bất cứ chúng tôi làm điều gì thầy chúng tôi cũng có thể sẽ thấy, có những lúc chúng tôi tự than thở tại sao cái số mình khổ vậy. Tự nhiên quen một ông cảnh sát chằng quá trời như thế này, đời mất hết tự do và tự nhiên.
Chúng tôi cũng đã có dịp hỏi thầy về những hình ảnh bằng mắt không giống ai đó thầy thấy như thế nào. Thầy nói những hình ảnh đó đương nhiên là hoàn toàn không giống hình ảnh của mắt, nhưng nhờ nó thì khi “ thấy” “Tôi” là biết liền đó là “ tôi”, khi thấy nhà cửa xe cộ cách xa hàng chục km là biết liền đó là nhà cửa xe cộ… Chúng tôi cũng thấy thầy chúng tôi phân biệt được cả màu sắc chứ “hình ảnh” không như trên màn hình ra đa hoặc kíếng hồng ngoại tuyến. Thầy không hề xuất hồn để đi đến nơi cần thấy, thầy chứng minh cho chúng tôi là thầy “thấy” nhiều chuyện ở cách xa đồng thời lúc đang nói chuyện bình thường với chúng tôi. Lúc nào cần thì khả năng đó có, lúc nào không cần thì là người bình thường.
Thời gian đầu chúng tôi rất hào hứng với đạo Phật vì trong thâm tâm chúng tôi cũng muốn có những khả năng như thầy. Nhưng Thầy đã dạy chúng tôi rằng: “vài cái khả năng đặc biệt này CHỈ LÀ TRÒ CHƠI HIỆN ĐẠI MÀ THÔI, CẬU HÃY GHI LÒNG KHẮC DẠ LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT VÀ Ý NGHĨA NHẤT CỦA CUỘC ĐỜI LÀ PHẢI CÓ ĐẠO ĐỨC, HÃY TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC”.
Chúng tôi “mê tín” thầy qua những khả năng của thầy nên chúng tôi thành tâm ghi lời thầy dạy trong tim mình. Nhưng để thực hiện lời dạy của thầy thì chúng tôi lại phải trả lời câu hỏi : Đạo đức là gì ? lấy gì để mà hiểu đạo đức ? Thế nào là có đạo đức ? thế nào là không ? đạo đức có lợi thế thật sao ? như thế nào và làm thế nào để tu dưỡng đạo đức?.....hàng loạt câu hỏi được đặt ra. Và chúng tôi chọn đạo Phật để hiểu đạo đức và tu dưỡng đạo đức. Nhưng những bài giảng đầu tiên thầy dạy cho chúng tôi lại là KHÔNG TIN. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn về đạo Phật, về đức Phật Thích Ca được đặt ra và đàm đạo khách quan, hàng loạt sự kiện lịch sử trong nước và lịch sử thế giới lẫn những chuyện vặt đời thường được nêu ra để chứng minh sự thất bại của đạo Phật. Chúng tôi phải có nhiệm vụ hỏi cho đến khi nào hết câu hỏi. Chúng tôi đã mất hơn nhiều năm trời cho việc học KHÔNG TIN này. Kết quả là chúng tôi đã tin tuyệt đối vào triết Phật. Mật tông đã cho Thầy của chúng tôi biết vài trò chơi hiện đại nhưng đã đủ cho Thầy biết những trò chơi hiện đại này chưa có ích lợi gì cho cuộc đời này và thầy chứng minh cho tôi biết chỉ có hại chứ không có lợi. Chính vì vậy khi chúng tôi theo học Thầy thì thấy một thời gian sau Thầy không tu mật tông nữa và không dùng những trò chơi này nữa. Chúng tôi mới hiểu được câu nói Thầy hay nhắc chúng tôi ngay từ khi hồi đầu gặp gỡ: “Hãy sống là một người bình thường và có đạo đức “chỉ vì thời trẻ chúng tôi nào có hay thế nào là một người bình thường, thế nào là có đạo đức. Thầy đã sống theo ý nghĩa của cuộc sống phải là cuộc sống. Thầy trò đã chia tay nhau trong sự bình tĩnh lạ thường, và rồi chúng tôi vẫn luôn thấy Thầy ở đó – cuộc đời này. Chúng tôi biết hiện có nhiều người như Thầy chúng tôi lắm, nhưng họ đã im lặng vì họ biết rất rất nhiều.
