Tuy nhiên, có vấn để cũng cần trao đổi lại cho rõ. Một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất, đó là vấn đề có hay không có “Chủ nghĩa duy vật tâm linh”(CNDVTL). Đỗ Kiên Cường bảo không, tôi bảo có, xin mạnh dạn trao đổi trước, “múa rìu qua mặt thợ” vậy, những suy nghĩ mạo muội bước đầu!
1- “Chủ nghĩa duy vật tâm linh” tập trung nghiên cứu cấp độ (chiều dọc) vũ trụ - nhân sinh thì có ba vấn đề sau đây:i) Tâm vũ trụ - từ khái niệm của đạo Phật; ii) tâm của con người, ý thức chiều sâu; iii) cõi thiêng. Tâm linh theo nghĩa rộng là cả ba cấp độ ấy, còn theo nghĩa hẹp là cấp độ ba.
Còn nghiên cứu cấp độ khác (chiều ngang): thì i) nghĩa rộng của tâm linh là toàn bộ đời sống tinh thần, nhưng ở chiều sâu sự tâm diệu, linh diệu, cao cả của nó; ii) chiều trung/ vừa là cấp độ linh diệu và thiêng hóa đời sống tinh thần; iii) hẹp nhất là nghiên cứu vấn đề sau cái chết, nhưng không chỉ vấn đề linh hồn mà cả tín ngưỡng thờ phụng.
Do vậy, không nên coi tâm linh hoàn toàn thuộc phạm trù duy tâm (tức thừa nhận có lính hồn vĩnh cửu, có thượng đế), một các suy nghĩ chật hẹp và không có lối thoát. Bởi vì ít ra “tâm linh được dùng theo nghĩa các hiện tượng dị thường” và “tâm linh cũng được dùng theo nghĩa tín ngưỡng” (Đỗ Kiên Cường)[1].Theo chúng tôi, tâm linh còn theo nghĩa rộng còn có cội nguồn từ tâm vũ trụ, như nói ở trên. Trong khi đó có nhiều người đã nêu giả thuyết và đang chứng minh về “khoa học tâm linh” (theo nghĩa nghiên cứu một cách khoa học về tâm linh và dựa trên khoa học hiện đại).
Với ý nghĩa đó, “chủ nghĩa duy vật tâm linh” là nghiên cứu ở cấp độ triết lý, bản chất chung nhất, linh diệu của chiều sâu tâm vũ trụ và tâm con người, cõi thiêng liêng của đời sống ý thức tinh thần của họ trong đời sống xã hội loài người. Đâu phải vì hòn đá không có ý thức, không có linh hồn nên không có tâm linh và không có chủ nghĩa duy vật tâm linh!? (chủ nghĩa duy vật tâm linh, thì chữ “tâm linh” ở dây không phải là tính chất mà là đối tượng, lĩnh vực nghiên cứu). Phải chăng không có vấn đề tâm linh!?
“Chủ nghĩa duy vật tâm linh”, đó là tiếp cận duy vật hiện đại về các hiện tượng tâm diệu và tâm linh (từ linh diệu mà ra trong ý thức con người) dựa trên khoa học hiện đại cũng như những hạt nhân hợp lý trong đạo học, nhất là đạo Phật. Tức luận giải ấy về các hiện tượng linh diệu, linh thiêng của vũ trụ và con người là mang tính khoa học, duy vật biện chứng, nhân bản. Cố nhiên, đó là công việc của nhiều nhà khoa học, đạo học và triết học, bằng các phương pháp thực nghiệm, trực giác và luận lý.
