Những góc nhìn Văn hoá

Trà cốm

Trong số những loại trà lừng danh cổ kim, Trung Hoa nổi tiếng với Long Tỉnh trà, Nhật Bản nổi tiếng với Trà đạo, Việt Nam xưa nay vẫn nổi tiếng với Trà Thái.

Long Tỉnh trà là loại trà được trồng tại Long Tỉnh, Tô, Hàng Châu. Đặc điểm hàng đầu của nó là cánh trà nhỏ, nước trong xanh, thơm và ngọt. Trà đạo Nhật Bản được hiểu là cái đạo của cách uống trà, thưởng trà trở thành một nghi thức làm trong sạch tâm hồn hơn là thưởng thức vị trà. Trà Thái Việt nổi tiếng với tư cách là địa phương sản xuất được trà nổi tiếng nhất Việt Nam.

Tất cả những loại trà lừng danh mà chúng tôi vừa điểm ở trên và những loại trà khác, chủ yếu phục vụ cho giới tục nhân, tức hướng tới phục vụ người trần. Hướng đến thế giới linh thiêng thường sử dụng mỹ tửu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, có lẽ ít người biết đến, có một loại trà không hướng đến thế giới tục nhân, chỉ dành riêng phục vụ cho thế giới linh thiêng, thần thánh, dùng để cúng lễ trong những dịp giỗ chạp, hoặc sự kiện linh thiêng mang tính tôn giáo, theo những người này định danh là Trà cốm. Trà cốm trước hết là một loại trà, nhưng sự khác biệt với trà sen, trà nhài, trà cúc, trà ngâu, trà sói, thiết quan âm… là ở chỗ dùng cốm, chính xác là dùng sữa cốm ướp, “hà hơi”[1]cho trà. Chính điều này tạo nên nét đặc biệt của trà cốm - một loại trà độc đáo trong lịch sử trà Việt và trà Đông Á.

1. Lược sử và công năng của các loại trà trong mối tương qua với các tôn giáo

Ở ý nghĩa ban sơ của nó, Trà Trung Hoa mang ý nghĩa thực dụng cao. Theo truyền thuyết, trà ban đầu được dùng như một thứ thuốc trị bệnh[2], một loại nước giải nhiệt. Càng về sau, cùng với sự phát triển của gốm sứ, Trà dần trở thành một loại đồ uống gắn với văn hóa trà, đặc biệt phát triển từ thời Đường, Tống Trung Hoa trở đi.[3]

Theo quan niệm của cổ nhân Trung Hoa, trà sinh ra ở đỉnh núi linh thiêng, hấp thu linh khí của núi rừng trời đất. Người Trung Hoa có câu “danh sơn xuất danh trà”[4] Vì thế so với hoa mộc khác, trà hợp với con người. Cổ nhân Trung Hoa cho rằng, “trà và thảo mộc tối linh”, trà là “thần mộc linh thảo”,“tiên cốt của hoa mộc”[5].

Trà và Thiền

Về mối quan hệ giữa trà và Thiền phật, chúng tôi đã có một bài viết riêng[6], trong định hướng của bài viết này chúng tôi chỉ lược thuật lại vài điểm then chốt. Trong mối tương quan giữa trà và Thiền, trà đóng hai công năng cơ bản. Một là, trà là phương tiện để phật tử giác ngộ thông qua quá trình đun nước, kiếm củi, pha trà.[7] Hai là, sự tương thích giữa vị trà, ban đầu chát, sau thơm ngọt đọng lại, trùng với tiến trình tu thiền giác ngộ của Phật giáo[8]. Như vậy, mối quan hệ giữa Trà và Thiền Phật vừa là sự tương đồng giữa quá trình giác ngộ và đặc trưng của vị trà và đồng thời là phương tiện để phật tử giác ngộ trong quá trình tu tập. Trong mối tương quan này, Trà không phải là một vật phẩm dâng lên một vị Phật theo nghĩa là một nhân cách Phật, có nhân dạng. Bởi trong Phật giáo chỉ có trạng thái đốn ngộ chứ không có nhân cách Phật. Chính ở đây, trà đóng vài trò là phương tiện của quá trình đốn ngộ. Đúc kết về mối quan hệ này, trong lịch sử Trung Hoa có câu nói lừng danh: Trà thiền nhất vị, hoặc trà phật nhất vị, tức trà và Thiền, phật đồng vị[9].