+ Có một người khác đã giải thích với chúng tôi về năng lực ngọai cảm/ tưởng thức theo kiểu gần với khoa học hiện đại, như sau:
Khoa học phục hình của loài người đã có bước tiến nhảy vọt. Lúc đầu người ta phải nhìn thấy nguyên xác một con người thì người ta mới có khái niệm về con người đó. Giai đoạn sau người ta thấy một bộ xương là người ta có thể hồi phục được những nét lớn của con người và kết hợp với khoa tâm sinh lý người ta đoán được cả những tính cách thói quen căn bản của người đó. Giai đoạn sau nữa người ta chỉ cần xương sọ là phục hình thể và tâm lý khá giống thực. Rồi cao hơn cả là người ta nhìn một xương quan trọng (ví dụ như xương hàm của một hộp sọ) người ta vẫn hình dung được một con người đủ thể xác lẫn tinh thần. Tại sao làm được như vậy ? đó chính là kết quả tổng hợp và phân tích những kiến thức về giải phẫu học, tâm sinh lý học của loài người đã thu thập được trong lịch sử tồn tại của mình - tức là nhờ năng lực hợp duyên, một khái niệm có trong duy thức học Phật Giáo. Với sự trợ giúp của computor kỹ thuật cực kỳ hiện đại hơn nữa , con người mai sau với kiến thức khổng lồ của mình sẽ có thể chỉ cần phân tích một tế bào mà hình dung ra một người đủ thân và ý, rồi thì người ta dựng được cả cuốn phim ba chiều về cuộc đời người đó. Tế bào trong trường hợp này là một mẩu thông tin cực kỳ bé nhưng ta vẫn dễ thấy, khoa học có thể kiểm chứng được. Máy computor sinh học của thượng đế siêu vĩ đại, vĩ đại không thể tưởng tượng được. Máy computor này có thể lập trình cho bộ phận cơ thể nào đó trở thành một giác quan siêu phàm: có thể đọc được suy nghĩ của người khác, đọc được cả những thông tin chứa trong miền nhớ của mọi người khác dù rằng những người đó không nghĩ đến hoặc đã quên tạm thời. Từ những thông tin ít ỏi này bộ phận tưởng thức của computor sinh học sẽ tổng hợp và phân tích rồi đối chiếu với những kiến thức có sẵn chứa trong nó dẫn đến kết quả là xây dựng nên được những bộ phim từ thô sơ cho đến mức độ cao là cực kỳ tinh tế chính xác và đặc biệt là THÔNG MINH. Nhân vật trong phim này có thể phản ứng đối đáp lại với người tiếp xúc với chúng (trong trường hợp này là tưởng thức của nhà ngoại cảm). Nếu bạn có chơi cờ tướng bằng chương trình vi tính hoặc chơi những trò chơi vi tính. Nhưng máy vi tính sinh học cực kỳ tinh vi nên hình ảnh, âm thanh, phản ứng của linh hồn mà tưởng thức tạo nên sẽ sống động y như thật nếu chương trình của tưởng thức chạy được ở mức cao nhất. Rõ ràng là mức độ chính xác, mức độ rõ nét, mức độ sinh động của Phim linh hồn phụ thuộc vào cấu hình máy (não) và chương trình xử lý (Tưởng thức chứa trong tâm) của nhà ngoại cảm. Nhưng khoa học không thể chứng minh được vì khoa học sẽ không / hay chưa? chế ra được máy cảm nhận tâm linh. Trường sinh học, điện não, các phổ photon mà khoa học đo được hết sức thô thiển so với môi trường vật chất Tâm, giống như so sánh một hạt đậu với một quả đồi vậy (ẩn dụ Phật đã mô tả về độ lớn và sức mạnh của chủng tử - vi thể tạo nên tâm và chứa trong tâm). Có thể quá trình xử lý thông tin, suy nghĩ tư duy không phải là quá trình liên quan đến những photon mà loài người ngày nay quan sát được, nếu có thì phải là những "photon" mịn hơn nên mạnh hơn ánh sáng/ nhanh hơn ánh sáng. Và như vậy chưa có có vật chất nào đủ cứng để tạo máy dò những siêu photon đó. Khoa học chưa thể cảm nhận và chứng minh được thể tâm thông qua sự hỗ trợ của máy móc.
Nghiên cứu Triết Phật ta sẽ thấy các đức Phật có thể trao đổi thông tin cho nhau âm thầm qua đường tâm, với một tốc độ truyền tin thật là kinh khủng: Mỗi sátna hàng vạn Pháp. điều này giống na ná như hai máy computor nối với nhau qua bluetooth hoặc cổng hồng ngoại vậy. Khi một người bình thường nhưng vì lý do nào đó các tế bào não ở chỗ nào đó kích hoạt được những chương trình mới lạ - mà nổi bật hiện nay là chương trình cao cấp của tưởng thức, họ thành nhà ngoại cảm. Họ sẽ tiếp nhận được những “sóng thông tin" rồi xử lý chúng. Chỉ có não mới phát ra "sóng" đó thôi hay sao ? Không, Triết Phật cho biết mỗi nguyên tử, phân tử vật chất luôn hấp thu năng lượng và thải trừ năng lượng, tức là liên tục phát ra những "sóng" như những mặt trời siêu nhỏ vậy. (Khoa học vật thể hiện nay chỉ thấy được và đo được những sóng thô phát ra từ các chất phóng xạ trong tự nhiên như Radium, uranium, Phospho32, kalĩ 40…)… Như vậy, bất cứ thành phần cơ thể nào cũng phát ra thông tin về nó. Phần mềm cơ thể tan rã nhanh cho ra oxy, hydro, nước... hoà vào đất, chảy theo nước bay lên không trung. còn xương thì tồn tại lâu hơn cho nên các nhà ngoại cảm cảm nhận được thông tin người chết từ xương này.
Nhà ngoại cảm nhận được thông tin người chết từ xương và từ trong tinh thần người sống rồi đối chiếu kiến thức về linh hồn mình đang có, sẽ dễ dàng định vị và xây dựng nên một cuốn phim về linh hồn. Chính vì vậy mà những suy nghĩ của ông Trần Phương và mọi người không nói ra nhưng đã bị lộ cho nhà ngoại cảm khi họ có mặt gần nhà ngoại cảm. Cũng chính vì vậy mà cô Bích Hằng đã có những lúc phải xem hình người chết để dựng hình cho phim trong tưởng thức, với lý luận là xem biết hình để đi vào cõi linh hồn tìm kiếm. Và cuối cùng là cô ấy biểu lộ đầy mâu thuẫn.