“Chủ nghĩa duy vật tâm linh” như vậy là khác, nhưng không đối kháng với tôn giáo, tín ngưỡng, hữu thần, hiện tượng ngoại cảm, dị thường mà có năng lực đối thoại với nó, mang tính tích cực, tích hợp, bao dung, vừa khoa học vừa nhân văn. Đồng thời, tôi nhất trí rằng, “về mặt tư tưởng, nên đề cao chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Về mặt khoa học, nên đẩy mạnh tư duy phê phán và nghi ngờ” (Đỗ Kiên Cường), phê phán các biểu hiện duy tâm, mê tín, tin tưởng, sùng bái, bị mê hoặc hiện tượng “áp vọng’, “gọi hồn”, nói chuyện với “cõi âm”, “tìm mộ bằng ngoại cảm”, mang tính ngộ nhận, thậm chí “ngụy tạo khoa học”.
“Chủ nghĩa duy vật tâm linh” như vậy, không phải là sự đối lập giữa “duy vật” với “tâm linh” như “nước với lửa” như Đỗ Kiên Cường quan niệm và phản đối (“Không có cái gọi là Chủ nghĩa duy vật tâm linh”). Nghiên cứu các hiện tượng tâm linh theo tinh thần khoa học, Phật học và triết học duy vật biện chứng - lịch sử, mang tính gợi mở như vậy, vừa bác bỏ cái gì la sai, không thật và thừa nhận cái là hợp lý, hợp tình chính là tinh thần của “Chủ nghĩa duy vật tâm linh”. “Chủ nghĩa duy vật tâm linh” đã kết nối được tư tưởng triết lý Phật giáo và khoa học hiện đại về chiều sâu tâm thể vũ trụ và tâm con người trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật thực tiễn- lịch sử của C.Mác!
Cho nên, chúng tôi nghĩ rằng, đây là một hướng nghiên cứu, và chiêm nghiệm, dù cực kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài nhưng vẫn có triển vọng, ngay cả khi khoa học ngày càng phát triền, nhiều bí ẩn vũ trụ và con người được phát hiện, từ đó hình thức sinh hoạt tôn giáo và tín ngưỡng (dự báo) có thu hẹp như thế nào đó, thì cõi linh diệu và cõi thiêng nói chung vẫn tồn tại, nó chỉ thay đổi hình thức của nó khi tâm vũ trụ là vô tận và tâm con người là vô tận…
Khoa học, và tôn giáo, tín ngưỡng, cõi đời và cõi thiêng, do vậy cùng đồng hành, cạnh tranh và bổ sung cho nhau chứ không loại trừ nhau như kẻ thù một mất một còn mà một thời vấp phải.
Đời sống con người mà thiếu vắng cõi linh diệu và cõi thiêng thì nghèo nàn đi nhiều lắm và cũng kém nhân văn lắm, dù rằng cần phải tránh hiện tượng sùng bái trực giác tâm linh, rơi vào mê tín dị đoan, sùng bái cõi thiêng, lợi dụng nó vào mục đích vụ lợi, xấu xa. Đồng thời, cũng tránh sùng bái khoa học, sùng bái thực nghiệm, sùng bái lý tính, sùng bái duy vật. Sùng bái niềm tin khoa học hay sùng bái niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng củng là sai lầm. Mọi sự sùng bái đều xa rời chân lý và nhân văn. Cần có tư duy biện chứng phức hợp/trung đạo!
2- Ở Phương Tây, nhất là xưa kia khuynh hướng triết học nghiêng nhiều về nghiên cứu tự nhiên và đã hình thành nên triết học tự nhiên. Trong thời cận - hiện đại, và hiện đại, cả hậu hiện đại bắt đầu nghiên cứu nhiều hơn về lĩnh vực xã hội, nhân văn, hình triết học về xã hội, triết học hiện snh, triết học đời sống... bên cạnh triết học khoa học (chủ nghĩa duy vật khoa học). Trong tôn giáo và ngoài tôn giáo cũng nghiên cứu về tâm vũ trụ, về hiện tượng dị thường, về Thượng đế, về linh hồn, về cõi thiêng, về tín ngưỡng… cõi thiêng nói chung. Triết học Phật giáo ra đời từ nghiên cứu tâm vũ trụ/ bản thể vũ trụ, bể khổ con người và sự giải thoát. Ngày nay có chuyên ngành triết học tôn giáo. Nhưng chuyên ngành triết học này không bao quát được các vấn dề tâm linh.