Trà và Nhà nho

Chính nhân quân tử Nho giáo cho rằng, “dĩ trà khả nhã chí” (dùng trà có thể làm thanh nhã tâm hồn), bởi Trà là loại “kiết tinh bất khả ố” (tinh khiết không thể ô nhiễm), từ đó nhà Nho cho rằng, thưởng trà có thể giúp tự tỉnh, thanh lọc tâm hồn, giúp tâm hồn cao thượng.[10] Như vậy từ quan niệm đặc biệt trà hút tinh chất của trời đất nên có thể giúp tâm hồn thanh sạch, nhà nho cho rằng trà vốn có phẩm tính thanh sạch, gần với nhân cách quân tử nên họ dùng trà tự làm thanh sạch tâm hồn. Như vậy, trà trong quan niệm của nhà nho, có công năng giúp làm thanh sạch tâm hồn. Nho giáo cũng không hướng đến việc dùng trà như một loại tiên phẩm dâng hiến những nhân cách lý tưởng của giới mình.

Trà và Đạo

ẩm trà-thành tiên[11] là cụm từ then chốt trong quan niệm về trà của Đạo gia. Từ quan niệm Trà là loại cây đặc biệt, sống trên đỉnh núi, hấp thụ những tinh hoa của trời đất, nên phẩm tính của Trà có thể giúp cho người tu dưỡng Đạo gia có thể trở thành tiên. Thực chất của quá trình này là khi thưởng trà, giúp người tu dưỡng có được tinh thần, trạng thái sảng khoái, khi đó, trạng thái này chính là trạng thái thoát tục thành tiên theo quan niệm của Đạo gia. Như vậy, công năng của trà trong quan niệm của Đạo gia là Trà vừa có phẩm tính của tiên dược vừa là phương tiện giúp quá trình tu luyện thành tiên. Như vậy, Trà trong quan niệm của Đạo gia cũng không phải là thứ tiên dược dâng hiến cho thần tiên, nó là một linh phẩm phục vụ cho quá trình thành tiên của tục nhân.

Trà Đạo Nhật Bản

Trà đạo trong văn hóa Nhật Bản được hiểu là cái đạo của việc uống trà. Việc uống trà được đẩy trở thành một đạo, chứng tỏ trà có một vị trí thiêng liêng đặc biệt trong văn hóa Nhật Bản. Quan niệm trà có vị trí đặc biệt như vậy, cũng giống như Nho, Đạo, Phật nhìn ra phẩm chất thanh linh của trà do hút được tinh túy sương nắng sớm của đất trời[12]. Tuy nhiên, việc trà trở thành đạo thực chất là một quá trình để con người có thể trở về được với bản tính chân như của mình. Đây là hai ý nghĩa và công năng hàng đầu của Trà đạo Nhật Bản. Như vậy, Nhật Bản quan niệm, bản thân trà là thứ thẩm mỹ độc đáo, cần có một đạo, con đường, quy trình nghiêm ngặt mang tính thẩm mỹ cao để thưởng thức nó, đồng thời nó còn là phương tiện để tìm lại với bản tính cá nhân. Trong Trà thư Kakuzo Okakura viết: “ Ở Nhật Bản, uống trà không chỉ là sự lý tưởng hóa một hình thức ẩm ngoạn, mà hơn thế, nó đã được nâng lên như một tôn giáo về nghệ thuật sống ở đời. Uống trà chỉ là cái cớ để người ta tôn vinh sự tinh khiết và thanh tao, là một chức năng thiêng liêng khi chủ và khách cùng ngồi lại và chung tay tạo nên một khoảng khắc thanh thản kỳ diệu của con người trên cỗi thế gian”[13]

Như vậy, trà Đạo Nhật Bản không quan niệm nó là một thứ linh phẩm dâng hiến lên thánh nhân, nó là linh thánh phục vụ cho tục nhân.

