Những góc nhìn Văn hoá

Luận giải (tiếp theo) về hiện tượng "tâm linh", theo duy vật hiện đại [Thông tin và bình luận]

1-Tâm vũ trụ -“Trí tuệ vũ trụ” và tâm con người - trí tuệ của con người, cần có sự phân biệt?

- Theo chúng tôi “Trí tuệ vũ trụ” (cách nói hình ảnh) và trí tuệ của con người dù có nét tương đồng thì vẫn rất là khác nhau (về chất). Cho nên không thể lầm lẫn để nó rằng mọi sự vật hiện tưởng đều có ý thức như ý thức của con người. Tức là sẽ cho rằng vũ trụ có ý thức, có trí tuệ như con người là không đúng (dù trong vũ trụ có nhiều nơi có dạng sống cao cấp như con người, nhưng đó đã là con người).

Tác giả Hà Yên có những bài nghiên cứu sâu, liên quan tới triết học dưới góc nhín khoa học hiện đại và triết Phật rất đang lưu ý (Chungta. com)… chúng tôi xin ghi nhận và thử nhìn từ góc độ triết học duy vật biện chứng - nhân văn của chủ nghĩa Mác.

Chúng tôi thấy rằng, Vụ trụ chứa đầy thông tin và có năng lực / tự phản ánh, tự điều khiển có hướng, có trật tư như ý thức, hay “ý thức”? Năng lực phản ánh/ thông tin, triết Mác (Lênin) và khoa học hiện đại cũng làm rõ, năng lực này là/ thuộc/ của năng lực vật chất của thế giới vật chất, một năng lực mang vô hình, nhưng có cả ở vật chất vô hình và vật chất hữu hình, nghĩa là mang tính phổ biến, toàn thể vũ trụ, được thể hiện tập trung ở não người, dạng chất chất tiến hóa cao nhất như được biêt cho tới nay. Năng lực ấy thể hiện dưới dạng “Trường mang thông tin chức năng Ý thức, vận động vĩnh hằng trong thời gian và rộng lớn trong không gian là một thực tại của Vũ trụ” (đúng hơn là Trường mang thông tin chức năng gần như Ý thức).

Bài viết của Hà Yên đã làm rõ các khía cạnh sau đây:

“Nếu quả sự tiến hóa của vật chất hướng tới sự sống và Ý thức, đòi hỏi một Trật tự, thì đó là trật tự nào ? Đó chỉ có thể là Trật tự của một Tư duy giàu trí tuệ. Bỡi vì, để ý rằng, nếu Ngẫu nhiên có xu hướng phá hủy trật tự, thì ngược lại,Trí tuệ lại biểu hiện ra ở sự tổ chức mọi vật, ở sự đem lại một trật tự từ hỗn loạn. Do đó, khi quan sát tính phức tạp đáng kinh ngạc của sự sống, chúng ta không thể không kết luận rằng, bản thân Vũ trụ thật “Thông minh”: Một trí tuệ siêu việt, tồn tại trên bình diện hiện thực (tồn tại ngay ở khoảnh khắc ban đầu khai sinh Vũ trụ) đã “ra lệnh” cho vật chất đẻ ra sự sống … Vũ trụ là một tư duy rộng lớn! Tư duy ấy có ở từng hạt, từng nguyên tử, từng phân tử, tưng tế bào của vật chất, có một tinh toàn hiện (Omnipresence) sống và hoạt động lặng lẽ, không cho ai hay biết cả”. Những biểu hiện chính xác, đầy tính lôgic ấy, ngoài sự sáng suốt của Ý thức, không thể là cái gì khác: Chắc chắn tồn tại một Trường mang thông tin chức năng Ý thức, vận động vĩnh hằng trong thời gian và rộng lớn trong không gian là một thực tại của Vũ trụ. Đặc trưng cơ bản của Trường là dao động, cho nên Trường cũng có nghĩa là Sóng, dù không phải là sóng Vật lý, thì Sóng luôn gắn với chuyển động. Vì là phi vật thể, nên Trường sóng mang thông tin “chức năng Ý thức” này, tồn tại trong Thế giới siêu hình của Vũ trụ … “Đó chính là Đầu mối của mọi huyền bí Tâm linh, giờ đây đã dần hé lộ, được nhận diện từ trong chồng chất của muôn vàn sắc thái, trong Thế giới các hiện tượng quanh ta”. Tác giả bài viết “Tôn giáo và khoa học tự nhiên” cũng đã khẳng định điều này…

- Não bộ có năng lực phản ánh, thông tin của vũ trụ để nhận thức và thu nhận thông tin, “ý thức” từ vũ trụ.Hay “Não bộ không sinh ra Ý thức mà được trang bị Ý thức, tiếp nhận từ Vũ trụ?

Cũng tựa như cây cối tạo nên màu xanh rực rỡ, là do tiếp nhận ánh sáng, mà Vũ trụ ban cho, để diệp của lá rực lên màu lục vậy. Não có năng lực phản ánh. Năng lực này có nguồn gốc từ năng lực vũ trụ vật chất vô hình. “Thông tin Bộ phận chứa trong Toàn thể. Vũ trụ có năng lực phản ánh, thông tin và ý thức thuần khiết hay là “Trường thông tin mang chức năng Ý thức”. Thông tin Toàn thể phản ảnh trong Bộ phận”, “Tiên đề” về Ý thức con người được “trang bị” từ nguồn Vũ trụ, như đã chứng tỏ, cung cấp cho hiểu biết của chúng ta một cơ hội, có thể tiếp cận đúng hướng vào Thế giới Tâm linh bí ẩn”. Chẳng hạn, “một tai biến sức khỏe, dẫn đến làm biến dạng cấu hình tổ chức của não bộ, làm cho tốc độ và năng lực kết nối trong mạng nơ-ron thần kinh, bị biến dịch sang một cấu hình mới, khác thường, gây đột biến khả năng tiếp nhận Thông tin, làm xuất hiện những năng lực mới, dị thường “.

Theo chúng tôi, HBT, cần hiểu sự “thông minh” của vũ trụ, “trí tuệ vũ trụ” là chính do lôgích, quy luật tự nhiên tạo nên và nhất là năng lực phản ánh, thông tin, tự điều khiển, chứ không phải cái gì khác, KHÔNG PHẢI NHƯ TRÍ TUỆ CON NGƯỜI SỐNG (trình độ tư duy lôgích, sáng tạo cao mà động vật bậc cao, thông minh, cũng không có).

Triết Mác – Lênin cũng đã nói về Năng lực phản ánh hay năng lực thông tin là một đặc tính của não người. Năng lực tư duy - tức có ý thức và năng lực trí tuệ là các đặc tính hay trình độ cao nhất của nó – năng lực phản ánh ở não bộ con người/ và cả cơ thể người nói chung (phản ánh/thông tin bản năng). Não có năng lực ấy nên phản ánh được cái thông tin từ vũ trụ tác động bên ngoài vào nó. Mác nói “ý thức chẳng qua chỉ là cái vật chất di chuyển vào óc người và cải biến trong đó”. Như vậy, não tự nó không sinh ra ý thức, nhưng có chức năng phản ánh, chứa đựng, cải biến/ sáng tạo thông tin TỪ MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI qua hoạt động thực tiễn,mới tạo nên được ý thức. Năng lực não bộ và năng lực vũ trụ là tương đồng cùng bán chất (năng lực phản ánh vật chất…), nhưng khác nhau về cấp độ, về chất lượng.

Não tiếp nhận thông tin và hình thành ý thức như thế nào, bằng công cụ/ cơ sở vật chất như thế nào?

 “Não tiếp nhận và xử lý Thông tin bằngkết nốitốc độ kết nối”. “Đủ để xử lý chọn lời giải tối ưu, tương thích với khối lượng dữ liệu mà trường thông tin ngoại biên dồn dập gửi đến. Vấn đề chỉ còn là tốc độ kết nối. Và đây chính là thước đo năng lực Tư duy: Nhận thức cùng một vấn đề, nhưng nhanh chậm khác nhau ở từng cá thể “. Chuỗi ký ức hằn sâu trong não bộ, vừa là một bộ phận thống nhất trong tổng hòa đời sống con người, vừa là bộ phận của dòng Ý thức mang thông tin, truyền lan trong Vũ trụ, và được nuôi dưỡng bằng chính trường thông tin đó. Nói một cách hình ảnh, cũng theo Hà Yên, thì Lượng thông tin biển cả, mà vịnh phản ảnh được, có thể khác nhau, phụ thuộc vào hình thế và khẩu độ của cửa Vịnh, nối thông với đại dương …. “Điều này tương đương với chất lượng Thông tin mà não bộ thu nhận được, cũng sẽ phụ thuộc vào cấu hình tổ chức và tốc độ kết nối mạng nơ-ron thần kinh, cũng như các trung khu của não bộ … Điều này dẫn đến sự khác nhau về phẩm chất Ý thức, thể hiện trên từng cá thể “. Xét thuần túy về mặt hoạt động vật chất, não là trung tâm chỉ huy của một hệ thống “Điều khiển học sinh học” tự thích nghi, định hướng hành vi bản năng của động vật. Con người, ngoài bản năng, với tư cách là một đông vật cao cấp, não bộ có cấu trúc rất phức tạp, cũng chi là kiến tạo “một hạ tầng cơ sở”, để tiếp nhận một cách hiệu quả ý thức, với các cấp độ khác nhau mà thôi … Nhưng năng lực óc người có tính đặc thù. Rõ ràng là phải như vậy, nhưng đó là “Máy thu đổi tần” chứ không phải là “Máy thu trực tiếp”, bởi vì, Ý thức, và hoạt động chức năng của Ý thức - là sản phẩm phi vật thể của Thế giới siêu hình (vô hình), chúng không có sự cộng thông bản chất  (theo tôi, có lẽ nói không đồng thông về cấu trúc thì đúng hơn- HBT) với vật chất của não, nên não bộ không thể tiếp nhận trực tiếp một trường sóng siêu hình mà không bị “nhiễu” làm rối loạn”.

Như Lênin quan niệm thì vật chất (vô hình và hữu hình) và ý thức vừa đồng nhất vừa khác biệt. Đồng nhất ở năng lực phản ánh, năng lực thông tin, năng lực tương tác quan hệ, năng lực biến đổi, năng lực kiên tạo và cả nội dung phản ánh. Khác biệt là trình độ chất lượng và ở tính khách quan và tính chủ quan khi xét tương quan chủ thể, khách thể. Không có năng lực vũ trụ, năng lực phản ánh, thông tin, tự điều khiển và hướng đích (THÔNG QUA QUI LUẬT KHÁCH QUAN) tương tự như ý thức ở óc người, thì không có ý thức. Song KHÔNG CÓ NÃO NGƯỜI CŨNG KHÔNG CÓ Ý THỨC NGƯỜI. Nhưng ý thức ở óc người, mà theo Lênin: là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là theo ý nghĩa ấy.

Não bộ không phải là CÁI HỘP ĐỰNG Ý THỨC VÀ NHẬN Ý THỨC TỪ VŨ TRỤ (một kiển thừa nhận Thượng đế và Linh hồn vĩnh cửu) mà nó là CÁI SÁNG TẠO RA Ý THỨC trong hoạt động thực tiễn của con người và trong môi trương vũ trụ.

Nhưng khoa học ngày này và đạo học đã gợi ra thêm nhiều điều. “Các dạng Tâm linh huyền bí, gọi theo ngôn ngữ dân gian truyền thống, như: Tái sinh luân hồi, Thần đồng, giao diện linh hồn v..v… đều dựa trên cơ chế khai mở Tiềm thức, giải phóng ký ức cá nhân chứa trong “cái toàn thể “, vẫn còn tiếp tục vận động trong không gian, sau khi thể xác không còn (nhưng không có linh hồn vĩnh cữu - HBT). Cho đến hiện tượng Tâm thể, phát công năng dị thường, như: Viễn di, Thấu thị, Vận công trị thương v..v.. không thuộc Thế giơi Tâm linh, mà thuộc nguyên nhân giải phóng năng lượng tiềm ẩn của Tâm thể, nguyên nhân đó, là do tạo được cộng hưởng năng lượng Vũ trụ (cũng chiếm đầy không gian) thông qua một Môtip kết nôi đặc biệt của mạng nơ-ron, làm kích thích mãnh liệt hoạt động Ý thức Thô, phá vỡ cân bằng, đạt trạng thái cộng hưởng với Trường năng lương bên ngoài, làm tăng hiệu quả tương tác, dưới một số dạng thức, giữa cơ thể với môi trường “.

Ý thức và vật chất (cả vô hình và hữu hình) tương quan thế nào?