Riêng lĩnh vực sinh học, vật lý… cũng có nghiên cứu triết học bề những linh vực đó. Chúng ta còn nhớ, trong tư tưởng vật lý đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện “chủ nghĩa duy tâm vật lý” (trong trường hợp này không thấy ai la lên rằng duy tâm và vật lý là khác nhau, đối lập như “nước với lửa” cả!) khi tuyên bố nguyên tử biến mất và vật chất cũng biến mất và chủ nghĩa duy vật sụp đổ! Thực ra thì các thành tựu khoa học vật lý đã làm cơ sở cho chủ nghĩa duy vật vật lý.
Ta cũng biết chính VI.Lênin đã cho rằng chủ nghĩa duy tâm biện chứng, “chủ nghĩa duy tâm thông minh” của Hêghen gần chủ nghĩa duy vật (hiện đại) hơn chủ nghĩa duy vật tầm thường, siêu hình (phản biện chứng). Vấn đề của tư duy biện chứng không phải là chỉ ra đối lập, đối kháng hay đồng nhất mà là thấy được tính vừa đối lập vừa thống nhất của chúng - các mặt đối lập. Nhưng thói quen chỉ thấy đối lập đã ăn sâu vào não trạng siêu hinh, thiếu biện chứng của không ít người, kể cả một số nhà khoa học. thông thái…
Chẳng hạn, họ không thấy giữa vật chất và ý thức không chỉ đối lập mà còn đồng nhất, thống nhất với nhau. Và cũng từ đó họ chỉ thấy ý thức “không có tính vật chất” (so với cái nó phản ánh) mà không thấy trong hình thức tồn tại và hoạt động của nó là có tính vật chất, (mặc dù khi phản ánh nó cũng có tính vật chất, chính C.Mác cũng thấy điều này – “Ý thức chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào óc người và cải biến trong đó”; hay ý thức là cái vật chất, cái tồn tại “tự ý thức về bản thân mình” trong quá trình từ “tồn tại thuần túy” đến “tồn tại hiện hữu”). Ý thức như vậy là cái khác nhưng là cái khác của chính nó.
Theo Đỗ Kiên Cường, “Lenin đưa ra một định nghĩa chuẩn mực về vật chất như một phạm trù triết học. Theo đó, vật chất là tồn tại khách quan, đối lập và được phản ánh trong ý thức. Định nghĩa ngắn gọn đó gồm ba chân lý: 1) vật chất là tồn tại khách quan; 2) vật chất đối lập với ý thức, cũng có nghĩa ý thức không thể là vật chất; và 3) vật chất có thể nhận thức được (nhờ ý thức như một thuộc tính của vật chất phát triển cao).