2.Trà Cốm Việt

Vài nét về trà cốm

Trà cốm trước hết là một loại, cùng loại với trà sen, trà nhài…Tức là nguyên liệu gốc vẫn là trà mộc. Tuy nhiên, điểm thú vị là, nếu như các loại trà sen, trà nhài, trà cúc, trà sói…ướp bằng các loại hoa thì trà cốm được bằng sữa cốm non của lúa nếp. Cốm được làm từ những lúa nếp non, dẻo, thơm, hay nói một cách hình ảnh là trạng thái cốm, con gái của lúa nếp. Tức là độ thơm ngon nhất, thanh sạch nhất của lúa nếp. Theo những người ướp trà có kinh nghiệm, quy trình ướp trà cốm diễn ra như sau: trước hết, khâu nguyên liệu đóng vai trò then chốt: chọn được loại cốm ngon. Thực chất cái được gọi là cốm ở đây là sửa lúa nếp non nằm ở trạng thái giữa đòng và thành gạo. Ở trạng thái sữa của hạt gạo, người làm cốm lấy về, ép lấy sữa gạo, hay gọi là sữa cốm. Sau khí lấy được sữa cốm, người ướp trà ướp với trà, để khoảng 5h, sau đó tiến hành xao trà.[14] Theo như những người ướp trà, hàng năm thường chỉ có nguyên liệu cho một vụ ướp trà cốm. Mỗi đợt chỉ đủ nguyên liệu ướp được khoảng 10kg trà cho những người đặt trước. Có năm hoặc lạnh hoặc do thiếu nguyên liệu, không ướp được kg trà nào.

Những công đoạn làm trà cốm rất công phu, khác với những loại trà nhài, trà sen, trà nhài …có tương đối đều và theo mùa vụ, trà cốm đặc biệt khó tính. Theo những chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm, không phải vụ lúa nào cũng có thể có cốm để ướp trà. Cốm ướp trà đòi hỏi phải có thể tỏa ra mùi thơm mới có thể ướp được trà. Đặc trưng của cốm là rất “khó ở”, thời tiết quá lạnh, cốm sẽ mất mùi hương, theo ngôn ngữ của dân ướp trà, cốm chết. Vì vậy, trà cốm cực kỳ hiếm trong những nhà ướp trà chuyên nghiệp.

Khác với những loại trà đắt đỏ như trà sen, không quá phổ biến như trà nhài, trà cúc, trà cốm không đắt như trà sen, nhưng không phổ biến như những trà còn lại, bởi tính “khó ở” của cốm.

Công năng của trà cốm

Khác với những trà sen, trà nhài, trà cúc… trà cốm trước tiên không dành cho giới tục nhân, Trà cốm trước tiên được dùng với chức năng tôn giáo. Trà cốm được làm để trước tiên dâng trong các đền tế lễ, thực hiện nghi lễ chức năng tôn giáo. Những người đặt trà cốm và làm trà cốm với mục đích hướng đến cõi thiêng, dâng hiến cho cõi thiêng. Do vậy, người ướp trà cốm cũng làm việc với tâm hồn thanh sạch, với một thái độ nghiêm cẩn. Một phần do nguyên liệu, một phần do công năng nên trà cốm về cơ bản không có nhiều và tồn tại cực kỳ hạn chế trên thị trường. Sau khi hết chức năng tôn giáo, trà cốm được ban phát với tư cách là lộc thánh cho mọi người. Nó là trà, nhưng được quan niệm và được hiểu là đã được thánh hóa, mang ý nghĩa linh thiêng.

Vậy tại sao trà cốm được dùng với công năng tôn giáo

Tại sao người Việt dùng trà cốm, mà không phải là trà ướp hoa khác phục vụ cho công năng tôn giáo của trà. Trước tiên là trà mộc, tại sao không dùng trà mộc. Có lẽ lý do dễ hiểu là, trà mộc được hiểu với nghĩa là sản phẩm thô, nên rất khó được dùng phục vụ cho công năng này. Trà nhài thì chắc chắn là bị loại khỏi công năng này đầu tiên vì tính tục của loại hoa mà được dùng để ướp. Trà sen, là loại trà có thể nói là gần nhất và có cơ sở nhất để có thể được người Việt lựa chọn để phục vụ cho công năng này. Sen vốn là loài hoa gắn bó mất thiết với tôn giáo Phật giáo. Sen cũng là loại hoa đặc biệt thanh sạch và có hương thơm đặc biệt. Với tất cả những đặc tính như vậy, nhưng thật lạ là người Việt không lựa chọn trà sen phục vụ cho công năng tôn giáo mà vẫn chỉ thực hiện công năng phục vụ cho tục nhân. Trà sen không đạt thì đương nhiên trà Sói, Thiết quan âm khó mà đạt được công năng này.