Ý thức (như đã chứng tỏ trong khám phá khoa học), “chỉ là một trường sóng phi vật lý/ vật thể, vận động như một dòng chảy liên tục, không có bắt đầu và không có kết thúc. Giờ đây, chúng ta biết thêm được rằng, trường sóng ấy hiện diện khắp nơi trong Vũ trụ, tràn ngập Thế giới xung quanh như một Trường thông tin. Bằng thông điệp của mình, nó dấn dắt Vạn vật xây dựng Trật tự từ Hỗn loạn mà tiến hóa lên”. “Ý thức, theo Triết Phật, là một chức năng hữu hiệu, không có hiện thực nội tại và cũng không có điểm “bắt đầu”. Ý thức bao hàm một lượng lớn quan hệ, mà ta có thể xem như chúng sinh ra mộtTrường, cũng có nghĩa là một Sóng, ngay cả khi nó không phải là một sóng Vật lý. Người ta có thể mô tả Ý thức như một dòng chảy, một chức năng duy trì vĩnh viễn, nhưng không nhất thiết phải mang theo một thực thể tách biệt nào, nghĩa là, có một sự lan truyền một chức năng và các thông tin, chứ không có sự chuyển dịch vật chất, hay các thực thể cụ thể nào (Đúng ra chữ Ý thức trong trường hợp này là Tâm vũ trụ chứ không phải ý thức của con người, hay giống như ý thức của con người - HBT).

Ý thức và thân xác không có ranh giới Chủ thể - Khách thể. Chúng bổ sung cho nhau và Phụ thuộc lẫn nhau, thống nhất trong một Tổng thể con người và Thế giới. Phật giáo cho rằng, Ý thức có nhiều cấp độ: Cấp độ Thô, cấp độ Tinh và cấp độ cực kỳ tinh ... Học thuyết Phật giáo cho rằng: Ý thức (Ý thức nào, của con người hay năng lực của vũ trụ - Tâm? HBT) không đột sinh (emergence) từ vật chất (hay vật thể…?- HBT). Bỡi vì, phải có sự cộng thông bản chất giữa kết quả và nguyên nhân, thì sự “nảy sinh” mới thực hiện được. Nếu không, thì “bất cứ cài gì cũng có thể nảy sinh từ bất cứ cái gi” là điều phi lý. Do đó, Vật chất và Ý thức không cùng bản chất, thì không thể nảy sinh từ nhau “. (Chúng cùng chung bản chất, năng lực trường, tâm, tính thấy, tính phán ánh, thông tin, tự điều khiển…- HBT).

Theo chúng tôi hiểu thì: “Ý thức”(Thông tin) nói chung (phi vật thể), tức ý thức, tư duy, trí tuệ (nhưng ý thức là có thuộc tính vật chất, một dạng vận động của thế giới vật chất, tức dạng sóng), có 2 cấp độ,

Một là, năng lực của Tâm vật chất, cũng tức năng lực phản ánh (siêu phản ánh), siêu thông tin, “ý thức” hay “trí tuệ vũ trụ” (hay như Phật quan niệm là “tính Thấy” như “một trường năng lượng mang chức năng thông tin, ý thức”, “chỉ là một trường sóng phi vật lý”= năng lực quan hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau ở bề sâu, không cần giá đỡ vật thể (phải chăng vì thế mà có tưởng tượng là “ý niệm tuỵệt đối”= “đấng sáng thế”=, hay ý thức bẩm sinh = ý thức bản năng = linh hồn = tâm linh = ý thức cấp độ siêu tinh?) thì nó đồng nhất với vũ trụ cả bản chất và không có bắt đầu hay kết thúc như lý giải của khoa học hiện đại và triết Phật mà Hà Yên đã nêu có hoàn toàn đúng không?.

Thực chất đây là một năng lực của vật chất vô hình (nói “trí tuệ vũ trụ” là nói một cách hình ảnh, ví von), nên không có chuyên nó có trước hay có sau với các dạng vật chất nói riêng hay thế giới vật chất nói chung. Đó là Tâm – “tính Thấy”[1]. Trong óc người cũng có năng lực này. NHƯNG SO VỚI VŨ TRỤ, TUY NÓ ĐỒNG NHẤT VỚI BẢN TÍNH VŨ TRỤ, NHƯNG ÓC NGƯỜI CỤ THỂ THÌ NÓ CÓ SAU.

Hai là, cấp độ thứ 2 là ý thức của loài người, ý thức xã hội lịch sử, ý thức cá thể hiện hữu (cấp độ thô, tinh) có giới hạn và có bắt đầu tương đối, tức ý thức theo nghĩa hẹp, nghĩa đúng, mà chúng ta vẫn dùng một cách phổ biến, rộng rãi là theo nghĩa này (có giá đỡ vật thể) như là cáí có sau (bộ phận, cái riêng) thể hiện năng lực “ý thức” vũ trụ và phản ánh năng lực ấy (cái chung và cái toàn bộ), từ chưa biết đến biết, tức vật chất đi vào óc người và cải biến trong đó, hay ý thức là tồn tại được nhận thức. Ý thức ở óc người, là ý thức có sau, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nghĩa là có học mới biết, có đi một đoạn đường mới học một sàng khôn, thức lâu mới biết đêm dài. Khi nói vật chất có trước quyết định ý thức…. là theo nghĩa này.

Theo Hà Yên, ý thức cấp độ Thô gắn liền với não bộ, và chỉ được thể hiện khi còn thân xác. Điều đó có nghĩa là, cấp độ Thô lấy thân xác làm giá đỡ: gọi là giá đỡ vật chất, hay giá đỡ vật lý, còn Ý thức cấp độ Tinh và Cực kỳ tinh, không nhất thiết cần đến giá đỡ vật lý. Nghĩa là, dù cái chết làm cho thân xác tiêu tan, nhưng Ý thức ở cấp độ cao ấy vẫn duy trì vĩnh viễn, mang theo Thông tin ký ức, và tiếp tục tồn tại trong Tổng thể Vũ trụ? (Thế nhưng thử suy luận, tất cả sóng truyền hình, truyền thanh phát trong không gian nếu không có máy thu - phát, tức giá đỡ vật lý, thì liệu nó là gì, có ý nghĩa gì không? Và không thể hiểu rằng, ý thức sau khi chết vẫn sống như trước, như khi con người còn sống -HBT).

“Ai cũng hiểu rằng, Thế giới Tư duy ở con người có tầm rộng lớn, gần như vô hạn, còn “Thế giới “ thân xác thì hạn hẹp: Nó nhỏ bé trong không gian và ngắn ngủi trong thời gian. Nghĩa là, có sự tương đồng với Vũ trụ, ở con người. Thế giới siêu hình (vô hình) cũng vẫn là bất tận. Cho nên, cái phần siêu hình học mà đời sống Tinh thần, đời sống Tâm linh ngự trị, mới thật sự là quyết định giá trị và phẩm chất đời người… Đó là chân lý mà Khoa học về tiến hóa của Vũ trụ cung cấp bằng chứng cho chúng ta: Rằng, chúng ta là “hình ảnh phóng chiếu của Vũ trụ“.

(Nhưng tâm linh là gì? Phải chăng tâm linh là tâm thức vũ trụ, trí tuệ vũ trụ?! Tâm vũ trụ khác với tâm linh?-HBT).

Chúng tôi, HBT, cho rằng, ý thức ở con người, theo nghĩa rộng, có hai tầng, hai cấp độ đó (cấp độ vũ trụ, phổ quát, tâm vũ trụ và cấp độ nhân sinh, cụ thể, tâm trí con người) vừa thống nhất/ đồng nhất vừa khác biệt, bao hàm, tương quan… Hơn nữa con người cũng là một bộ phận của vũ trụ toàn đồ, bộ phận mang cái toàn thể.

Như vậy, vừa thấy tính tuyệt đối vừa thấy tính tương đối (giống và khác) của ý thức cũng như quan hệ giữa vật chất và ý thức, cũng như vậy về tính khách quan của ý thức và tính chủ quan của ý thức. Đó là tư duy biện chứng. Tuyệt đối hóa cái tương đối, cái khách quan cũng như tuyệt đối hóa cái tương đối, cái chủ quan đều không đúng…

Về hình thái tồn tại, hoạt động của ý thức, có người nêu giả thuyết: “Tinh thần – ý thức con người là vật chất dưới dạng “ánh sáng sinh học”.

Trong cuốn sách “Con người là trung tâm trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng” (1992), tác giả Nguyễn Tấn Quang, đã kế thừa cách nhìn nhận triết học phương Đông và với tư duy khoa học hiện đại, từ đó có một cách tiếp cận mới về nghiên cứu con người cá nhân trong quan hệ với xã hội nhưng khi đề cập tới bản chất của ý thức thì quả là đang bàn.

Trước hết, xin trích nguyên văn định nghĩa về ý thức và lập luận chính của chính tác giả cuốn sách nói trên.

Sau khi trình bày sơ lược những quan niệm duy tâm về ý thức trong lịch sử triết học và tôn giáo, tác giả viết: “Triết học duy vật cổ đại, duy vật siêu hình, duy vật biện chứng thì nhìn nhận vấn đề ấy trên một hướng ngược lại, tuy với một mức độ khác nhau, đều cho rằng tinh thần - ý thức là sản phẩm của bộ óc con người. Nó có “thuộc tính” hoặc “đặc tính”, hoặc là những “hạt vật chất siêu nhẹ”, hoạt động từ thấp đến cao, là phản ánh tồn tại khách quan qua ba giai đoạn cơ bản: cảm giác, phân tích khái quát, diễn dịch, trừu tượng khoa học (giai đoạn siêu thức), với qui trình hoạt động khép kín: Đi từ cụ thể trừu tượng, và từ trừu tượng khoa học trở về với chân lý cụ thể, để phục vụ nhân sinh. Ngày nay y học, sinh học, tâm lý hiện đại, bằng thực nghiệm, đã thu được những thành quả lớn lao minh chứng cho định hướng đúng đắn của triết học duy vật biện chứng về tinh thần – ý thức con người nói trên”.

Tác giả viết tiếp, “trên cơ sở nhận thức những thành quả của khoa học hiện đại và triết học Mác – Lênin, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một luận chứng có tính chất lôgích tiên nghiệm, rằng:

Tinh thần – ý thức con người là vật chất dưới dạng “ánh sáng sinh học”, có bộ óc con người sản sinh ra, được cấu trúc bằng những “quang tử sinh học siêu nhẹ”, hoạt động trong trường hữu sinh bằng một loại năng lượng gọi là “quang năng sinh học” từ cơ thể sống được bộ óc (một bộ máy siêu tinh vi) chế tác qua mộ chu trình cực kỳ tinh xảo, hoạt động bằng khả năng hội tu từ thấp đến cao (sáng tạo – tiên nghiệm), và ngược lại là “phân kỳ” đến chung cuộc (kết thúc – phân hủy), với một vận tốc có khả năng đạt hoặc vượt tốc độ ánh sáng (mà chúng ta biết). khi con người chết, cơ thể sinh học bị phân hủy trở về trạng thái vất chất vô cơ, thì tinh thần ý thức con người cũng bị phân hủy trở về trạng thái ánh sáng vốn là tiền đề của chính nó – ánh sáng thường.

Và nếu trên cơ sở ấy, chúng ta có thể tiên nghiệm xa hơn nữa, thì trong tương lai (có thể xa), triết học, toán học (bằng kỹ thuật tính toán hiện đại), hóa học, sinh học (bằng công nghệ sinh học hiện đại), y học, tâm lý học và quang học hiện đại, bằng kết quả nghiên cứu mang tính chất tích hợp liên ngành đến một lúc nào đó sẽ có thể cùng đi đến kết luận thống nhất về cấu trúc vật chất nói trên của tinh thần - ý thức con người.

Hay đi sâu hơn nữa, cụ thể hơn nữa, chúng tôi cũng tiên nghiệm rằng, trong tương lai (có thể còn xa), kỹ thuật chế tạo máy hiện đại, bằng những thành tựu liên ngành, trước hết là các ngành chế tạo vật liệu mới (chất siêu dẫn chẳng hạn), cơ học lưỡng tử, vi điện tử, điện sinh học, kỹ thuật tính toán, năng lượng mới (phản vật chất chẳng hạn), quang học hiện đại có thể phối hợp chế tạo những máy móc cực kỳ tinh xảo có khả năng tiếp cận gần nhất như bộ óc con người, thì nguồn năng lượng sử dụng cho những máy móc rất có thể là từ quang học hiện đại (khối lượng lớn, vận tốc cực kỳ lớn tạo thành ánh sáng chất lượng cao như tia lazer chẳng hạn). Từ đó, chúng tôi có thể dự báo rằng, quang học hiện đại có một tương lai rực rỡ mà ngày nay chúng ta chưa lường hết được…

Vì sao chúng tôi dám đặt ra vấn đề lớn như vậy từ góc độ tư duy lôgích tiên nghiệm triết học?

- Vì rằng trước hết mọi người chúng ta ai cũng phải thừa nhận một cách hiển nhiên sự tồn tại không thể chối cải của hoạt  động tinh thần – ý thức con người, mặc dù chúng ta không thể nhận biết bằng cách sờ mó, nhìn thấy hoặc đo đếm nó như vật chất ở dạng tồn tại thông thường được. Song kinh nghiệm thực tế cũng cho chúng ta biết rõ ràng rằng, đâu phải cái gì có thể nhận biết bằng giác quan được, thậm chí bằng cả máy móc hiện đại nhất mà phải bằng tư duy khoa học, trừu tượng khoa học ở dạng siêu thức. Vì rằng thế giới vĩ mô lẫn vi mô đều vô hạn, còn nhiều bí ẩn.