Khả năng nhà ngoại cảm phụ thuộc mức độ chạy chương trình của tưởng thức và trình độ kinh nghiệm sống của nhà ngoại cảm. Cô Bích Hằng sẽ không đưa ra nhiều hình ảnh mâu thuẫn nếu cô ấy có khả năng ngoại cảm khi đã là một nhà khoa học rồi, lúc đó mọi người còn bối rối nhiều hơn nữa vì tính logic rất cao. Thực tế thì cô ấy có ngoại cảm khi kiến thức về linh hồn ở mức hoang sơ như ông bà ta thường nghĩ từ xưa đến nay: linh hồn là ma, cà lơ phất phơ, đói khát cần phải cúng lễ... tức là kho tàng kiến thức để đối chiếu của cô ấy đơn sơ sai lạc như thế đã phát sinh ra cuốn phim linh hồn như thế. Có những nhà ngoại cảm chỉ chạy được chương trình phát hiện "tần số" xương nên chỉ phát hiện được xương ngoài ra không thêm được khả năng nào khác, những người này mà không có đức thì sẽ sáng chế thêm nhiều chuyện để thêm phần siêu nhân cho mình xoá mặc cảm có khả năng như một chú chó nghiệp vụ mà thôi. Có nhà ngoại cảm thì chỉ dựng được phim hình chứ không có tiếng, có người khác lại có tiếng chứ không có hình, có người thì cảm nhận qua mùi hương... Tình cờ, trong môi trường sống như thế nào đó một người đã đột mở chương trình của tưởng thức và trở thành nhà ngoại cảm. Khi nhà ngoại cảm có nhiều tiền thì việc ăn uống, tiếp xúc các nguồn sóng điện từ những phương tiện cao cấp, hít thở không khí cũng khác đi - đời sống hoàn toàn bị biến đổi. Chính vì môi trường sống thay đổi nên các mối quan hệ thay đổi, có thể dẫn đến cấu trúc não khác đi, chương trình tưởng thức trục trặc hoặc ngưng hoạt động. Lúc đó là lúc ta có thể mất nhà ngoại cảm. Như vậy khi có khả năng ngoại cảm thì tốt nhất là nhà ngoại cảm duy trì đời sống của mình, càng ít biến đổi càng tốt để giảm nguy cơ mất khả năng ngoại cảm đã có.
Việc nghiên cứu nhà ngoại cảm bằng X-quang, MRI, EEG có thể sẽ làm nhà ngoại cảm mất khả năng của họ. Vì môi trường máy móc có thể sẽ tương tác can thiệp vào môi trường não và tâm của người ta (?).
4- Một vài minh chứng từ khoa học[2]
Xin nêu vài dẫn chứng:
- Khái niệm ma quỷ hiện ra từ thế giới tâm linh xuất hiện khi chữ viết ra đời hoặc thậm chí từ xa xưa hơn nữa thông qua truyền miệng. Nhưng từ lâu nay, khoa học đã khẳng định rõ ràng và dứt khoát: Không có bằng chứng khoa học giải thích sự tồn tại của ma quỷ. Vậy, làm sao chúng ta giải thích được việc những người sáng suốt tin rằng, họ đã nhìn thấy hoặc cảm thấy một con ma? Một số lời giải thích khoa học và dị thường cho hiện tượng nhìn thấy ma là gì?Giáo sư Schoch trích dẫn hiện tượng các thành viên gia đình nhìn thấy "bóng ma" của một người họ hàng xa tại thời điểm người đó chết… "Một số người sẽ cho rằng đây là trùng hợp ngẫu nhiên", Schoch nói. "Nhưng đã có các nghiên cứu thống kê về hiện tượng này khiến nó không còn là sự trùng hợp ngẫu nhiên". Theo giả thuyết của ông Schoch, đó không phải là bóng ma nào cả. Thay vào đó, hiện tượng này có thể là một loại nhận thức ngoại cảm mà chúng ta không thể nào đo lường được. Giáo sư Schoch đang nghiên cứu liệu sóng não của trạng thái cảm xúc nào đó có thể được chuyển giao giữa con người trong một khoảng cách dài trên bước sóng tần số thấp – tương tự các bước sóng phát hiện trong trường địa từ của Trái đất hay không? Giáo sư Schoch cho biết, ông vẫn tin rằng khám phá những hiện tượng này là việc làm có giá trị.(http://www.khoahoc.com.vn/khampha/kham-pha/49983_nghien-cuu-gay-soc-ve-ma-quy-tam-linh-tren-the-gioi.aspx)
- Giới khoa hoc đã hiện tượng đồ vật tự nhiên di chuyển, ngôi nhà bị đồn "ma ám" cùng nhiều tiếng động kỳ lạ... như dấu hiệu có sự góp mặt của những linh hồn thích quấy nhiễu...
Trong lĩnh vực tìm hiểu những hiện tượng huyền bí, có một hiện tượng mang tên Poltergeist đã được đề cập và chứng kiến ở rất nhiều nơi trên thế giới. Hầu hết hiện tượng bí ẩn này đều liên quan đến việc những đồ vật tự nhiên di chuyển, ngôi nhà bị đồn "ma ám" cùng nhiều tiếng kêu kì lạ…Trong lĩnh vực tìm hiểu những hiện tượng huyền bí, có một hiện tượng mang tên Poltergeist đã được đề cập và chứng kiến ở rất nhiều nơi trên thế giới….Theo nghiên cứu tâm lý của hai nhà khoa học Lange và Houran, hiện tượng Poltergeist xảy ra bởi yếu tố tâm lý, trí nhớ và mơ tưởng. Trong tình trạng không bình thường chúng ta hay có ảo giác về những đồ vật xung quanh, nhiều lúc tự gây tổn hại bản thân mà hoàn toàn không hay.Nhà nghiên cứu David Turner đã thí nghiệm thành công việc tạo ra các quả cầu sét trong không trung ở điều kiện những ngày giông bão, ẩm thấp. Các địa chấn ở diện tích nhỏ cũng góp phần dịch chuyển đồ vật trong gia đình tạo ra hiện tượng Poltergeist kỳ bí… Một lý giải thú vị khác được nhiều người tin tưởng nhất chính là khả năng đặc biệt của một ai đó. Các nhà khoa học về cận tâm lý đưa ra giả thuyết, nguyên nhân của hiện tượng này có thể nằm ở khả năng tác động đến mọi vật chỉ bằng ý nghĩ. Một vài người có thể di chuyển các đồ vật nhờ sóng điện từ trong não rất mạnh. Các nhà nghiên cứu cho rằng, hình thức phổ biến nhất của khả năng dịch chuyển đồ vật bằng suy nghĩ là điều khiển việc làm một cách vô thức. Nó được tạo ra khi ý thức con người bị căng thẳng, rối loạn cảm xúc hoặc thậm chí do nội tiết tố trong người sinh ra. Nếu không có sự kiểm soát ý thức, đồ vật bị di chuyển có thể không đi theo quỹ đạo, bay lung tung và dẫn tới cảnh tượng kinh hoàng. Như tại Đức vào năm 1966, một cô gái tên Anne-Marie Schneider bị công ty cho thôi việc vì những đen đủi mà họ cho rằng do cô mang lại. Từ khi Anne gia nhập công ty, các ngọn đèn liên tục cháy, đồ vật rơi vãi lung tung, cửa kính liên tục bị vỡ. Chỉ đến khi Anne dừng làm việc mọi chuyện mới trở lại bình thường. Nhưng buồn thay cho cô, các vấn đề tương tự lại xuất hiện ở nơi làm mới, khiến cho Anne liên tục ở trong tình trạng thất nghiệp[3]. Đây là một biểu hiện của sức mạnh của sóng sinh học hay sức mạnh của tâm trí?