Chính Đỗ Kiên Cường đã quên một vế (ĐKC đã hiểu không đầy đủ). nên có điểm sai lệch (“vật chất đối lập với ý thức, cũng có nghĩa ý thức không thể là vật chất”) khi giải thích định nghĩa “vật chất” của Lênin, nên không thấy ràng, giữa vật chất và ý thức không chỉ đối lập/ khác nhau mà còn thống nhất, đồng nhất với nhau. Hình như người ta chỉ nhấn mạnh sự đối lập, khác nhau là duy nhất (“vật chất đối lập với ý thức, cũng có nghĩa ý thức không thể là vật chất” - ĐKC) mà quên sự thống nhất, đồng nhất tương đối giữa vật chất và ý thức. Hoặc như có người giải thích, nhưng chỉ nêu thoáng qua là thống nhất về nội dung sự vật bên ngoài và hình ảnh chủ quan mà lại lờ đi hay sợ nói lên thực tế rằng. ý thức (hình ảnh) tồn tại dưới dạng năng lượng - thông tin đặc biệt trong não bộ (dù hữu thức, tiền thức, vô thức). Ý thức vì vậy, dù thông qua sự phản ánh hịện thực bên ngoài và là sản phẩm của não bộ, đều có sự liên hệ (đồng nhất tương đối) trên nền tảng năng lượng - thông tin vũ trụ. Đó là góc nhìn bản thể luận về ý thức và vật chất. Phải chăng vì vậy mà có người cho rằng, “Tinh thần – ý thức con người là vật chất dưới dạng “ánh sáng sinh học”? Đây là hướng lý giải mới về nhận thức lại bản chất phía khác của ý thức, chứ không phải không biết và “sai lầm về triết học” (sai đúng sẽ hạ hồi phân giải, không nên vội vàng phủ nhận ngay kiểu giáo sư nói với học trò).
Trong Đại bách khoa Xôviết, có viết: "Trong triết học, với việc giải thích duy vật vấn đề cơ bản của triết học, ý thức được xem như là một thuộc tính của vật chất có tổ chức cao, nó bao hàm sự phản ánh có tính chất tâm lý đối với hiện thực cả với tư cách là tồn tại được nhận thức, hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cả với tư cách là cái tinh thần trong sự đối lập với cái vật chất và trong sự thống nhất với cái vật chất.(Xem Đại Bách khoa xô viết, Nxb Bách khoa xô viết, tập 24, quyển 1,, 1976, tr. 129).
Ngay cả, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, có khi họ cũng chỉ thấy đối lập, loại trừ không thấy có cái gì chung, có thể kế thừa. Họ thiếu tư duy bổ sung với lập trường duy vật cứng như đá!!!. Thường thì người ta chỉ có thói quen chỉ thấy đối lập mà thôi, thậm chí khác mình là chống mình, là thù địch và chỉ có chụp mũ và phang, như một thời!!!
Chủ nghĩa Mác –Lênin và nhiều triết học khác cũng đã lý giải nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội, nhưng lý giải sâu có hệ thống về hiện tượng tâm linh và có ý thức xây dựng thành một triết học riêng, thì chưa. Ngày nay khoa học, cũng quan tâm nghiên cứu, lý giải nhiều hơn đến các hiện tượng tâm diệu, linh diệu và linh thiêng, và chúng ta cũng biết chiều sâu thâm thúy trong triết lý của đạo Phật về Tâm vũ trụ, tâm thức, linh thức, sắc sắc/ không không… đã cho ta cơ sở hình dung ít ra là giả thuyết về về “Chủ nghĩa duy vật tâm linh”! Đó cũng là loại triết học tích hợp, hay ít ra cũng là trường hợp “mở rộng chủ nghĩa duy vật biện chứng” sang lĩnh vực diệu tâm, diệu linh, tâm linh! Làm được điều này cần có sự nghiên cứu hợp tác liên ngành của ngành đạo học (Phật học), khoa học với nhà khoa học, nhà văn hóa và nhà triết học là việc làm hữu ích, có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và thực tiễn.
Điều đó là cần thiết khi hiện nay ở Việt Nam các hiện tượng “tâm linh”, “ngoại cảm” (?) đang nở rộ và sự lúng túng trong việc lý giải nó, đâu thực đâu hư đâu giả đâu thật? Có người thì cả tin sái cổ, có người thí bác bỏ, thậm chí có người muốn loại trừ nó! Muốn có thái độ đúng, nhân bản thì các nhà triết học cũng phải nghiên cứu nó có hệ thống, căn bản, lâu dài, không thể “kính nhi viễn chi”.