- Thứ hai là, kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy rằng khi con người đã chết, thì không còn dấu hiệu cụ thể nào của hoạt động tinh thần – ý thức tiếp diễn nữa. Hiện tượng kề cận cái chết (near death) hay phật pháp Yoga ở Ấn Độ cho thấy cơ thể sinh học của con người chưa phải đã ngừng hẳn hoạt động (cái chất cũng như sự sống là một quá trình chứ không phải chỉ ở một thời điểm) mà là ở dạng hoạt động tối thiểu bằng năng lượng dự trữ, nghĩa là vẫn còn sống dù rằng tối thiểu. Vậy, cho phép chúng ta suy luận rằng con người là một chính thể hữu sinh thống nhất, sự sống phát triển hay sự chết chung cuộc  là một quá trình thống nhất.

- Thứ ba là, vì sao tinh thần - ý thức - tư duy của con người lại có khả năng hoạt động với kết quả kỳ diệu đến mức huyền bí, đến mức vượt cả ngoài phạm vi cảm nhận về thời gian và không gian mà không cần nhiều năng lượng lắm, có cơm rau là đủ. Vậy, phải chăng đó là dạng vật chất đặc biệt hoạt động với vận tốc đạt và vượt tốc độ ánh sáng?

-Thứ tư, con mắt, (thị giác), là cơ quan duy nhất của năm giác quan, mang tính chất bộ máy quang học của con người lại có khả năng biểu hiện sâu sắc, tế nhị và nhạy bén nhất diễn biến tâm lý – ý thức của ý thức của con người. Phải chăng tâm lý – ý thức của con người là ánh sáng sinh học mà con mắt là bộ máy quang sinh học của con người?”(Nguyễn Tấn Quang).

Qua quan niệm trên, thật đáng suy nghĩ, tìm ra hạt nhân hợp lý và tránh cách hiểu sai lệch…

Không ai lại hiểu ánh sáng sinh học hay sóng - hạt (thuần túy) là ý thức của con người, nhưng ý thức của con người có thề tồn tại dưới dạng ánh sáng sinh học, trường - thông tin sóng hạt đặc biệt (biết tư duy, có tâm tư, có trí tuệ…).

Khoa học luôn đặt ra và phát hiện mới mà triết học Mác, một triết học cụ thể, có giới hạn, không vĩnh hằng, phải suy nghĩ để tiếp tục “trưởng thành” và phát triển, chứ không phải cái gì Mác và Lênin cũng nói cả rồi! Hoặc triết Mác đã lỗi thời cả rồi!.

 

2-Bản chất của “linh hồn”, “trường vong” - Có trường vong, nhưng "tuyệt nhiên không có ý thức như người sống"!

Chính khi đọc (năm 2009) bài viết của TS Vũ Văn Bằng - Chủ tịch HĐQT Công ty CP nghiên cứu môi trường Tia Đất, Bàn về bản chất của linh hồn trường vong, tôi đã nhạn xét, đúng là  "tuyệt nhiên không có ý thức như người sống". Cảm ơn tác giả Vũ Văn Bằngđã cung cấp những thực tế về một hiện tượng phức tạp, ý kiến còn rất khác nhau này. 

Ông nêu những giả thuyết cơ bản (tóm tắt) như sau:

- Giả thuyết thứ nhất:Cơ chế hình thành cái gọi là “linh hồn”- trường vong của con người sau khi chết. Cái chết của con người tựa cái chết của những siêu sao hình thành lỗ đen - tuân theo luật “Thiên nhân tương ứng” và hình thành trường lực hấp dẫn mạnh từ hiện tượng đối áp xuất khiến cho cấu trúc vật chất của nó (siêu sao- thi hài và linh hồn người chết) đổ sụp vào trong biến thành khoảng hư vô trống rỗng (Einstein đã hình dung ra hiện tượng suy sụp hấp dẫn này). Dấu vết còn lại chỉ toàn là “lực vô hình”, thực chất đó chính là “trường lực hấp dẫn mạnh”

- Giả thuyết thứ hai: Bản chất linh hồn – vong là một trường vật lý đa hệ, tương tự như các trường trong vật lý vũ trụ. Bao gồm:trường hấp dẫn, trường điện từ, trường tương tác (sự phân rã các hạt cơ bản và nơtrion) và tương tác mạnh(các lực hạt nhân và cộng hưởng), tương ứng với nó là bốn dạng tương tác: hấp dẫn, điện tử, yếu và mạnh. Các nhà khoa học trong đó có Einstein đã cố gắng thống nhất chúng thành một trường duy nhất, thể hiện sự thống nhất của vũ trụ. Linh hồn- vong cũng là trường vật lý đa hệ như trên, là trường sinh học mang thông tin. Hài cốt tựa “một nam châm vĩnh cửu” và tồn tại trường điện từ yếu mang thông tin (khác với trường sinh học). Các trường này tương tác, ràng buộc lẫn nhau tạo nên trường thế - khung cốt của trường vong (hình dáng của chủ thể) mà không thể nhận biết bằng các giác quan thông thường.

- Giả thuyết thứ ba:“Linh hồn – vong là trường điện từ chủ yếu chứa thông tin” – gồm phần lớn các trường vốn có của cơ thể sống lưu lại và chứa thông tin sau khi thể xác ngừng hoạt động. Trường này tồn tại được là nhờ có dao động điện từ của các nguyên tử của hài cốt và bức xạ ra môi trường xung quanh lan truyền với tốc độ ánh sáng.

Tôi chú ý 2 điểm và ý cuối của đoạn văn sau: 1)- Trường vong tuy vô hình với người sống, nhưng bản chất là trường vật chất, nên cũng mang tính chất của vật chất. Tính bức xạ điện từ yếu mang thông tin của chủ thể (lan truyền với tốc độ ánh sáng), đây chính là phần hồn của hài cốt tồn tại sau khi chết. Nhờ tính chất này mà các nhà ngoại cảm có thể nhận biết và giải mã gián tiếp được một số thông tin của trường vong (chỉ có được khi cộng hưởng, không phải là tất cả) nhờ đọc được thông tin qua người thân của vong và trường vong trao đổi thông tin giới hạn với nhau qua huyết thống). 2)- Đáng chú ý là hộp đen của trường điện từ hệ thần kinh não bộ kịp niêm giữ thông tin của chủ thể qua bộ nhớ của ý thức và tiềm thức trước lúc chết. Đó chính là hình ảnh cấu trúc của “linh hồn”. Vậy linh hồn - vong là một trường vật chất cấu trúc gồm hai phần cơ bản: “phần xác” – phần cứng, chính là lỗ đen với lực hấp dẫn cực lớn và từ trường mạnh, “phần hồn” – phần mềm, chính là trường điện từ yếu mang thông tin. Gộp lại đó là “trường vật lý đa hệ chứa thông tin”. Từ đây gọi tắt là trường vong, như tuyệt nhiên không có ý thức như người sống. Hiểu như vậy là hoàn toàn mê tín.Đừng ảo tưởng nữa![2]

Chúng ta tham khảo tiếp: Nhà vật lý học người Ba lan, Slawinski phát hiện ra khả năng bức xạ photon của cơ thể với cường độ cỡ 10-1000 photon/s/cm2. Khi chết bức xạ này tăng lên gấp hơn 1000 lần. Sự lóe sáng chính là để tăng năng lượng cho sự “suy sụp hấp dẫn” nói trên, tăng cường độ cho trường tổng của cơ thể con người khi chết. Đó là trường điện từ dạng lưới mang hình dáng của chủ thể. Các trường điện từ riêng rẽ sản sinh ra từng tế bào, mô, màng, gân cơ, lục phủ ngũ tạng…, đặc biệt trường điện từ của hệ thần kinh và bộ não. Tất cả những trường này khi con người còn sống đã là hệ dao động điện trong hệ thống nhất của trường khung. Khi chết, chúng không mất đi mà tạo thành những nút của trường tổng (khung) dưới dạng các “hộp đen” lưu lại cho hài cốt. Trong đó, đáng chú ý là hộp đen của trường điện từ hệ thần kinh não bộ kịp niêm giữ thông tin của chủ thể qua bộ nhớ của ý thức và tiềm thức trước lúc chết. Đó chính là hình ảnh cấu trúc của “linh hồn”. Vậy linh hồn - vong là một trường vật chất cấu trúc gồm hai phần cơ bản: “phần xác” – phần cứng, chính là lỗ đen với lực hấp dẫn cực lớn và từ trường mạnh, “phần hồn” – phần mềm, chính là trường điện từ yếu mang thông tin. Gộp lại đó là “trường vật lý đa hệ chứa thông tin”. Từ đây gọi tắt là trường vong, tuyệt nhiên không có ý thức như người sống. Hiểu như vậy là hoàn toàn mê tín.

Vậy tính chất của trường vong là gì?Trường vong tuy vô hình với người sống, nhưng bản chất là trường vật chất, nên cũng mang tính chất của vật chất. Tính bức xạ điện từ yếu mang thông tin của chủ thể (lan truyền với tốc độ ánh sáng), đây chính là phần hồn của hài cốt tồn tại sau khi chết. Nhờ tính chất này mà các nhà ngoại cảm có thể nhận biết và giải mã gián tiếp được một số thông tin của trường vong (chỉ có được khi cộng hưởng, không phải là tất cả) nhờ đọc được thông tin qua người thân của vong và trường vong trao đổi thông tin giới hạn với nhau qua huyết thống). Tính hấp dẫn cực mạnh, không phụ thuộc vào không gian, thời gian và một số quy luật vật lý khác như tiêu hao, dẫn truyền… Đây là tính chất tiêu cực, có hai ảnh hưởng tới sức khỏe của người sống khi tiếp cận mồ mả hài cốt. Tính chất từ, như giả thuyết, trường vong còn là một nam châm vĩnh cửu. Nhờ bản chất này mà có thể nhận biết vị trí mồ mả, hài cốt, vong bằng thiết bị cảm ứng mà tác giả thường dùng. Với thiết bị đó, từ cự li xa 200m hoặc lớn hơn có thể nhận biết được vị trí nghĩa địa. Với cự ly 30-50m có thể nhận biết được vị trí mồ mả, hài cốt, vong. Nên mấy năm qua, tác giả bài viết này đã định được nhiều mồ mả hài cốt giúp di dời, phục vụ xây dựng nhà ở, công trường, xí nghiệp, tìm hài cốt liệt sĩ… Hài cốt là “một nam châm vĩnh cửu” như đã biết, một cục nam châm khi đập nhỏ ra, những mảnh nhỏ vẫn là nam châm và chỉ có nam châm mới có tính chất này. Hài cốt cũng vậy. Nếu một bộ phận nào đó của hài cốt bị thất lạc như đốt ngón tay, ngón chân, mảnh xương sườn… thì nó vẫn có thể hiện tính chất từ của hài cốt mà thiết bị cảm ứng có thể nhận biết. Nhờ tính chất này tác giả cũng đã tìm cho nhiều gia đình những mẩu xương còn sót lại khi cải táng hoặc cả khi hài cốt đã phân hủy thành đất. Một tính chất đặc biệt khác của trường vong là tính “nhiễm từ” ra môi trường xung quanh. Thiết bị cảm ứng có thể nhận biết trường vong của người chết tại vị trí đã xảy ra sự cố như bị tai nạn giao thông, chết đuối, treo cổ… sau nhiều năm đã trôi qua, kể cả tiểu sành, ván thôi sau khi cải táng vẫn lưu giữ một phần trường vong.Trường vong còn có tính tiêu cực - có hại đối với người sống. Tức là có hại cho sức khỏe con người. Lực hấp dẫn, từ trường xoay với từ trường lực đủ lớn bức xạ lên mặt đất với phạm vi rộng. Đây được coi là trường dị trường cũng tương tự như bão từ tác động có hại nhiều tới hệ thần kinh và hệ tim mạch của con người.

Những hiện tượng đã gặp ở nơi có hài cốt:Trong chuyến đi tìm mộ liệt sĩ tập thể 173 quân giải phóng hy sinh khi tiến đánh cứ điểm Cồn Tiên 1967 (theo thông báo của Hội Cựu chiến binh Mỹ), khi xác định vị trí khu mộ, đồng chí Trần Lương Thanh huyện đội trưởng huyện đội Gio Linh thắp hương xong thì xúc động đã nằm ôm chặt mặt đất – nơi phía dưới có thi hài các chiến sỹ. Hồi lâu, không thấy chiến sĩ Thanh dậy, đồng đội đến vực lên thấy người cứng đơ lạnh toát. Từ đấy về ốm mất nửa tháng. Khi tiến hành đào kiểm tra đợt 1 đã gặp 4 hài cốt liệt sĩ nằm cách đất từ 0,8 – 1,2m. Xương màu trắng ẩm mục hiện dần lên trong nền đất màu nâu sẫm. Từ những tấm ảnh chụp có thể nhận thấy sự tương tác giữa cơ thể sống và hài cốt trong không gian hẹp – môi trường chứa hài cốt. Hiện tượng con người tiếp cận – nằm trên hài cốt (trường hợp đồng chí nói trên) đã bị lực hấp dẫn của hài cốt hút làm suy giảm sinh khí, sinh ra cảm lạnh. Mặt khác, khi nhìn vào đôi tay và bàn chân trong tấm ảnh chụp hài cốt thấy rất rõ có “luồng sáng” nối giữa phần cơ thể sống (dương) với hài cốt dưới mặt đất (âm) – hiện tượng phóng điện trong không gian. Đó chính là sự tương tác giữa một bên là hài cốt – linh hồn (trường hấp dẫn), một bên là lượng tử - số photon (ánh sáng- sóng và hạt của trường điện từ sinh học bức xạ hồng ngoại) của cơ thể người sống bức xạ ra. Khi tiếp cận với hài cốt, các trường này đã bị lực hấp dẫn của hài cốt hút theo kéo dài ra thành “Luồng sáng”…

Trên đây là những hiện tượng mà tác giả đã đo đạc, kiểm chứng trong thực tế, hoàn toàn phù hợp với các giả thuyết mới về bản chất của trường vong – linh hồn do chính tác giả nghiên cứu, nhìn nhận dưới góc độ khoa học, xin được cung cấp để bạn đọc cùng tham khảo và suy ngẫm[3].