Theo Đỗ Kiên Cường, thì câu trả lời chính thức của khoa học là không có linh hồn như một tồn tại sau cái chết. Cặp phạm trù cấu trúc - chức năng trong sinh học khẳng định, một chức năng sống chỉ có thể do một cấu trúc sinh học đảm nhiệm. Chỉ tim mới bơm được máu đi nuôi cơ thể; chỉ não mới biết nhận thức, cảm xúc và chỉ đạo hành vi. Mọi đặc trưng tinh thần (cái mà dân gian gọi là hồn) chỉ có thể được thực thiện trong một bộ não đang sống. Khi chết, các quá trình sinh học trong não chấm dứt, và các đặc trưng tinh thần (hồn) cũng chấm dứt theo; giống như máy tính khi mất điện vậy (Đỗ Kiên Cường, http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/ts-do-kien-cuong-tat-ca-ngoai-cam-tim-mo-deu-la-lua-dao-n20131030105442933.htm).
Nhưng cũng theo ông. Đỗ Kiên Cường, nhà dị thường học nổi tiếng (nêu giả thuyết):“Các sóng điện từ tần số cực thấp (như sóng điện não) có thể lan truyền vòng quanh Trái đất nhờ cộng hưởng Schumann”. Và ông cho rằng các hiện tượng tâm linh nói trên “cần giải thích dựa trên… quan điểm vật lý hiện đại về bản chất của sự sống. Theo đó trong cơ thể có 2 kênh truyền tin có bản chất điện từ: kênh hữu tuyến qua xung thần kinh và các dòng điện sinh học; kênh vô tuyến nhờ sóng điện từ. Khả năng bức xạ photon của cơ thể, cường độ cỡ 10-1000 photon/ giây/ m2. Tại thời điểm chết tăng đến 1000 lần. Trường điện từ khi đó mang một số thông tin về sinh hệ và lan truyền trong không gian, thời gian. Bức xạ ấy về nguyên tắc có thể tồn tại vĩnh hằng do chuyển động ánh sáng, có thể lưu giữ được trong cấu trúc nước và gọi là bức xạ tàn dư mà về sau có thể có sinh vật, người có khả năng đặc biệt đọc được thông tin chứa bức xạ tàn dư ấy...” (ĐKC, http://www.chungta.com/nd/nhan-vat-van-hoa/do_kien_cuong/default.aspx). Phải chăng đó là “một dạng tồn tại khác của ý thức con người” và có tính vật chất? Mất mà còn!. Phức tạp thật!
Theo Đỗ Kiên Cường, có bốn quan điểm về psi (Cận tâm lý là một lĩnh vực học thuật nghiên cứu một số hiện tượng bất thường liên quan với kinh nghiệm của con người, cũng thường được gọi là các hiện tượng tâm linh (psychic phenomena) hay psi)
Vì khoa học chưa thu thập được bằng chứng quyết định, cũng như chưa có lý thuyết thống nhất, nên hiện có bốn quan điểm đánh giá psi như sau:
Quan điểm 1: Không thừa nhận sự tồn tại của psi. Theo những người phản đối, psi không thể tồn tại vì trái ngược với nền tảng khoa học mà con người đã thiết lập được. Tờ Tuần tin tức (Mỹ) từng cho rằng, công nhận thần giao cách cảm hay viễn di sinh học là bác bỏ thành tựu của khoa học hiện đại trong suối 300 năm qua. Nhiều nhà vật lý ủng hộ quan điểm này, vì dường như psi trái ngược với các qui luật vật lý như bảo toàn năng lượng, dẫn truyền thông tin… Điểm mạnh của quan điểm này là dựa trên nền tảng khoa học hiện hành. Ưu điểm khác là cho đến nay, chưa ai đưa ra được một bằng chứng đủ tin cậy về psi. Điểm yếu của trào lưu này là kiên quyết bác bỏ một số hiện tượng có thể có thật.
Quan điểm 2: Gắn psi với tín ngưỡng và tôn giáo. Theo đó, psi là bằng chứng của linh hồn bất tử (như luân hồi hay khả năng đọc ý nghĩ người chết), ma quỉ (như ma nhập hay “ngôi nhà ma ám”), thánh thần (như kinh nghiệm cận kề cái chết, xuất hồn hay thoát xác). Không nên nghĩ đơn giản là quan điểm này góp phần khôi phục sự mê tín dị đoan, vì hiện nay nhiều nhà khoa học nổi danh lại có xu hướng thần học khi đối mặt với những câu hỏi về nguồn gốc hay ý nghĩa của vũ trụ. Vì thế nếu có người tin rằng Big Bang chính là hiện thân của đấng sáng tạo tối cao (đều là khởi thủy của vũ trụ) thì cũng không có gì lạ. Người viết cho rằng, quan điểm này không phải là đối tượng của khoa học. Đó là hai lĩnh vực khác nhau (dù có thể bổ sung cho nhau), vì tín ngưỡng dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ[4].