3- Cuối thế kỷ 20 cũng đã xuất hiện chủ nghĩa duy vật sinh thái (nghiên cứu sinh thái, bảo vệ sinh thái theo quan điểm duy vật hiện đại). Chủ nghĩa duy vật sinh thái cũng rất có ý nghĩa đối với thế ký 21. Vậy thế kỷ 21 này chủ nghĩa duy tâm hay chủ nghĩa duy vật ở lĩnh vực nào là chính? Nó có là vấn đề đấu tranh về thế giới quan của thế kỷ này không? Chúng tôi nghĩ rằng, có thể là lĩnh vực tâm linh! Chủ nghĩa duy vật nhân văn và chủ nghĩa duy vật tâm lnh rất cần xây dựng và phát triển.
Đâu là những vấn đề quan trọng cần nghiên cứu sâu, luận giải rõ ràng của “Chủ nghĩa duy vật tâm linh”? Theo tôi, có thể tạm phác thảo các nội dung lớn sau đây:
(1)- Triết lý Phật giáo, triết học Mác dưới ánh sáng khoa học hiện đại[2].
(2)- Khái niệm tâm linh, các góc độ, cấp độ. Lịch sử vấn đề.
(3)-Vấn đề tâm vũ trụ, sắc sắc/ không không? Nguyên lý sáng tạo, “trí tuệ vũ trụ”(?), Thượng đế?
(4)- Ý thức ở chiều sâu, phản ánh, thông tin, vô thức, trực giác, siêu thức, tưởng thức?
(5) - Vấn đề “linh hồn”, “đầu thai”, “luân hồi”?, thần đồng…
(6)- Vấn đề tiên tri, hậu tri, thần giao cách cảm (đọc suy nghĩ người khác); thấu thị hoặc thấu thính; nhận thức “đa giác quan”….
(7)- Vấn đề dùng sức mạnh tâm trí, sức mạnh năng lượng- thông tin điều khiển vi tính,… hoặc bẻ cong/ di chuyển các vật thể vật lý…
(8) - Vấn đề tâm lý hướng về cõi thiêng, cội nguồn, vấn đề tín ngưỡng, đời sống tâm linh.
(9)- Vấn đề “con người tâm linh” và phát triển con người![3]
(10)- Vấn đề phê phán tư tưởng duy tâm, mê tín, lợi dụng “ngoại cảm” , “tâm linh” để làm việc xấu…; và xây dựng quan niệm duy vật, biện chưng, nhân văn về vấn đề phức tạp, khó khăn nhưng cũng rất có ý nghĩa này!
Tất nhiên, vấn đề tâm linh và triết học tâm linh cũng có thể đã và sẽ nảy sinh trường phái. Cần chấp nhận điều đó.
Ở Việt Nam đã có một số ít nhà nghiên cứu về hiện tượng di thường, hiện tượng tâm linh hệ thống, có công trình, dù có thể còn phải tranh luận thẳng thắn, và cũng rất cần tôn trọng, học hỏi lẫn nhau, tất nhiên rồi, nhưng việc làm nói trên rất đáng hoan nghênh!
Nhưng các nhà triết học tham gia nghiên cứu này còn quá ít.
Phải chăng với “chủ nghĩa duy vật tâm linh” là một sự gợi ý, một ý tưởng hay một “sự khiêu khích” hơn là một kết luận!
................................................................................................................
[2]Xem Hồ Bá Thâm, Chủ nghĩa Mác- Lênin, phương pháp luận phê phán và phát triển huện nay, Nxb Chính trị quốc gia, 2013, 572 trang (Đây là tác phẩm được HĐLLTW đánh giá cao: có nhiều điểm mới, sắc sảo, nhạy bén trong đấu tranh tư tưởng và phát triển lý luận, nhất là về phương pháp luận, công trình có giá trị cao về khoa học, lý luận và thực tiễn), trang. 221- 278; 301-427.
[3]Xem Hồ Bá Thâm, Phương pháp luận duy vật nhân văn, nhận biết và ứng dụng, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2005, 300 trang..