Bạn đọc (hoahongblackrose@...) nhận xét: Công trình nghiên cứu của Ts Vũ Văn Bằng Đưa ra khái niệm “ Trường Vong” là hợp lý, chấp nhận được. Từ đây, dùng luận thuyết về Trường Vong để giải thích hiện tượng ngoại cảm thì cũng hợp lý. Trường vong vẫn chỉ là biểu hiện của thể xác hữu hình này mà thôi, không phải là biểu hiện của tâm linh. Ta khiên cưỡng gán ghép “Trường Vong” chính là “Linh Hồn” thì hoàn toàn sai lầm.

 

Tất cả các hiểu biết về khái niệm “ Trường Vong” không tương xứng khái niệm “ Linh Hồn” của quảng chúng: Linh hồn là thế giới có hình dạng như người thật dù rằng cấu trúc vật chất khác, cũng có nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần, vẫn sinh hoạt theo xã hội – xã hội linh hồn. Vẫn giao tiếp với con người bằng âm thanh hoặc hình ảnh....Bởi vậy không thể nói Trường Vong chính là Linh Hồn.  Công trình của Ts Vũ Văn Bằng là thêm một ví dụ diễn giải luận thuyết hình ảnh linh hồn là do tưởng thức lập nên trong đầu các nhà ngoại cảm, linh hồn không phải là một thế giới siêu hình khách quan. 

Xin lấy 2 tình huống khách quan để giải thích: 

1/ Tôi năm 30 tuổi và tôi năm 3 tuổi là hai con người khác nhau hoàn toàn về mặt cấu trúc vật chất lẫn tinh thần. Nói cách khác tôi năm 3 tuổi đã phải chết đi để có tôi năm 30 tuổi. Vậy nếu có linh hồn thì linh hồn năm 3 tuổi đã đi về đâu? Nếu trả lời linh hồn năm 3 tuổi đã tức thời chuyển vào thân 4 tuổi, rồi từ thân 4 tuổi sang thân 5 tuổi cứ như thế đến 30 tuổi thì chứng minh rằng nếu có linh hồn thì linh hồn luôn luôn và liên tục đổi thân trong từng phút giây hay khoảng khắc ( Sát na)chứ không thể lang thang cù bất cù bơ ở ngoài cơ thể nào đó. Cũng rõ ràng rằng Thể xác tôi năm 3 tuổi đã chết đi nhưng không có linh hồn kèm theo thể xác đó. Nếu trả lời rằng Thể xác năm 3 tuổi chết đi kèm với xuất ra linh hồn năm 3 tuổi và năm 30 tuổi có linh hồn năm 30 thì sẽ hớ to. Bởi vì cơ thể ta luôn chết và luôn phát triển về mặt thể xác lẫn tinh thần trong từng khoảng khắc như vậy nếu có linh hồn thì chúng ta sẽ luôn xuất linh hồn như một dòng chảy. Hơn nữa, linh hồn năm 3 tuổi đã biến chuyển thành linh hồn 30 tuổi ( linh hồn có vận động tăng trưởng chuyển biến) mâu thuẫn với quan niệm linh hồn trường tồn không chuyển biến ( chết trẻ thì tồn tại linh hồn trẻ, chết già thì cho linh hồn già, chết trong tư thế người lính thì hình ảnh linh hồn giữ nguyên là người lính). 

2/ Nhiều nhà bác học, trí óc sáng ngời nhưng về già bị bệnh mất trí nhớ hoặc bị điên. Nếu có linh hồn thì khi chết đi sẽ là linh hồn bác học hay linh hồn điên ? Nếu trả lời là linh hồn điên thì linh hồn bác học đã biến đi đâu?, nếu trả lời linh hồn bác học thì linh hồn bác học đã biến đi đâu ở giai đoạn cuối đời ?.....còn nhiều lý luận, nhưng xin chỉ gợi ý tư duy như vậy. Nguyên nhân có khái niệm linh hồn như hiện nay là do mọi người chưa hiểu sâu sắc, thấu đáo khái niệm về sự sống và nhất là sự chết.  Rơi vào cạm bẫy khái niệm rất nguy hiểm. Xin lấy một ví dụ trong y học. Bất cứ Bác sỹ “Tây học” chuyên nghành cancer nào của Việt nam hay Trung Quốc đều hiểu từ 5-6 nghìn năm nay người Việt và người trung quốc không hề có hiểu biết gì về bệnh Cancer. Thế nhưng các ông thầy lang và các Bs Đông y luôn luôn gán ép Cancer nghĩa là Ung thư. Khi cancer khác hẳn bệnh ung thư thì không thể lấy thuốc chữa bệnh ung thư ( gia truyền, đông y) để điều trị Cancer được. Chỉ vì sự gán ghép khái niệm mà nhiều bệnh nhân cancer phải chết oan uổng vì không được chẩn đoán sớm và chạy theo những bài thuốc điều trị ung thư. Vì sự gán ép khái niệm mà hàng loạt các lang băm thoải mái nhảy ra điều trị cancer bằng những bài thuốc trị ung thư gia truyền mơ hồ. Tôi nghĩ vì sức khỏe nhân dân, đã đến lúc nghành y tế Việt nam nên dũng cảm không dịch Cancer thành ung thư nữa. 

Bài viết giới thiệu công trình nghiên cứu của TS Vũ Văn Bằng nhắc nhở cho chúng ta khi sống và học tập phải cẩn trọng đối với các khái niệm và phiên dịch sai. Nhân đây tôi cũng xin được luận bàn thêm, "Phiên dịch" không chỉ là dịch từ ngoại ngữ sang tiếng Việt, mà còn là phiên dịch từ thuật ngữ khoa học sang thuật ngữ quảng chúng, phổ thông. Còn có nghĩa là phiên dịch từ tư duy trong đầu ra chữ viết ,lời nói hoặc những hành động. Giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt không có nghĩa là ráng dịch ra tiếng Việt đến mức trở thành gán ghép các khái niệm làm hiểu sai các khái niệm, hậu quả là hành động sống sai lầm theo. Tưởng không có gì nhưng thực chất rất nguy hiểm![4]

Cần phải tìm hiểu rõ bí ẩn vũ trụ, chẳng hạn vai trò “sợt vật chất đen”. “Vật chất tối thực sự điều phối sự hình thành cấu trúc của vũ trụ”, “các sợi mỏng, thưa thớt đóng vai trò kết nối các cụm thiên hà lại khó được xác định hơn, vì như đã nói ở trên nó ít hấp thu hoặc phản ánh sáng”.

“Từ lâu, giới khoa học biết được rằng vũ trụ, ngoài các vật chất hữu hình, còn chứa đầy những dạng vật chất chưa nhìn thấy được. Theo đó, có một dạng bí ẩn gọi là vật chất tối được cho là giống như tơ nhện để dệt nên vũ trụ. Vật chất tối, được xác định vào những năm 1930, không thể được phát hiện một cách trực tiếp vì nó dường như không phát ra hoặc hấp thu ánh sáng. Tuy nhiên, các nhà thiên văn học biết được sự tồn tại của nó dựa trên các ảnh hưởng lực hấp dẫn tác động lên ánh sáng và các vật chất hữu hình xung quanh. Và do lượng vật chất tối nhiều gấp 5 vật chất thông thường, lực hấp dẫn của nó tạo nên ảnh hưởng sâu rộng và xuyên suốt đối với hình dạng của vũ trụ. “Vật chất tối thực sự điều phối sự hình thành cấu trúc của vũ trụ”, trưởng nhóm nghiên cứu Joerg Dietrich của Đại học Đài quan sát Munich (Đức) nói, "Các cụm thiên hà và những sợi liên kết hầu như đều làm từ vật chất tối. Vật chất bình thường chỉ theo sau sự phân bổ của vật chất tối”. Giới chuyên gia dễ dàng theo dõi được ánh sáng bị bẻ cong bởi các nút thắt vật chất tối đậm đặc lấp đầy các cụm thiên hà. Tuy nhiên, các sợi mỏng, thưa thớt đóng vai trò kết nối các cụm thiên hà lại khó được xác định hơn, vì như đã nói ở trên nó ít hấp thu hoặc phản ánh sáng…“Tôi phải nói rằng chứng cứ trên hết sức thuyết phục”, báo The Los Angeles Times dẫn lời Manoj Kaplinghat, nhà vật lý học thiên thể lý thuyết thuộc Đại học California ở Irvine. Chuyên gia này khẳng định đây cũng là phát hiện đầu tiên về sự tồn tại của sợi vật chất tối.

(http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120706/phat-hien-soi-vat-chat-toi.aspx)

Cái gì còn lại nữa, sau khi chết, ngoài“trường vong”?

- Để lại con cái như thế ào? Qua di truyên và môi trường sống. Con cái “giống” bố hay mẹ?Không chỉ khuôn mặt mà còn chiều cao, trí tuệ, tính cách của bố và mẹ đều di truyền cho con cái nhưng có những đặc điểm chỉ bố hoặc mẹ di truyền cho con... Mẹ là người di truyền trí lực cho trẻ. Ngoài tính chất di truyền, môi trường, hoàn cảnh sống, chế độ dinh dưỡng, giáo dục… ảnh hưởng khá nhiều tới sự phát triển trí lực của trẻ sau này. Theo các nhà khoa học, yếu tố di truyền chiếm 50%-60% sự ảnh hưởng đối với trí tuệ. Một người mẹ thông minh sẽ sinh ra những đứa con có trí tuệ hơn người, đặc biệt sự di truyền trí lực cho đứa con trai càng nhiều hơn. Nguyên nhân chủ yếu có liên quan đến nhiễm sắc thể X ở nữ giới. Nữ giới có 2 nhiễm sắc thể XX, trong khi đó, nam giới chỉ có 1 nhiễm sắc thể này. Do đó, người mẹ chiếm vị trí quan trọng trong việc truyền cho con cái trí tuệ thông minh.

Bố là người di truyền tính cách cho con cái. Theo quy luật di truyền về tính cách và tướng mạo, tính cách của trẻ phần lớn được di truyền từ người bố sang. Tính cách của trẻ được hình thành ngay từ trong bụng mẹ, nhưng phần lớn nó chịu ảnh hưởng của tác động bên ngoài môi trường trẻ sống, mà người bố trong gia đình lại có tầm ảnh hưởng lớn, thậm chí lớn hơn của người mẹ. Trong đó, ảnh hưởng của cha đối với người con gái lớn hơn con trai. Theo nhận định của các chuyên gia tâm lý học, người cha đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tính cách và nhân cách của con gái. Họ có thể truyền thụ cho con gái của mình rất nhiều bài học và kinh nghiệm sống, từ đó giúp tính cách con gái mình thêm phong phú và sâu sắc hơn[5].

-() Có sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết…? Mới đây, các nhà khoa học còn tìmthấy một bộ phận cơ thể kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh: Đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài. Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi.Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng "mã phát" mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết…[6]

Cái gì còn lại nữa, sau khi ta chết là câu hỏi có ý nghĩa, và phải tiếp tục trả lời, không thể nói đơn giản, chết là hết!? Đó là chưa nói văn hóa do con người sang tạo ra sẽ còn mãi với loài người sau khi chết.

3- Chúng ta cũng không thể lầm lẫn Tâm người và Tâm vũ trụ, lầm lẫn linh hồn và tâm, Tâm vũ trụ với phần mềm được lập trình như máy tính.

Chúng ta cũng không thể sử dụng khái niệm lập trình một cách đon giản, rằng vũ trụ được lập trình. Hay trí thông minh của vũ trụ được lập trình. Lập trình nghĩa là Chúa (một nhân cách hóa), lập trình hay vũ trụ tương tác tự lập trình, một năng lực vốn có này sinh trong tương tác vật chất - hiện tượng, vô hình và hữu hình. Đã lập trình thì lập trình tới từng chi tiết, tức nhìn vũ trụ theo kiểu tất định, trật tự, tuyến tính chứ không phải vừa trật tự và vừa phi trất tự, phi tuyến tính, hổn độn. Lập trình trong khoa học máy tính là đúng nhưng không thể biến nó thành một khái niệm thế giới quan, vũ trụ quan được theo nghĩa tuyệt đối. Vũ trụ vô cùng vô tận như vậy thì làm sao lại lập trình được, kể cả, nếu có Chúa thật.