Quan điểm 3: Xem khoa học hiện hành không đủ khả năng giải thích psi. Trường phái này giả định psi nằm ngoài giới hạn của khoa học hiện hành. Vì thế để giải thích psi, nó dùng hai tiếp cận. Một là dùng các quan niệm cổ xưa (giải thích tiên tri bằng Kinh Dịch, tử vi hay chiêm tinh; giải thích “đọc ý nghĩ người chết” hay hậu tri bằng linh hồn, ma quỉ; giải thích phong thủy hay cảm xạ học bằng quan niệm thiên địa nhân hợp nhất, thiên nhân giao cảm…). Hai là phát triển các lý thuyết mới như trường sinh học, năng lượng và thông tin sinh học (từng xuất hiện tại nước ta, điển hình là nghiên cứu của cố GS Nguyễn Hoàng Phương), lý thuyết lượng tử của tương tác giữa vật chất và tinh thần (điển hình là học giả Roger Penrose tại Cambridge, Anh), lý thuyết các chiều không gian dư, lý thuyết các vũ trụ song song… Nhược điểm lớn nhất của trường phái này là tính tư biện và siêu hình, là sự thoát ly khỏi các nền tảng khoa học hiện đại, đặc biệt là các thành tựu của khoa học tâm trí. Chẳng hạn, họ xem thần giao cách cảm không tuân theo qui luật suy giảm theo khoảng cách của vật lý mà không biết rằng, các sóng điện từ tần số cực thấp (như sóng điện não) có thể lan truyền vòng quanh Trái đất nhờ cộng hưởng Schumann (HBT nhấn mạnh). Hoặc các luận giải về linh hồn, trường hào quang… cho thấy họ ít quan tâm tới những khám phá mới về bộ não và tâm trí, đặc biệt là vô thức, thành tố quan trọng nhất trong các hiện tượng psi.
Quan điểm 4: Giải thích một số yếu tố có thực của psi bằng khoa học hiện đại. Quan điểm này thừa nhận một phần sự tồn tại của psi và cố gắng giải thích bằng khoa học hiện hành. Chẳng hạn giải thích tương tác giữa các sinh thể với môi trường bằng các điện từ trường sinh học; giải thích khả năng bắt tín hiệu nhỏ yếu từ xa bằng ngưng tụ sinh học và hệ xử lý tiềm thức độ nhạy cao; giải thích một số yếu tố của xuất hồn, kinh nghiệm cận tử, luân hồi… bằng các hoạt động vô thức hay bằng các rối loạn tâm thần như nhân cách phân ly hay đa nhân cách; giải thích niềm tin vào tiên tri bằng nhu cầu qui hoạch tương lai của con người; giải thích các trào lưu mê tín mới bằng niềm tin vào sự huyền bí, vốn là nét nhân cách được hình thành và gìn giữ qua hàng triệu năm tiến hóa (HBT nhấn mạnh). Ưu điểm lớn nhất của khuynh hướng này là có thể giải thích psi một cách khoa học và biện chứng (HBT nhấn mạnh); là chỉ ra được giới hạn của psi nhằm chống lại sự lạm dụng; là sự tin tưởng vào các nguyên lý căn bản của triết học duy vật và khoa học hiện đại. Người viết là người kiên trì ủng hộ trào lưu tư tưởng này (ĐKC)[5].
4-Nguồn năng lượng của tâm thấu là điện năng; nguồn năng lượng của tâm lý là nhiệt năng; nguồn năng lượng của tâm linh là quang năng?
Các nhà ngoại cảm cũng “truyền” năng lượng cứu người nhưng nguồn năng lượng này như thế nào? Cơ chế tác động của nó ra sao? Có thực nó chữa được các bệnh hay không? Việc thu sai có khiến người ta “thêm” bệnh… vẫn là những câu hỏi cần tìm lời giải đáp.
Khoa học chưa thể chứng minh sự tồn tại “hạt của chúa” nhưng về lý thuyết đối với loại “năng lượng vô hình” đó có tồn tại trong thiên nhiên hay không không khó.
Kỹ sư nhà nghiên cứu vật lý Lê Văn Cường, Ủy viên Hội đồng khoa học Trung tâm Tâm năng dưỡng sinh – Phục hồi sức khoẻ (TNDS – PHSK) cho biết, hiện có hàng chục vạn học viên TNDS – PHSK “luyện thân bất động, tịnh tâm vô thức” để hút năng lượng ngoài không gian vũ trụ bù đắp phần năng lượng bị tiêu hao, thiếu hụt trong cơ thể khiến con người có đủ năng lượng, cân bằng trở lại, sức khoẻ được hồi phục. Thực tế, chưa chứng minh được sự tồn tại của cái “năng lượng vô hình” đang có trong không gian vũ trụ cũng như trong cơ thể sống của mỗi con người?