Chúng tôi muốn phân tích trao đổi với Huy Minh như sau: Phần mềm hay thông tin vũ trụ (tâm) khác vơi thế giới linh hồn người chêt, chứ không phải là một.

Huy Minh cho rằng, có thể hình dung điều này với cái nhìn đơn giản của dân IT như sau: thể xác là phần cứng (hardware), linh hồn là phần mềm (software). Cũng có thể không có thế giới linh hồn (TGLH) theo cách hiểu của chúng ta về những hồn ma, thần thánh, tuy nhiên một THẾ GIỚI KHÔNG GIAN THÔNG TIN TOÀN THỂ là điều nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến... Có thể hình dung điều này với cái nhìn đơn giản của dân IT như sau: thể xác là phần cứng (hardware), linh hồn là phần mềm (software).

 Sự thụ thai chính là lúc một phôi thai được hình thành và một phần mềm được kích hoạt, điều khiển mọi quá trình phát triển của bào thai và con người sau đó (thậm chí có người lại cho rằng có linh hồn đầu thai điều khiển cái thai - ghi thêm HBT). Điều kiện sinh sống, học tập, lao động, môi trường tự nhiên, xã hội là những tham số (vô thường) tác động để mỗi người có một cuộc sống khác nhau, cái software đó chính là linh hồn của mỗi người. Thông tin của cả cuộc đời được lưu trữ đâu đó trong não bộ và được backup trong không gian thông tin toàn thể của vũ trụ. Chết chính là lúc linh hồn (software) rời bỏ khỏi thể xác (hardware), những thông tin (cơ sở dữ liệu) của mỗi người không bị mất đi mà vẫn còn một bản sao được backup đâu đó trong vũ trụ (?!). Những nhà ngoại cảm chính là những người có khả năng đặc biệt, có thể tuy xuất và đọc được những thông tin về người đã chết (tương tự như việc search trong google). Thực ra, thông tin dữ liệu đều được mã hoá bởi các bít (số 0,1), các byte (8 bít)”... “Phần mềm điều khiển trong mỗi người rõ ràng tương đồng với phần mềm điều khiển vũ trụ, chỉ có các tính năng, chức năng là khác nhau, phạm vi ứng dụng khác nhau và sẽ chịu chung những quy định, luật lệ nghiêm ngặt trong vũ trụ để đảm bảo sự vận hành ổn định trong các giai điệu tuyệt vời của thiên nhiên, vũ trụ” (HM).

Điều này, về cơ bản, thì có thể hiểu như thế nào? Tâm hay cái vô hình mang năng lượng, thông tin (lý thuyết năng lượng, phản ánh và thông tin) gần như (ví von) “trí tuệ vụ trụ” trong thế giới là có thật bên cạnh/ bên trong vật chất hữu hình nhưng chúng xen vào nhau, không có cái này không có cái kia, phụ thuộc lẫn nhau trong tổng thể. Nó cũng là lôgích, quy luật, trật tự và hệ điều khiển, điều hành trật tự (điều khiển học) về đại thể và bao hàm cả hỗn trộn. Gọi là phần mềm, “lập trình” (ai lập trình hay tự nó lập trình, hay tổng hợp tương tác, chẳng hạn. hoạt động của gen, hay lá cây biết vươn ra ánh nắng mặt trời - nhưng không vì thế mà nói cây, hay tế bào có ý thức như ý thức con người, dù ý thức con người có tiền đề từ đó và cơ thể người cũng có năng lực phản ánh, phản ứng sinh học - “sinh thức”), hay gọi là vũ trụ thật thông minh (bản thức), hay chính là “Thượng đế” là một cách nói phản ánh thực ấy. Tức là con người đã nhân cách hóa bí ẩn siêu nhiên vũ trụ ấy.

 Thế giới linh hồn người chết cũng là một sự nhân cách hóa (tưởng tượng của người bình thường về cái huyền bí vũ trụ thì thông minh, sắp xếp như con người) như vậy. Tất nhiên, có năng lực ngọai cảm băng tưởng thức, trực giác... có thể thấy “linh hồn”, nhưng nó ở trong đầu ta mà thôi (hoặc cả ngoài nữa, không thể có linh hồn - ý thức thực sự của con người - hoàn toàn độc lập khỏi thể xác con người sống) và nó có cái đồng nhất với năng lượng mang thông tin, như “trí tuệ vũ trụ”, nhưng là VÔ THỨC vậy, khác với ý thức, có ý thức con người đang sống.

Cho nên, chúng tôi thật sự băn khoăn với ý tiếp sau đây của Huy Minh. Vì thế giới linh hồn, theo Huy Minh, “là một thế sống có ý thức còn hơn loài người, biết suy nghĩ tính toán cao thế kia mà”. Một giả thuyết chăng? Linh hồn người chết là một thể sống CAO CẤP VẬY Ư?Không đúng!

Huy Minh diễn tả (tưởng tượng?) thế giới linh hồn như sau:

“Thế giới linh hồn là thế giới nếu có sẽ khác rất nhiều với thế giới loài người, ở đó phải có những quy định, những nguyên tắc ứng xử, những luật lệ riêng khác với thế giới của chúng ta. Linh hồn người thân cho dù có thương con cháu cũng không được, không thể và không dám can thiệp để “chạy tội, chạy án, chạy chức,…” một cách tuỳ tiện cho lũ con cháu của nhà mình được! (Tại sao, vì vẫn có những linh hồn tham nhũng chạy tội đấy chứ, nó sợ gì mà không chạy, như một thời ở cõi trần, dù có tòa án và nhà tù - HBT).

Chính vì vậy, có thể ngày xưa, khi con người yếu đuối, non nớt trước thiên nhiên nên có thể có nhiều sự can thiệp của thế giới linh hồn vào đời sống con người và đó là nguồn gốc, “sở cứ” của những câu chuyện cổ tích, thần hoại đầy màu sắc huyền bí. Cùng với sự trưởng thành, tiến bộ vượt bậc của loài người, sự “can thiệp” đó hầu như không còn hoặc nếu có cũng xuất hiện một cách “hữu lý”, phù hợp với tư duy của đại chúng, tránh gây sốc hoặc đảo lộn những bức thành trì kho tàng tri thức nhân loại. Mục đích là tránh sự sụp đổ hay một cái gì đó tương tự “ngày tận thế”(HM).

Lại thế ứ?Thế giới linh hồn cũng tiến hóa, có sinh con đẻ cái không? Chắc y trang như cõi trần hay còn hơn thế ư!? Thật là quá tưởng tượng ly kỳ!?

Đúng là, như Đạo Trường nhận xét, chúng ta (Huy Minh và một số người) lẫn lộn Tâm và Linh hồn? Hay, theo chúng tôi, cũng là sự lẫn lộn lôgích (tự điều khiển) của thế giới với sự thông minh có ý thức, có trách nhiệm của con người, lẫn lộn giữa trường thông tin đầy không gian vũ trụ và cả trong óc người với linh hồn người đã khuất, ma, vong?

Huy Minh tin rằng: Các nhà ngoại cảm là sự thật hiển nhiên, họ cũng có những hoạt động thực tế, GS Trần Phương và nhiều người khác không thể tuỳ tiện tin tưởng, thừa nhận và thay đổi quan niệm của mình một cách mù quáng ngây thơ. Những năng lực đặc biệt của các nhà ngoại cảm là có thật, tuy mức độ có thể khác nhau, lúc mạnh lúc yếu thậm chí chỉ được một thời gian ngắn rồi mất hẳn một cách không chủ ý, không kiểm soát được. Hàng nghìn thân nhân gia đình liệt sĩ tìm được hài cốt là một hiện tượng thực tế và có tính nhân văn. Khả năng của các nhà ngoại cảm cũng có giới hạn nhất định, không thể đánh đố họ hoặc bắt họ phải chứng minh bằng mọi cách khả năng của mình hay làm được những việc họ không được phép, đặc biệt, không thể bắt họ tìm quặng, đào vàng hay chỉ chỗ ẩn náu của trùm khủng bố Bin Laden, bởi có thể những điều này “vi phạm những nguyên tắc cơ bản của thế giới linh hồn”. Bản thân những nhà ngoại cảm chỉ có thể có một “sứ mệnh” nhất định nào đó, họ cũng chịu sự điều khiển, kiểm soát của những thế lực mạnh hơn.

Huy Minh còn cho rằng: Trưởng Lão TTL một mực khẳng định không có thế giới linh hồn, thế giới linh hồn là do tưởng tri, là sản phẩm của sự tưởng tượng. Cũng có thể không có giới linh hồn theo cách hiểu của chúng ta về những hồn ma, thần thánh, tuy nhiên, một THẾ GIỚI KHÔNG GIAN THÔNG TIN TOÀN THỂ là điều nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến.

... Những nhà ngoại cảm chính là những người có khả năng đặc biệt, có thể tuy xuất và đọc được những thông tin về người đã chết (tương tự như việc search trong google). Thực ra, thông tin dữ liệu đều được mã hoá bởi các bít (số 0,1), các byte (8 bít). Vậy mà người xưa đã biết rằng “Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng; Tứ tượng sinh bát quái;
Bát quái tiến hoá tới vô cùng” để nói rằng, vạn vật trong vũ trụ đều có thể được số hoá bằng những bít 0 và bít 1 (lưỡng nghi), sắc không…, điều này hẳn Trưởng lão đã biết trong triết Phật. Có thể thời của Đức phật cách nay hơn 25 thế kỷ không có những khái niệm về khoa học máy tính nên Người chỉ mô tả theo những ngôn ngữ, khái niệm đương thời. Tôi nghĩ, với sự phát triển của khoa học máy tính, chúng ta đã có thể có cái nhìn tiệm cận hơn về thế giới linh hồn, thế giới ảo, không nhìn thấy mà dường như hiện hữu quanh ta. Phần mềm điều khiển trong mỗi người rõ ràng tương đồng với phần mềm điều khiển vũ trụ, chỉ có các tính năng, chức năng là khác nhau, phạm vi ứng dụng khác nhau và sẽ chịu chung những quy định, luật lệ nghiêm ngặt trong vũ trụ để đảm bảo sự vận hành ổn định trong các giai điệu tuyệt vời của thiên nhiên, vũ trụ. Ngoài việc đưa ra cách nhìn trên như một cách giải thích nhìn nhận khác về thế giới linh hồn và giải thích các hiện tương kì bí trong tự nhiên, chúng tôi còn hy vọng sẽ giới thiệu cho xã hội những công cụ (chương trình phần mềm) để áp dụng trong thực tế và minh chứng cho luận thuyết này nhằm chuẩn bị cho những thay đổi lớn lao của chúng ta khi bước vào kỷ nguyên thông tin với nền kinh tế tri thức” (HM). Lại còn thế nữa!?

Nhận xét và trình bày sau đây của Đạo Trường về hiện tượng nhầm lẫn giữa Tâm và linh hồn là rất tinh tế và rất đúng.

Ở đây tôi (Đạo Trường) thấy bạn Huy Minh cũng như nhiều người khác đã nhầm lẫn giữa Tâm và linh hồn (chứng minh nhận định của tôi trình bày 9/4/2009). Phần cứng là thể xác (điển hình là não), Phần mềm (chứa đựng chương trình) là Tâm (chứa đựng các chủng tử), linh hồn là những hình ảnh, âm thanh, giải pháp, thông tin có được khi chạy chương trình xử lý thông tin trên máy vi tính. Những hình ảnh âm thanh đó có thể 3 chiều, đủ màu sắc, sống động như một xã hội nhưng đó vẫn chỉ là phim ảnh chứ không phải thế giới thật. Nhiều nhà khoa học ở VN hiện nay trước hiện tượng các nhà ngoại cảm đã có phản ứng giống hệt lần đầu các cụ già VN được Tây cho xem chiếu bóng. Nhiều cụ vái lạy hình ảnh trên phông (Tưởng thiên thần, cõi trên) muốn sái cổ mỏi lưng và bải hoải cả chân tay.

Cái máy vi tính kỹ thuật của con người hiện nay còn cực kỳ thô sơ so với cái máy siêu vi tính sinh học của Thượng đế. nó chỉ bằng một phần vài trăm tỷ của máy sinh học mà thôi, và nó được xây dựng và lập trình bởi máy vi tính sinh học. Đáng tiếc là Máy tính sinh học vẫn còn hầu hết phần cứng chưa được sử dụng tới và hầu hết các chương trình đã có nhưng chưa được kích hoạt để mà chạy.

Những máy tính sinh học trong các nhà ngoại cảm đã tình cờ kích hoạt chạy được một số chương trình đặc biệt so với đám đông chúng ta. Các chương trình của họ cũng dễ bị lỗi hoặc ngưng chạy vì não có thể bị thay đổi cấu trúc khi ăn trúng "đồ ăn kỵ" . Máy tính sinh học trong các nhà sư (Thiền tông, Tịnh độ tâm, Mật tông) được rèn luyện chủ động mở chạy một số chương trình đặc biệt như Trưởng Lão đã trình bày.
Cái máy vi tính sinh học của đức Phật được kích hoạt chạy đủ các chương trình. Do đó Đức Phật có nhiều khả năng siêu phàm, một trong những khả năng đó là có thể thấy được hình ảnh của hằng hà vô lượng kiếp của chính mình hay của mọi người khác như tôi và bạn. Điều đó, không có nghĩa là một thân chúng ta đang tồn tại cùng một lúc thành hàng tỷ cái thân trong tỷ thế giới (ĐT).[7]

Không thể đồng nhất thế giới vô hình với “thế giới linh hồn”. Chúng ta phải hết sức cẩn thận vì chúng ta có thể bị nhẫm lẫn của những hình ảnh do Tâm người tạo ra (chủ quan) và sự tồn tại độc lập của một thế giới vô hình khách quan, độc lập với sự tồn tại của con người. Cho nên tránh lẫn lộn tâm vũ trụ với “linh hồn” người sau khi chết. Cũng cần phản biệt cả linh hồn do ta tưởng tưởng ra, nhân cách hóa, linh thiêng hóa và “linh hồn” như một dạng thông tin tàn dư nào đó vẫn tồn tại (thấy qua tưởng thức và cả lúc chưa thấy).

“Con đường vào thế giới vô hình chính là con đường Tâm và Thiền Định, khi chúng ta tắt bỏ dần dần các ý nghĩa động loạn thì một thế giới khác sẽ mở ra cho ta. Chúng ta sẽ đi từ Ý thức vào được Vô Thức. Khi đó cái biết về Vô thức sẽ biến thành cái biết của Ý thức.” Đúng là như vậy.

Bạn Võ Huân quan niệm như sau: Chân Lý là trung đạo. Thế giới Linh hồn là có thực. Nó khách quan mà chủ quan. nó liên quan trực tiếp và gián tiếp tới con người. Con đường đưa chúng ta vào thế giới Tâm Linh là Tâm. Nhưng chúng ta phải hết sức cẩn thận vì chúng ta có thể bị nhẫm lẫn của những hình ảnh do Tâm tạo ra (chủ quan) và sự tồn tại độc lập của một thế giới vô hình khách quan, độc lập với sự tồn tại của con người.

Tâm của người sống và người ở thế giới siêu hình có thể ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, dủ cho chúng có ảnh hưởng như thế nào đi nữa, thế giói vô hình cũng chịu quy luật chi phối của nhân- quả. Một lình hồn muốn tiếp xúc với một người nào đó cũng phải có một Duyên. phải được cho phép (ai cho phép ?-HBT). Thế giới vô hình cũng có trật tự, quy luật và được giám sát chặt chẽ. Đạo Phật nguyên thủy không có khái niệm về Linh hồn, nhưng được gọi là Thân Trung Ấm. Xét cho cùng, được gọi là gì đi nữa, chúng ta cũng không phủ nhận sự tồn tại khách quan của nó

(Chúng tôi cho rằng không thể đống nhất thế giớí vô hình với “thế giới linh hồn”(?) và không có sự phân chia riêng biệt như vậy trong vũ trụ- HBT).

Bạn Võ Huân: Khoa học hiện nay không giải thích được sự tồn tại của thế giới vô hình, vì đơn giản chúng ta không có được những dụng cụ cần thiết. Ví dụ muốn tìm được một nguyên tố hay một chát gì đó, chúng ta phải biết được nó tuơng tác với gì. Cụ thể như khoa học tin có sự tồn tại của Dark Matter, nhưng chúng ta không biết các tính chất và bản chất của chúng. Nhưng sự tồn tại của chúng là thích hợp và giải thích cho sư tuần hoàn và tốc độ và sự giãn nở của các thiên hà và vũ trụ. Nếu chúng ta không biết được các Dark Matter kia tuơng tác với gì thì làm sao tìm được chúng? Cũng như vậy, nếu chúng ta sử dụng vệ tinh, sử dụng các máy đo vật lý.... nhưng xét cho cùng, tất cả đều là vật lý (Physical) mà physical thì rất hy hữu mới tìm được các yếu tố Invisible và vô hình.

Con đường vào thế giới vô hình chính là con đường Tâm và Thiền Định, khi chúng ta tắt bỏ dần dần các ý nghĩa động loạn thì một thế giới khác sẽ mở ra cho ta. Chúng ta sẽ đi từ Ý thức vào được Vô thức. Khi đó cái biết về Vô thức sẽ biến thành cái biết của Ý thức. Cho nên nói tất cả đều là ý nghĩ thì chưa chính xác 100% (tất nhiên tôi đang sử dụng ý thức để viết bài hihi). Sự tồn tại của các thế giới khác không thể chứng minh nếu chúng ta khăng khăng đòi khoa học hay ai đó mở ra cho chúng ta xem, mà chúng ta phải tự tìm thấy bằng kinh nghiệm thực chứng! Lúc đó chúng ta sẽ không còn hoài nghi, mơ hồ hay tranh luận. Vì cái đó là vô ích!

Tuy nhiên tôi vẫn phải khẳng đinh Đao Đức và niềm tin vào Nhân Quả là quan trọng nhất. Chúng ta nên cẩn thận với niềm tin thái quá vào cõi âm, vô hình, siêu nhiên..... và rơi vào mê tín. Cõi Âm hay vô hình là có ở đó, nhưng nên biết để tin vào Nhân Quả, cố gắng sống cử xử đạo đức với nhau, sống trách nhiệm và ý thức được các hậu quả của mình, để làm thế giới này tốt đẹp hơn... Giấy tiền vàng bạc, vàng mã không giúp được người cõi âm, nếu chúng ta muốn giúp họ thì nên làm từ thiện và hồi hướng công đức cho họ. Cái đó thiết thực hơn. (HH)[8]

Chúng tôi nghĩ rằng nên trở lại suy nghĩ với thông tin của sư Thích Thông Lac, nói trên.

4- Hiệu ứng sinh học, hiệu ứng tâm thức, một cơ sở để làm rõ thêm năng lực huyền diệu của con người.

Theo Đỗ Thanh Hải, trong sách Hiệu ứng sinh học, Nxb. Tổng hợp TPHCM, 2005) thì đã kết hợp nhãn quan, trí tuệ cả Tây và Đông để nhìn nhận vấn đề hiệu ứng sinh học, qua đó giải thích địa linh nhân kiệt và hiện tượng.trí tuệ huyền diệu ở con người, hơặc hiện tượng loạn nhịp sinh học gây bệnh tật ở con người.

- Theo triết thuyết phương Đông thì các sự vật, hiện tượng đều tướng tác và chuyển hóa lẫn nhau với nguyên tắc đối ngẫu âm - dương, và quy luật cân bằng, và tuần hòan đối xứng cầu. Từ đó biến dịch tạo nên mô hình thiên - địa- nhân. Phương Tấy thì sự tồn tại và biến đổi các sự vật hiện tượng là theo triết lý thống nhất - đấu tranh, chuyển hóa các mặt đối lập. (cần nói thêm: qua nguyên lý cái trung, và nguyên lý cái bổ sung nữa.-HBT). Như vậy cái chung của thế giới và con người là hệ quy chiếu tư tưởng hòa nhập, đồng thời nhưng luôn biến dộng qua các biểu hiện nhiễu, giao thoa, tự kích.. Trong tư nhiên xét đến cùng là cấu thành bới hai mặt sóng và hạt. Sóng sinh học là Hồn, và Xác là khung cộng hưởng hữu cơ. Cả hai mặt này tạo nên Hệ sinh học vận động khả biến. Năng lượng sóng và năng lượng hạt chuyển hóa lẫn nhau trong mọi hệ quy chiếu không - thời gian. Do vậy theo phương Tây thì thân thể khỏe mạnh thì tinh thần minh mẫn. Theo phương Đông thì khi Giác ngộ sẽ có sức mạnh tinh thần xuyên suốt hệ quy chiếu không - thời gian, dẫn đến vũ trụ hợp nhất. Ở đó hòa hợp khung cộng hưởng sinh học - thể xác - với thiên nhiên, sẵn sàng đón nhận những tác động nghịch pha hòa lẫn với năng lượng sóng (tinh thần) ở trạng thái ý thức giác ngộ. nhằm điều chỉnh năng lượng sóng ngày càng sáng chói hơn tạo mỗi hệ quy chiếu không thời gian lưu trú trong khung cộng hưởng sinh học.

- Đièu chỉnh sóng sinh học như thế nào? Nếu sống sinh học được điều chỉnh theo chiều phát triển tích cực sẽ tạo nên tác động kích họat rất lớn đến khung cộng hưởng sinh học và có khả năng khái mở được nguồn năng lượng dự phòng của hệ sinh học hiện hữu (cá nhân, cộng đồng). Khoa học đã cho biết bộ não chỉ mới hoạt động 10% công xsuất suốt cả đời người, tức còn 90% là tiềm ẩn, nằm dự trử… 90% ĐÓ LÀ KHO TÂM LINH TIỀM ẨN.

 Chính năng lượng dự trử khóa mã 90% tiềm ẩn này là để dự phòng duy trì nòi giống (bổ sung khi hòa hợp tình yêu đôi lứa), và khi nguy hiểm, quá sức người 10% kia thì con người tự động sử dụng nó qua kích hoạt của hoàn cảnh (trong chiến tranh một phụ nữ có thể vác 2 thùng đạn nặng gấp đôi lúc bình thường có thể vác được 1 thùng là đã quá sức). Nhưng đáng chú ý là nhờ được kích họat mà một nhạc sĩ có tác sáng tác tác phẩm bất hủ so với lúc bình thường (ta gọi là thăng hoa, hay có cảm hứng, có lúc do giấc mơ đầy kích động tạo ra như Mozart chẳng hạn). Hoặc những trường hợp do tai nạn, chết di sống lại làm người đó biến dị hệ sinh học. Ở đó hệ năng lượng dự phòng bị kích họat, mở khóa và sản sinh ra năng lực ngoại cảm (có thể cảm nhận được chiều thời gian tương lai - quá khứ, như “tìm mộ từ xa”, giao tiếp với sóng sinh học), hoặc những năng lực dị thường khác tương tự.

Tất nhiên, hệ sinh học (trong đó vô thức được “lập trình” bởi phần mềm vũ trụ) có nhiều hệ và tình huống: hệ sinh học rơi vào tình huống sinh tử, đấu tranh sinh tồn; hệ sinh học cộng hưởng (về tình cảm vê âm thanh, ánh sáng, về suy nghĩ); hệ sinh học biến dị (tạo nên thần giao cách cảm…); hệ sinh học bẩm sinh (năng lượng dồi dào, ưu trội tạo nên năng lực, xúc cảm bẩm sinh). Hoặc có nhìều hệ sinh học hữu quan (ý thức được lập trình bởi hệ sinh học hữu quan): Hệ sinh học tập luỵện thiền định; hệ sinh học tập luyện khí công; hệ sinh học tạp luyện Yoga.

- Những hiệu ứng sinh học tạo nên sự kích họat năng lượng sinh học, có khá nhiều lọai với nhiều định luật. Như hiệu ứng đám đông, tức hệ sinh học riêng biệt được kích họat tích cực của hệ sinh học cộng đồng thì hệ sinh học riêng biệt được khí hoạt có khả năng thu hút cộng sinh vô thức đến hệ sinh học cộng đồng. Hoặc hệ vật chất, hệ sinh học tự nhiên nếu được kích họat năng lượng cộng sinh tích cực, thì hệ ấy vật chất ấy, sau khi được kích hoạt, sẽ có tác dụng tao nên hiệu ứng thu hút hệ snh học (đơn thể, quần thể) vô hức mọi hệ quy chiếu không thời gian khả kiến. Hoặc hệ sinh học khi bị khi hoạt không tích cực bởi nhiều hệ sinh học khác thì hệ sinh học bị kích hoạt sẽ suy yếu năng lượng. Hoặc hệ vật chất, hệ sinh học tự nhiên chịu tác động kích họat năng lượng của hệ sinh học cộng sinh nghịch pha thì hệ vật chất sẽ biến đổi theo chiều suy thoái.