Thực ra, để chứng minh về lý thuyết đối với loại “năng lượng vô hình” đó có tồn tại trong thiên nhiên hay không không khó, nhưng cái khó là được kiểm nghiệm thực tế và chứng minh trên máy móc. Đây là cái khó chung của nền khoa học thế giới, của cả nhân loại hiện nay. Thực tế, các nhà khoa học hàng đầu thế giới đã và đang ra sức kiểm nghiệm chứng minh trên thực tế bằng phương tiện hiện đại về sự tồn tại cái “hạt của chúa” – hạt mang khối lượng siêu nhỏ giống như hạt “Sátna” theo tư tưởng Phật học – tương tự như “năng lượng vô hình”. Tuy nhiên, theo kỹ sư Lê Văn Cường, nếu chỉ tính về mặt lý thuyết thì sự tồn tại của dạng “năng lượng vô hình” trong không gian có rất nhiều phương pháp chứng minh. Lý thuyết về “chân không lượng tử”, các nhà khoa học cho rằng tại mỗi điểm bất kỳ trong không gian vũ trụ luôn luôn có sự thăng giáng lượng tử, nghĩa là luôn luôn có sự xuất hiện hoặc biến mất của các lượng tử, những hạt “năng lượng” siêu vi mô. Hoặc như lý thuyết Dây (the String theory), những người ủng hộ lý thuyết này cùng chung một ý kiến rằng “chân không”, hay không gian vũ trụ là một “trường năng lượng” rất phức tạp và bí hiểm. Trong một điều kiện thích hợp thì “năng lượng vật chất” trong “chân không” sẽ đột nhiên xuất hiện, bung ra, ví như bộ dây của chiếc đàn, chưa ai động đến thì im lặng, nhưng khẽ chạm vào dây đàn, dây đàn rung động tạo thành sóng âm cộng hưởng phát ra âm thanh. Để chứng minh có sự tồn tại của trường năng lượng trong không gian vũ trụ hiện tại mắt không thấy, tay không sờ được cũng như chẳng có máy móc nào đo được, thuyết tương đối của Einstein cho rằng, không gian và thời gian trong vũ trụ chỉ mang tính tương đối, ví dụ như không gian xung quanh một hệ chuyển động cực nhanh, nó sẽ bị co lại. Liệu chúng ra đã bao giờ đặt ra câu hỏi thắc mắc nếu không gian là một khoảng không trống rỗng không chứa bất cứ cái gì mà lại co hay dãn là điều phi logic không hợp lý? Không gian bị co hay dãn thì không thể là một khoảng không trống rỗng chẳng chứa bất cứ cái gì, có tư duy logic như thế thì chúng ta sẽ gây lập tức hiểu ra rằng, không gian vũ trụ đang chứa “năng lượng vô hình” và trường năng lượng vô hình này có mật độ đậm đặc khác nhau thể hiện tính co hay dãn của “không gian”. Điều đó đã chỉ ra rằng chính chúng ta hiện đang sống trong trường năng lượng vô hình ngoài sức tưởng tượng của con người ví như cá sống trong mô trường “năng lượng nước”.
Khí do thủy – thổ – hỏa - phong tạo thành. BS.VS Nguyễn Văn Thắng, nguyên Trưởng khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Thanh Nhàn cho rằng, năng lượng sinh học (NLSH) thực chất là chất lượng sống trong mỗi cơ thể sống động vật, sinh vật hay thực vật. NLSH còn được gọi là khí và khí này duy trì sự sống của muôn vật. Nó như phủ kín muôn vật và thấm trong muôn chất. Trong môi trường nó gồm thổ khí, thủy khí, hỏa khí và phong (khí trong chân không) chúng tương tác với nhau tạo thành 4 loại năng lượng chính là điện – cơ – quang – nhiệt. Dựa theo năng lượng tự nhiên này con người đã chế tác thành nguồn năng lượng phục vụ cho cuộc sống của mình. NLSH này tương tác và hợp chất bởi 2 loại sóng, là sóng dao động và sóng giao cảm. Sóng dao động để hình thành vật chất; còn sóng giao cảm là để kết nối vật chất thành sự sống riêng và hợp nhất với muôn loài. Sóng dao động được hợp nhất bởi tam lực, tam hướng (gồm trung tâm là hỏa khí; ly tâm là thổ khí và hướng tâm là thủy khí – còn khí trong chân không tạo lên sự rung động của các loại làn sóng tương tác bởi 3 loại năng lượng trên. Cho nên NLSH có sóng vô hình và sóng trong hữu hình, còn sóng giao cảm là sóng kết nối các cơ thể sống với nhau qua hệ thống màng; làm cho các cơ thể sống nhận được và tự điều chỉnh với nguồn năng lượng tự nhiên. Ví dụ như một lá gan của cơ thể con người thì mỗi tế bào gan là một đơn vị sống do sóng dao động tạo lên, còn sóng giao cảm thì hợp nhất các tế bào gan thành lá gan qua hệ thống màng, như màng nhân và màng tế bào. Các tạng như tim, tỳ, phế, thận cũng được hình thành và kết nối theo tính chất trên. Và cũng tương tự, sự hợp nhất của lục phủ ngũ tạng cũng theo cơ chế trên để tạo nên cơ thể sống. NLSH tức là khí khi hoạt động trong cơ thể theo 3 hệ thống là dinh khí, ngũ khí (tạng khí) và vệ khí (khí cơ). Dinh khí là khí trong hệ thống kinh lạc (gồm thập nhị kinh và bát mạch kỳ kinh) ngoài 2 kinh chính này còn có rất nhiều hệ thống kinh mạch kết nối với nhau qua hệ thống huyệt đạo, từ 7 đại huyệt còn gọi là 7 luân xa. Khí khi chảy qua các tạng thì gọi là tạng khí hay ngũ khí; gồm có gan khí, tim khí, tỳ khí, phế khí và thận khí. Vệ khí hay còn gọi là khí cơ; khí này chảy ngoài kinh lạc để bảo vệ ngũ tạng, duy trì hoạt đọng cơ năng và chống tà khí xâm nhập cơ thể. Theo BS.VS Nguyễn Văn Thắng, NLSH môi trường sẽ tạo lên điện năng, cơ năng, quang năng và nhiệt năng để duy trì mọi hoạt động trong tự nhiên. Còn trong cơ thể con người tạo lên tâm – thần – giác – ý. BS.VS Nguyễn Văn Thắng phân tích: Điện năng tạo lên thần thức chính là mạch điện trong cơ thể nối với mạch điện ngoài cơ thể mà ngũ giác là đầu mối trung gian để thông qua những tần số giao cảm. Tại ngũ giác luôn chứa đựng hỏa khí tác động với thủy khí thoát ra từ cơ thể vào nội môi và ngoại môi tạo thành nguồn điện sinh học cung cấp cho hệ thần kinh. Thủy hỏa ấy có được là nhờ hai vòng luân hồi đạo thông qua cơ thể, mà dung lượng của nó phụ thuộc và quá trình xả thu. Quang năng tạo lên ý thức tức là mọi ý thức đều được xây dựng bằng hình ảnh, mọi hình ảnh đều phải dựa vào quang. Mọi thứ quang đều do hỏa khí tỏa trong chân không mà thành (hỏa khí trong hư không tạo ra nhật quang vẽ lên thực cảnh). Hỏa khí trong cơ thể với chân không trong cơ thể sinh ra cảm cảnh mà thành ý thức. Cơ năng tạo lên giác thức: Cơ năng của cơ thể con người hợp với cơ năng của trời đất. Nguồn cơ năng trong cơ thể là do hỏa khí hợp vơi khí của thiên nhiên mà có. Cũng như cơ năng của trời đất nhờ có hỏa khí trong thiên nhiên hợp với khí mà thành. Do mỗi chức năng của cơ thể có một năng lượng hỏa riêng mà cơ năng của chúng khác nhau – cho lên tần số dao động cũng khác nhau.