Những hiệu ứng hệ sinh học cộng hưởng và các định luật. Chu trình vận động chuyển hóa sóng hạt của hệ sinh học khả kiến luôn chịu ảnh hưởng tương tác bởi tọa độ không thời - gian xác lập hệ sinh học (các năng lượng tròi đất đều ảnh hưởng tới nhân thể); Tương tác năng lượng giữa vũ trụ và trời đất, tức sự giao hợp giữa trời đất phân bố ở những tọa độ không - thời gian cộng sinh sẽ tạo nên cộng hưởng sinh học với hệ sinh học đựợc xác lập đồng pha ở nhựng toa độ không - thời gian tương ứng (nên có thể địa linh sinh nhân kiệt). Hoặc tác động đồng pha giữa các hệ sinh học cùng hướng về một hệ sinh học đối tượng sẽ tạo nên cộng hưởng sinh học. Hoặc tương tác đồng pha giữa các hệ sinh hoặc huyết thống sẽ có khả năng tạo nên cộng hưởng sinh học (tác động cộng hưởng sinh học / hay tình cảm kích họat từ mẹ sang con/ hoặc kích họat từ hoàn cảnh xã hội đặc biệt chẳng hạn). Hoặc tương tác đồng pha hoặc tự kích giữa các hệ sinh học âm - dương sẽ có khả năng tạo nên hiệu ứng cộng hưởng sinh học (phản ứng duy trì nòi giống, hiệu ứng giới tính,). Hoặc dải phổ tần tương hợp, năng lượng bức xạ của trường âm thanh, ánh sáng có khả năng tạo kích họat cộng hưởng năng lượng hệ sinh học. Hoặc dải phổ tần của trường âm thanh, ánh sáng bất tương hợp tạo nên hiệu ứng suy thoái năng lượng hệ sinh học…

Còn Bùi Quang Minh, thì cho rằng:

- Hiệu ứng tâm thức: “Cũng trên quan điểm con người là một tiểu vũ trụ, tôi cũng tin rằng chúng ta có tâm trí xã hội, tâm trí vũ trụ, còn tâm thức, linh hồn của ta là bộ phận của tâm thức vũ trụ (có thể gọi là Thượng đế - Đáng sáng tạo), có cơ chế lan truyền tâm thức vũ trụ và tâm trí vũ trụ, tâm thức vũ trụ hình thành nên phần phi vật chất của vũ trụ. Đó là chiều tâm thức - một chiều vật chất mới của vũ trụ. Nó rất thuần khiết, bất biến, vĩnh hằng, ban bố khắp vũ trụ, trong suốt và trống rỗng, tĩnh lặng tuyệt đối, phi thời gian/ không gian (thời gian, không gian chỉ là thuộc tính của các quá trình vật chất), chứa đựng năng lượng vô tận làm nguồn gốc vạn vật, sinh ra "hiệu ứng tâm thức" qua hình thái nhận biết, ý thức, tình yêu, sáng tạo... Nó có tương tác với vật chất bằng "sóng tâm thức" góp phần hình thành các dạng vật chất khác nhau như sự sống, con người... thông qua bước nhảy vọt về dạng vật chất.”[9]

- Tâm tác và tâm thụ là gì? Tâm Tác - nhiều người có công năng đặc dị ở chỗ không dùng bất kì công cụ hữu hình hay phương tiện vật chất nào mà vẫn tác động được lên vật thể bên ngoài, thí dụ di chuyển đồ vật từ xa (télékinésie), bay lên trong không trung (lévitation)... thành tựu cao nhất trong lĩnh vực này là "đảo hải di sơn", "hô phong hoán vũ”. Hiện tượng này thường được biết dưới cái tên là P.K. (psychokinésie).

Vì ở đây cái Tâm là tác nhân duy nhất, "Bản chất của cái Tâm là nó có thể hiện thực hóa được bất kì điều gì mà nó nghĩ đến với cường độ tập trung đủ mạnh" (Vivekananda), nên chúng tôi gọi hiện tượng này là Tâm Tác. Tâm Thụ. Nhiều người có công năng đặc dị ở chỗ tri giác được sự vật bên ngoài, dù xa, dù gần về mặt không gian, dù trước, dù sau về mặt thời gian, sự vật ở bên trong thân hay bị che lấp bởi các thể cản quang mà không dùng tới các cơ quan giác quan sinh lý hoặc dụng cụ, máy móc... Thí dụ thần giao cách cảm, chỉ dẫn từ xa, nói chuyện vong, xem bói đoán mộng... Cận hiện tượng này được gọi là Ngoại Cảm, tức là cảm nhận thông tin qua những kênh bên ngoài các giác quan mà ai cũng có. Vì cái đứng ra cảm thụ ở đây chỉ là cái Tâm nên chúng tôi gọi hiện tượng này là Tâm Thụ. Tâm thụ, nhiều khi mang cái tên gọi quen đùng là Thấu Thi, mặc dù hiện tượng không dừng ở "nhìn", hoặc Thần giao cách cảm, mặc dù "thần" không chỉ là "giao" bằng cách "cảm" như ta thường hiểu, được phân làm hai loại: Tâm thụ không gian là khả năng nhìn thấy, nghe thấy... sự vật, vật thể trong không gian dù xa, dù dấu kín, Tâm thụ thời gian là khả năng nhìn thấy, nghe thấy... sự vật, vật thể trong thời gian dù thuộc quá khứ, dù thuộc tương lai, dù thuộc hiện tại nhưng lại không có cách nào biết đến được.

Nếu như trong mọi hiện tượng Tâm tác đều dễ dàng nhận ra vai trò của tâm trong trạng thái tập trung cao độ, thì hiện tượng Tâm thụ có chiều khó hiểu, khó tìm được tác nhân hơn nhiều. Theo thiển ý, tâm có khả năng "thụ” tối ưu khi giống như một tấm gương được lau sạch bong, do đó tính năng phản chiếu hiện thực chung quanh đạt trình độ tối ưu, tâm cũng thế, khi nó rỗng rang, tịch lặng tối đa, nó sẽ trở thành một tấm gương cực khổng lồ, ôm trọn cả vũ trụ, theo cả hai nghĩa không gian và thời gian, trong lòng nó, tức là trở thành Đại Viên Cảnh Trí. Hiệu ứng ấy thành tự qua phép thiền gọi là Vô Niệm, mà cứu cánh là Trí Tuệ Bất Nhã.(Tinh Tiến,Nguồn: Vấn đề tiềm năng con người, - Chungta. com, Cập nhật lần cuối: 07/03/2009 09:22:51 AM).

5- Quy luật Tự nhiên và Thượng đế, là một hay là hai? Không thể Thượng đế hóa quy luật điều khiển vũ trụ và năng lực siêu phàm của tư nhiên

Trong tiểu luận “Tôn giáo và khoa học tự nhiên”. Max Planck - Người khai sáng thuyết lượng tử, đã phân tích như sau:

Giống như trong quân đội hay nói chung, trong mỗi cộng đồng người mang sứ mệnh lớn thì trong tôn giáo cũng thế, biểu trưng và một nghi lễ nhà thờ phù hợp với biểu trưng ấy là hoàn toàn không thể thiếu; chúng mang ý nghĩa của cái cao cả nhất và đáng tôn kính nhất, cái mà trí tưởng tượng hướng lên trời cao đã sáng tạo ra, chỉ có điều không bao giờ được phép quên rằng, cái biểu trưng thiêng liêng nhất cũng có nguồn gốc con người….

Cho nên, những người thực chứng luận đủ mọi màu sắc đã quyết liệt chống lại sự hình thành các giả thuyết nguyên tử, và qua đó, chống lại sự thừa nhận các hằng số phổ quát đã nói ở trên. Điều đó dễ hiểu; bởi vì sự tồn tại của các hằng sồ này chính là sự minh chứng rõ rệt sự hiện hữu của một thực tại trong tự nhiên độc lập với mọi sự đo đạc của con người…Tổng kết lại chúng ta có thể nói rằng, khoa học vật lý đòi hỏi chúng ta thừa nhận sự hiện hữu của một thế giới hiện thực độc lập với chúng ta tuy nhiên đó là một thế giới mà chúng ta không bao giờ nhận thức được trực tiếp, mà bao giờ cũng chỉ có thể tri giác thông qua lăng kính của những cảm giác của giác quan chúng ta, và thông qua các sự đo đạc do những cảm giác ấy môi giới….

Nhưng sự kỳ diệu còn tiếp tục. Đó là một kết quả không thể nghi ngờ được của nghiên cứu vật lý, rằng các viên đá xây dựng cơ bản này của tòa nhà thế giới không phải nằm cạnh nhau trong những nhóm riêng lẻ không có một mối liên hệ nào, mà trái lại, toàn bộ chúng được gắn kết với nhau theo một kế hoạch độc nhất, hay nói cách khác, rằng trong mọi diễn trình của tự nhiên có một tính quy luật phổ quát ngự trị, và có thể nhận thức được ở một mức độ nào đó.

Nhưng điều mà bây giờ chúng ta phải xem là sự kỳ diệu vô cùng lớn, đấy chính là sự kiện rằng sự diễn đạt thích đáng nhất cho định luật này ắt sẽ gợi nên trong tâm trí hồn nhiên của bất kỳ ai ấn tượng rằng tự nhiên như thể được cai trị bởi một ý chí có lý tính và ý thức về mục đích. Một thí dụ đặc biệt có thể giải thích điều này. Như chúng ta đã biết, một tia sáng chiếu nghiêng vào bề mặt của một vật thể trong suốt, như bề mặt của nước, nó sẽ bị lệch đi khỏi hướng của nó khi xuyên qua bề mặt. Nguyên nhân của sự lệch hướng này là ánh sáng truyền đi trong nước chậm hơn trong không khí. Một sự chệch hướng như thế, hay sự khúc xạ cũng xảy ra ở trong bầu khí quyển, bởi vì trong những tầng không khí thấp hơn, có mật độ dày đặc hơn, ánh sáng truyền đi chậm hơn là so với ở những tầng cao hơn. Nếu bây giờ một tia sáng được phát ra từ một ngôi sao phát sáng để đi đến mắt của một người quan sát, đường đi của nó có một độ cong ít nhiều phức tạp do mức độ khúc xạ khác nhau trong những lớp khí quyển khác nhau (trừ phi ngôi sao ở đúng vào thiên đỉnh). Độ cong này hoàn toàn được xác định bởi định luật đơn giản sau đây: trong toàn bộ những quỹ đạo đi từ ngôi sao đến mắt, thì ánh sáng luôn luôn sử dụng quỹ đạo mà, để đi được, ánh sáng cần một thời gian ngắn nhất, với sự chú ý đến các vận tốc truyền khác nhau trong những tầng không khí khác nhau. Các photon, những hạt tạo thành tia sáng, ứng xử như những sinh vật có lý tính. Trong tất cả các đường cong có thể có được bày ra cho chúng, chúng luôn luôn chọn ra đường nào dẫn đến mục tiêu một cách nhanh nhất (HBTnhấn mạnh).

Định lý này có khả năng được khái quát hóa ở mức độ tuyệt vời. Sau tất cả những gì mà chúng ta biết vế các định luật của các hiện tượng ở trong một hình thể (Gebilde) vật lý bất kỳ, chúng ta có thể mô tả đặc trưng sự diễn biến của mỗi một hiện tượng với tất cả chi tiết bằng định lý rằng trong tất cả những diễn biến có thể hình dung được để đưa hình thể kia đi từ một trạng thái nhất định này sang một trạng thái nhất định khác trong một thời gian nhất định, thì diễn biến thực là cái mà với nó, tích phân theo thời gian của một đại lượng nhất định, gọi là hàm số Lagrange, đạt trị số nhỏ nhất. Nếu biết được biểu thức của hàm số Lagrange, thì người ta có thể xác định được diễn biến của hiện tượng thực sự xảy ra một cách trọn vẹn.

Những nhà nghiên cứu này tin rằng mình đã tìm thấy trong đó một dấu hiệu xác thực cho sự ngự trị của một lý tính cao hơn thống trị một cách toàn năng trên giới tự nhiên. Thực tế, qua nguyên lý tác dụng tối thiểu, một ý tưởng hoàn toàn mới được đưa vào khái niệm của tính nhân quả: Nguyên nhân tác động (causa effciens), là cái tác động từ hiện tại đến tương lai, và làm cho các trạng thái đi sau bị điều kiện bởi những trạng thái đi trước, rồi phối hợp với nguyên nhân cứu cánh (causa finalis), là nguyên nhân ngược lại lấy tương lai, tức một mục đích được định hướng nhất định làm tiền đề, và từ đó suy ra diễn biến cua những hiện tượng hướng đến mục tiêu đó. Tính nhân quả ấy chứa đựng tính chất mục đích luận rõ rệt, nhưng qua đó không phải là mang vào cái gì mới mẻ về nội dung hay thậm chí cái đối lập vào trong loại hình của tính quy luật tự nhiên. Đúng hơn, đó chỉ là một cách nhìn khác xét về hình thức, nhưng thực chất lại là một cách nhìn hoàn toàn bình đẳng. Tương tự như trong vật lý học, điều ấy cũng có thể đúng đối với ngành sinh vật học, nơi mà sự khác biệt của hai cách nhìn khác nhau sẽ mang những hình thức khác nhau sâu xa hơn…

Trong mọi trường hợp chúng ta có thể nói tóm tắt lại rằng theo tất cả những gì khoa học tự nhiên dạy cho ta, trong toàn bộ lĩnh vực của tự nhiên, trong đó chúng ta, con người trên hành tinh bé xíu của mình, đóng một vai trò vô cùng nhỏ bé, có một tính quy luật nhất định ngự trị, độc lập với sự hiện hữu của một nhân loại tư duy, nhưng nó lại cho phép, trong chừng mực nó có thể hiểu được bằng các giác quan của chúng ta, một sự diễn đạt tương ứng với một hành động có chủ đích (zweckmabig)….