Nhiệt năng tạo lên tâm thức: Nguồn năng lượng của tâm là nhiệt. Nhiệt do hỏa khí trong cơ thể hợp với thể khí trong cơ thể mà thành.Vậy nguồn năng lượng của tâm thấu là điện năng; nguồn năng lượng của tâm lý là nhiệt năng; nguồn năng lượng của tâm linh là quang năng (HBT nhấn mạnh).
“Vạn vật đều có nguồn năng lượng do thủy – thổ – hỏa – phong tạo thành. Trong trời đất là điện – cơ – quang – nhiệt. Trong cơ thể con người nguồn năng lượng này đã biến thành tâm thấu giác ý. Đây là nguồn năng lượng vi tế tồn tại trong trời đất; nó phủ kín tất cả và thấm trong tất cả. Chúng ta chỉ thấy thủy – thổ – hỏa – phong mà không thấy được chúng dưới dạng khí (tức là năng lượng). Đó là Thủy khí – Thổ khí – Hỏa khí và khí trong chân không”.(Theo Kiến Thức)[6]
Như vậy để hiểu, theo tôi, để hiểu ý thức và tâm linh không chỉ chúng minh bằng cấu trúc - chức năng trong sự tiến hóa của các dạng vật chất mà đỉnh cao nhất là não bộ người, mà còn cả bằng năng lực phản ánh - năng lượng - thông tin trong sự tương tác nhân quả hay giao thoa tích hợp, hợp trội giữa chúng.
5- Quan niệm/ giải thích chủ yếu của tôi, như đã trình bày (Nhận thức lại bản chất ý thức và tâm linh):
- Tôi chưa bao giờ: ”muốn cổ vũ cho sinh lực luận…, muốn tin linh hồn có thật dựa trên các hiện tượng đầu thai hoặc luân hồi” (như quan niệm Ky - tô - giáo và dân gian).
- Các qui luật khách quan điều khiển vũ trụ vật chất[7]. Và thế giới vừa có trật tự và phi trật tự (hỗn độn). thế giới, sự vật, hiện tưởng như có bàn tay vô hình chung điều khiển, bộ óc siêu nhân chỉ huy. “Chúa Trời”, “Đáng Tạo hóa” chăng? Hay trí tuệ vũ trụ? Khi nghiên cứu thế giới lượng tử, gen di truyền, các dạng thông tin, mà thông tin thường gắn với năng lượng, thông tin là đặc tính hay cũng là một dạng vật chất vô hình, nhờ nó “vũ trụ”(Tạo hóa) được điều khiển, tức như có “trí tuệ vũ trụ “vậy, nhất là thế giới sự sống. Thực ra trí tuệ (duy lý, lý trí) chỉ gắn với bộ óc con người mà thôi. Nhưng ở con người còn có vô thức, ý thức khác, ở không gian khác, mà sau thời hậu Ánh sáng của Lý trí, thì càng hiểu rõ hơn thế giới vô thức (vô thức vật lý, vô thức sinh học, vô thức tinh thần của cá nhân, cộng đồng…, tức tâm linh nói chung), và “siêu thức” (năng lực siêu phản ánh thông tin…) thì càng thấy ý niệm “trí tuệ vũ trụ” còn là theo nghĩa ấy nữa.
- Tôi đồng ý rằng: Cái thế giới gọi là thế giới tâm linh không phải là thế giới của ma quỷ thần linh, thế giới đó chỉ là bộ phận của thế giới vật chất mà chúng ta đang sống, nói đúng hơn nó chỉ là hiện tượng vật chất phát ra từ vật chất sống. Tổng quát mà nói mọi thế giới đều là một thế giới, chỉ có một thế giới vật chất mà chúng ta đang sống. Các hiện tượng bí ẩn không phải là hiện tượng ma quỷ, thần linh mà chỉ là hiện tượng vật chất. Kết luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn giữ nguyên giá trị: Không có lực lượng siêu nhiên nào tác động ảnh hưởng hay quyết định đến thế giới của chúng ta. Thế giới tâm linh chỉ là một hiện tượng vật chất do những vật thể có sự sống phát ra.”
Cần nói thêm là nhờ hiểu biết khoa học và triết học nhất định, và luôn luôn tìm hiểu mà tôi từ lâu vẫn không tin có ma quỷ. -“Linh hồn” thực ra còn là sự “nhân cách hóa” trong ký ức ở chiều sâu của não người mang tính vô thức sống động (kể cả khi não thu được năng lượng - thông tin từ người đã chết), như biểu hiện của những giấc mơ, chẳng hạn mà phần nào ta đã rõ. Còn năng lượng - thông tin “tàn dư” của người đã chết thì tự nó không có sự nhân cách hóa đó, nếu không qua óc người sống, nên không có linh hồn, như cơ thể sống, có buôn vui, suy nghĩ, phán đoán bất tử, ngoài cơ thể con người người. Không thể cho rằng vong, linh hồn là “một vật” , hay “một vật sống”, tức có tính hữu hình (và còn suy nghĩ, cảm giác sai khiến, mách bảo), như có người lý giải. Chỉ có người sống mới “đọc” được thông tin của “linh hồn” chứ không phải ngược lại?
- Không có sự hồn nhập toàn bộ, như quan niệm nhập hồn vong, mà chỉ trên những dòng thông tin nhất định và khi bị kích hoạt nó mới thể hiện ra như thế nào đó, hoạt động (hiện tượng thần đồng, nói được ngoại ngữ mà không cần học, rèn luyện). Linh hiồn, ý thức, trí tuệ, cảm xúc trẻ thê lớn lên theo thời gian qua giao tiếp học tập, rèn luyện trong môi trường văn hóa mà có… không phải có sẵn hay nhờ đầu thai mà có. Còn xét về mặt gen di truyền (sinh học) thì “đầu thai” chinh là di truyền gen, lặn/ trội qua các thế hệ mà sinh ra thế hệ mới (đã sai lệch ít nhiều). Linh hồn hay trường ký ức, do vậy, cũng sẽ mất mát theo thời gian và sai lệch đi ít nhiều, nên không có sự lặp lại nguyên vẹn hay tuyệt đối ở cơ thể hay linh hồn sau.
…
Chính ĐKC cũng đã thấy, dù là giả thuyết (xin nhấn mạnh lại): và cho rằng, “cho rằng cần giải thích dựa trên… quan điểm vật lý hiện đại về bản chất của sự sống. Theo đó trong cơ thể có 2 kênh truyền tin có bản chất điện từ: kênh hữu tuyến qua xung thần kinh và các dòng điện sinh học; kênh vô tuyến nhờ sóng điện từ. Khả năng bức xạ photon của cơ thể, cường độ cỡ 10-1000 photon/ giây/ m2. Tại thời điểm chết tăng đến 1000 lần. Trường điện từ khi đó mang một số thông tin về sinh hệ và lan truyền trong không gian, thời gian. Bức xạ ấy về nguyên tắc có thể tồn tại vĩnh hằng do chuyển động ánh sáng, có thể lưu giữ được trong cấu trúc nước và gọi là bức xạ tàn dư mà về sau có thể có sinh vật, người có khả năng đặc biệt đọc được thông tin chứa bức xạ tàn dư ấy...” (HBT nhấn mạnh) (ĐKChttp://www.chungta.com/nd/nhan-vat-van-hoa/do_kien_cuong/default.aspx). Như vậy, sau khi chết không phải không còn gì mà vẫn còn bức xạ tàn dư mà thông tin sinh hệ…
- Không có linh hồn như sau đây:”Linh Hồn có sự hoạt động của nó; khi cơ thể của chúng ta nghỉ ngơi, thì linh hồn không có nghỉ ngơi, nó bay đi khắp nơi mà không cần sự giúp đỡ của thể xác, nhưng những sự kiện du hành này không được đại não của con người ghi nhận và lưu giữ một cách rõ ràng, nên nhiều khi con người đi đến một nơi nào đó, thì cảm thấy, hình như nơi này mình đã có đến qua rồi vậy(http://nangluongcuocsong.com.vn/ReadMessage.php?news=362&boy=15&it8x=27&title=Su-ton-tai-cua-Linh-Hon.html#.U5jU7XY0-zo”. Thực ra, là có thể vô thức nắm bắt được (nhiễm, nhập) các thông tin trong vũ trụ, nên nó có thông tin mà không qua con đường lý trí, học tập mà có.
- Ý thức hay vô thức, tâm linh cũng chỉ là hiện tượng của thế giới vật chất duy nhất, xét đến cùng, có bản chất vật chất. Ngày nay, việc nghiên cứu tâm linh – trường sống đang làm rõ hơn vấn đề này. Triết học Mác ngày nay, cơ bản vẫn đúng, nhưng không thể đứng ngoài cuộc, để khắc phục, vượt qua những nhận thức/ những giai thích có thể có mặt không còn đủ, đúng nữa, nếu không sẽ trở nên giản đơn, lạc hậu, giáo điều…
Có lẽ phải tích hợp biện chứng cả hai cách nhìn cấu trúc - chức năng luận và năng lượng - thông tin luận, lượng tử luận, cách nhìn từ khoa học hiện đại và từ đạo học - đạo Phật, duy lý và ngoài duy lý mới tiếp vận đúng thực tại “linh hồn”, tâm linh là gì? thực tế/ thực chất nó là gì,có hay không có ra sao, chứ không phải như dân gian và các nhà duy linh luận khẳng định và tuyệt đối hóa nó, siêu nhiên hóa nó. Đó là cach nhìn thứ ba của chúng tôi.
Như thế để thấy cách nhìn.giải thích đa chiều về “linh hồn”, “tâm linh”.
Chúng tôi cho rằng, cách tiếp cận, nhất là của Thích thông Lạc, của Đỗ Kiên Cường, của nhiều nhà khoa học ngày nay và cách tiêp cận của tôi, dẫu còn ý kiến, mức độ khác nhau, nhưng có thể các cách tiếp cận nói trên đó chính là những cách góp phần vào xây dựng quan niệm khoa học tâm linh và duy vật hiện đại về tâm linh hay còn gọi là “chủ nghĩa duy vật tâm linh” để giải thích các hiện tượng tâm linh.
“Chủ nghĩa duy vật tâm linh” tại sao không?
.....................................................................
[1]Trưởng lão A la hán Thích Thông Lạc, Giải thích về các nhà ngoại cảm Phan Bích Hằng và Nguyễn Văn Nhã. Xem Đường về xứ Phật, Chungta. com, 09:13' PM - Thứ tư, 08/04/2009.
[2]Riêng nghiên cứu của TS.Đổ Kiên Cường chưa nêu ở đây.
[4]Quan niệm về “khoa học tâm linh” liệu có chính xác không?
[5]http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/cac-hien-tuong-di-thuong-la-gi/default.aspx
[7]Tất nhiên là rrong đa vũ trị cụ thể (HBT)