Do đó, tính quy luật biểu thị một trật tự thế giới hợp lý mà tự nhiên và nhân loại đều phải phục tùng, nhưng bản chất đích thực của nó đối với chúng ta là không nhận thức được, và vẫn mãi như thế, bởi vì chúng ta chỉ nhận được tri thức (Kunde) từ đó qua những cảm giác đặc thù của chúng ta, những thứ mà không bao giờ loại bỏ được. Nhưng rồi, những thành quả thực sự phong phú của nghiên cứu khoa học tự nhiên đã cho phép chúng ta đi đến kết luận một cách chính đáng rằng chúng ta, bằng sự tiếp tục lao động không ngừng nghỉ, ít ra vẫn không ngừng tiến dần hơn mục tiêu không bao giờ đạt được và những thành tựu đó củng cố trong chúng ta niềm hy vọng về những hiểu biết luôn được đào sâu hơn về sự ngự trị của lý tính toàn năng đang chi phối giới tự nhiên…? Tôn giáo và khoa học tự nhiên gặp nhau trong câu hỏi về sự tồn tại, và về bản chất của một quyền năng cao nhất ngự trị bên trên thế giới, và ở đây các câu trả lời mà cả hai đưa ra là có thể so sánh được với nhau ở mức độ nào đó. Như chúng ta đã thấy, chúng không hề mâu thuẫn nhau, mà chúng nói lên một cách thống nhất theo hướng rằng:

Thứ nhất, có một trật tự thế giới hợp lý tồn tại độc lập với con người, và thứ hai, bản chất của trật tự thế giới này là không bao giờ nhận thức được một cách trực tiếp, mà chỉ có thể lĩnh hội được gián tiếp, hay linh cảm được mà thôi. Trong vấn đề này, tôn giáo sử dụng những biểu trưng đặc thù của riêng mình, trong khi khoa học tự nhiên chính xác sử dụng các đo đạc dựa trên các cảm giác của giác quan. Do đó, không có gì ngăn cản chúng ta, và chính bản năng ham muốn nhận thức của chúng ta khao khát một thế giới quan thống nhất đòi hỏi chúng ta phải đồng nhất hóa hai quyền lực tác động khắp nơi và cũng đầy bí ẩn: trật tự thế giới của khoa học tự nhiên và Thượng đế của tôn giáo. Theo đó, Thần tính (Gottheit) mà con người tôn giáo tìm cách tiếp cận bằng các biểu trưng của mình, là có cùng bản chất với sức mạnh có tính quy luật tự nhiên, mà các cảm giác của giác quan đã đem lại nhận thức cho người làm nghiên cứu ở một mức độ nào đó[10]. Thực ra QUYỀN NĂNG THƯỢNG ĐẾ= SỨC MẠNH CÓ TÍNH QUY LUẬT TỰ NHIÊN (HBT!)

Như thế là dần dần chúng ta đã rõ hơn về “năng lực ngoại cảm” (THỰC CHẤT LÀ NĂNG LỰC TƯỞNG THỨC?), sự thật đúng và cả hạn chế của nó, rồi cả cái không thật, thậm chí có chuyện giả dối, thậm chí hơn nữa là lừa bịp, mê tin ở đâu đó.

Nhưng có thể khẳng định là KHÔNG CÓ LINH HỒN VÀ THẾ GIỚI LINH HỒN theo nghĩa, như nhiều người lầm tưởng và khuyếch đại nó, kiểu trần sao âm vậy,thậm chí còn hơn cả trần gian, rất linh diệu, có thể mách bảo cho người sống để hoạt động có hiệu quả hơn, như chuyện tìm mộ bị “thần thoại hóa”, chẳng hạn!?.

Nhận thức như vậy, theo lý thuyết và hiện thực của tưởng thức cũng như khoa học hiện đại hạ nguyên tử thì rất duy vật nhân văn. Và cũng là tầm nhìn phức hợp của thuyết “Tâm siêu trường - phản - thông” trên nền tảng cả hiểu biết về vật chất và “phản vật chất”, phản vật thể,  cả vật chất tối…

Nhưng một lần nữa cho ta biết đâu là duy vật đâu là duy tâm khi luận giải về bí ẩn vũ trụ, bí ẩn của ý thức, vô thức và các trường mang thông tin - ý thức, trường “hồn- vong”.

 

6- Tin hay không tin Thượng đế, linh hồn, nhưng hầu như mọi người đều hướng tới cõi thiêng - văn hóa tâm linh, một cách khác nhau.

 

Bên cạnh suy nghĩ và đời sống Đời lại có đới sống Đạo.

Khoa hữu thần và cà triết lý của đa số tôn giáo, nhìn chung, đều bàn về (và thừa nhận) Đấng tạo hóa, Thượng đế hay linh hồn vĩnh cữu sau khi chết. Nhưng khoa học và triết lý duy vật, vô thần cũng nghiên cứu những vấn đề đó nhưng đã đi đến bác sự tồn tại Đấng tạo hóa, Thượng đế hay Linh hồn vĩnh cữu. Với một số khám phá mới, có thể khoa học hiện đại, chủ nghĩa duy hiện đại có nhìn nhận mới về linh hồn - thực ra chỉ là năng lượng - thông tin tàn dư và trường vong - trường là trườg vật chất còn lưu lại… sau khi con người qua đời. Nhiều hiện tượng ma quỷ hay nhập hồn, “nói chuyện với vong” chỉ là tưởng thức của “nhà ngoại cảm”…từ trong chiều sâu trực giác và vô thức của họ. Ý kiến này của đạo Phật cũng có ý nghĩa khoa học vô thần.

Cho nên dù theo trường phái nào, quan niệm nào, khác nhau ra sao thì hầu như ít hay nhiều (nhất là cư dân Việt Nam ta) hoặc đi theo lễ nghi tôn giáo, hoặc không theo lễ nghi tôn giáo nhưng lại theo lễ nghi tín ngưỡng dân gian, nghĩa là đều hương tới cõi thiêng, cõi tâm linh theo nghĩa đen của tư này. Đây là hành vi nhân sinh thực tiễn không tách rời với hiện tượng Thượng đế hay Linh hồn, từ bí ẩn của Tâm vũ trụ và con người.

Nguyên nhân của của xu hướng nói trên là trong cuộc sống con người gặp không ít nhũng rủi ro, thất bại không lý giải được, do chưa hiểu hay bất lực[11], sợ hãi trước thế lực bì ẩn (của thiên nhiên, của xã hội, giữa sự sống và sự chết của con người), nên phải trông nhờ vào các lực lượng siêu nhiên, hoặc ngoài sức mạnh của con người thế tục… Điêu này làm cho con người người trở nên bị động, yếu đuối trong cuộc sống, nhưng lại có mặt, chính nó nâng đỡ, giải thoát tạm thời những bất lực và sự sợ hãi trong bản thân họ. Mà nguyên nhân sợ hãi, yếu đuối đó lại có từ thực tế[12]. Việc hư cấu, tưởng tượng và tin vào một “thế giới tâm linh” như vậy đã được làm rõ về mặt khoa học tâm lý, phân tâm học và triết học duy vật biện chứng hiện đại.

 

Hoạt động tâm linh, đời sống tâm linh (TÍN NGƯỠNG) là một hiện thực có thật và mục đích là hướng thiện, lễ nghĩa với thánh thần, với tiền nhân, với tổ tiên, ông bà, cha mẹ… đã qua đời. Hoạt động tâm linh này không chỉ có ý nghiã đối với người quá cố hay thần thánh (thiên thần và nhân thần) mà quan trọng không kém là đối với người sống trong ý nghĩa giáo dục và nhân sinh, nhân bản và nhân văn.

Mặt trái của vấn đề này là hành vi mê tín dị đoan, cần lên án và loại trừ! Nhưng cũng cần tránh chủ nghĩa duy vật vô thần cực đoan.

Một thời nhân danh chủ nghĩa duy vật và vô thần có một số vùng quê đã chống mê tín dị đoan, phá bỏ chùa viền miếu mạo, những công trình tín ngưỡng tâm linh cùng với nghệ thuật kiến trúc cổ của nhân dân môt cách cực đoan theo kiểu duy vật tầm thường, vô thần tả khuynh. Nhưng ngày nay khi chuyển sang cơ chế thị trường, tự do dân chủ thì lại có hiện tượng nảy nở mê tín dị đoan, nhất là lợi dụng chuyện tìm mộ liêt sĩ, nói chuyện với “người âm” và đó là xu hướng “tự do hữu khuynh”,

Vấn đề tâm linh, đời sống tâm linh bao giờ cũng phức tạp, dù khoa học phát triển như thế nào, và không dễ gì phân giải thuần túy thuyết phục về một phía, duy lý cực đoan hay duy tình cực đoan cũng để lại hậu quả tiêu cực. Nhưng điều đó không phải là ba phải, trung dung, chiết trung.

Do vậy, theo chúng tôi, nghiên cứu, luận giải về mặt tự nhiên - xã hội xem thần thánh, linh hồn là gì, thực ra là gì, có hay không và ra sao, cũng như nghiên cứu đời sống tâm linh, mặt văn hóa - xã hội với sự phức tạp của nó, tất cả ở chiều sâu bản chất phổ quát nhất là thuộc vể triết học, hay có tính triết lý. Vấn đề là theo hướng nào, mê lầm/ mê tín hay khoa học, “chủ nghĩa duy tâm về tâm linh” hay “chủ nghĩa duy vật về tâm linh” mà thôi!

Những những thông tin mà qua tìm hiểu của chúng tôi trên đây chỉ là buớc đầu và qua đây cũng mong muốn có sự thảo luận để học hỏi và cho mọi đề cũng sáng tỏ dần dần, chứ ai cũng ngại thì khi nào cho biết (NHƯNG PHẢI CÓ VĂN HÓA TRANH LUẬN, tránh lối chỉ trích thô thiễn và trịch thượng).

Chúng tôi nghĩ rằng, đúng là cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Chúng ta nên tiếp tục nghiên cứu sâu những vấn đề nêu trên để có định hướng và xử sự đúng hơn trọng cuộc sống…



[1]Xem thêm, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Bản chất của ý thức, Đức Phật khai ngộ về tính Thấy, Nxb. Tôn giáo, 2005, tr.9- 54…

[2]Thứ hai, 19/10/2009 01:54' PM  -  Hồ Bá Thâm   hobatham@...

http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ban_chat_linh_hon_truong_vong/default.aspx

[3]http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ban_chat_linh_hon_truong_vong/default.aspx

[4]http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ban_chat_linh_hon_truong_vong/default.aspx

[7]Đạo Trường - Email: hoahongblackrose@yahoo.com (10/04/2009 11:42:41 AM)

[8](Võ Huân - Email: huanvo87@gmail.com(10/04/2009 06:24:51 AM).

[9]Bùi Quang Minh, chung ta.com, Nguồn: Doanh nhân 360, Cập nhật lần cuối: 31/03/2009 01:17:10 PM).

[10]Max Planck, Tôn giáo và khoa học tự nhiên. Max Planck - Người khai sáng thuyết lượng tử -TP Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2008, Nguyên Văn Trọng dịch. Chungta.com, cập nhật 05:00' PM - Thứ tư, 01/04/2009)

[11]Khoa học đến từ niềm tin vào nguồn gốc chủ yếu của sức mạnh của nó trong quan sát những hiện tượng bí ẩn – sấm sét, động đất, bệnh tật – những thứ dường như cần đến một sự can thiệp của thần thánh. Đã có một nàng tiên nga trong mỗi con suối, một ông thần rừng trong mỗi gốc cây. Nhưng với thời gian, phần lớn những bí ẩn đã được giải thích bằng những nguyên nhân thuần túy tự nhiên. Khả năng giải thích hiện tượng này hiện tượng khác không hoàn toàn xóa bỏ tín ngưỡng. Nhưng nếu con người tin vào Thượng đế vì vô vàn những bí ẩn dường như không có một cách giải thích nào khác, mà những bí ẩn ấy dần dần sáng tỏ khi thời gian trôi đi, thì người ta chỉ có thể chờ đợi một sự suy yếu của tôn giáo.(http://vanhoanghean.vn/goc-nhin-van-hoa3/những-góc-nhìn-văn-hóa/ton-giao-bi-khoa-hoc-quat-do)

[12]Trong “Về tuổi già” Cicéron đưa ra một lời an ủi nói rằng nỗi sợ chết là một sự ngu ngốc. Hai nghìn năm sau, ý kiến của ông vẫn luôn bất lực trong việc an ủi chúng ta. Về nỗi sợ chết, Philip Larkin viết thuyết phục hơn nhiều: Tôn giáo đã thử tìm ra một cách đặc biệt, để biết nỗi sợ mà không gì có thể đánh bật đi được… Nó muốn làm chúng ta lầm tưởng rằng chúng ta không bao giờ chết. Cái lí lẽ phỉnh phờ ấy chẳng có gì hợp lí. Liệu người ta có thể không sợ hãi gì về việc người ta sẽ không cảm thấy gì nữa, không nhìn thấy gì nữa? Mà đây chính là điều chúng ta sợ – không quang cảnh, không tiếng động, không xúc giác, không mùi không vị, không còn tình yêu, không còn ràng buộc. Một trạng thái tê liệt mà không ai có thể trở lại bao giờ.(http://vanhoanghean.vn/goc-nhin-van-hoa3/những-góc-nhìn-văn-hóa/ton-giao-bi-khoa-hoc-quat-do)

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577326

Hôm nay

2190

Hôm qua

2335

Tuần này

2525

Tháng này

224383

Tháng qua

130677

Tất cả

114577326