Vậy lý do nào người Việt chọn cốm ướp trà thực hiện công năng tôn giáo của người Việt? ý nghĩa của nó là gì? Chúng tôi thử lý giải bằng cách phân tích nét đặc sắc của cốm so với các loài hoa khác được dùng để ướp trà. 

Như trên đã chỉ ra, xét về nguyên liệu, nếu như các loại nguyên liệu dùng để ướp trà khác là hoa: sen, nhài, sói, ngâu, cúc…..thì cốm không thuộc họ hoa. Hoa và hương thơm của nó là những tinh hoa của trời đất, tự nhiên ban tặng cho con người. Đương nhiên, hoa sen ướp trà sen hoàn toàn có thể thực hiện công năng tôn giáo hoàn hảo thay cho trà cốm. Tuy nhiên, căn cốt vấn đề lại nằm ở chỗ, so với tất cả các loại nguyên liệu ướp trà, cốm không phải là hoa. Cốm gốc vốn là sữa gạo nếp cái. Suy nguyên có thể luận giải, tôn giáo và văn hóa của người Việt có cội nguồn liên quan mật thiết với văn hóa Đông Nam Á và văn hóa nông nghiệp trồng lúa. Ướp hương thơm của lúa gạo thực hiện công năng tôn giáo nó cũng đồng dạng với những cấu trúc như sôi thắp hương ngày cúng giỗ, lễ, Tết, bánh chưng ngày Tết thắp hương tổ tiên. Suy cho cùng, cốm nếp là loại sản phẩm đặc biệt nhất, tinh chất nhất của nông nghiệp lúa nước, cội nguồn sâu xa của nền văn hóa người Việt và bao năm nay vẫn đóng vai trò cốt lõi trong đời sống vật chất và tinh thần người Việt nên việc thăng hóa chức năng chuyển từ công năng thực dụng sang công năng tín ngưỡng tôn giáo cũng là cái lí lẽ riêng và phù hợp với lô gic của văn hóa và con người Việt Nam, đúng với tâm thức uống nước nhớ nguồn của người Việt.

3. Kết luận

Như vậy, có thể thấy, khác với các loại trà lừng danh khác đã được biết đến như Trà Long Tỉnh Trung Quốc, Trà Đạo Nhật Bản, Trà cốm xuất hiện và tồn tại trước hết thực hiện chức năng tôn giáo. Ở Việt Nam, xưa nay trà thường được dùng trong những gia đình người Việt mỗi khi nhà có việc, dùng tiếp khách, ít khi trà được dùng chuyên biệt như một chức năng tôn giáo. Ngày nay, nếu quan sát trực quan, trà ngày càng được tục hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, nhìn sâu, trong sâu thẳm vẫn còn tồn tại loại trà hướng đến một chức năng đặc biệt, trong một thế giới Đông Á đặc biệt nổi tiếng với trung tâm trà Trung Hoa, và Nhật Bản, Trà cốm nổi lên như một loại trà độc đáo, riêng biệt, mang chứa đặc sắc tâm hồn và văn hóa Việt. Ở một ý nghĩa nào đó, nó cũng khiêm nhường, kín tiếng và thanh mảng và khó nắm bắt như văn hóa Việt, hồn Việt. Phải chăng đó cũng là một nét rất Việt.  
 


[1]Chữ dùng của Nguyễn Tuân, trong tác phẩm Cô Dó hay có tên gọi khác là Xác Ngọc Lam, trong tuyển tập Yêu ngôn của ông.

[2]Trung Quốc nhân đích nhàn tình dật chí, Nhà xuất bản Đại học sư phạm Quảng Tây, Quế Lâm, Hoàng Trác Việt và  Đảng Thánh Nguyên chủ biên, 2008, tr….. (bản Trung Văn)

[3]Trung Quốc nhân đích nhàn tình dật chí, Nhà xuất bản Đại học sư phạm Quảng Tây, Quế Lâm, Hoàng Trác Việt và  Đảng Thánh Nguyên chủ biên, 2008 tr.130. (bản Trung Văn)

[4]Trung Quốc nhân đích nhàn tình dật chí, Nhà xuất bản Đại học sư phạm Quảng Tây, Quế Lâm, Hoàng Trác Việt và  Đảng Thánh Nguyên chủ biên, 2008 tr ….        (bản Trung Văn)

[5]Trung Quốc nhân đích nhàn tình dật chí, Nhà xuất bản Đại học sư phạm Quảng Tây, Quế Lâm, Hoàng Trác Việt và  Đảng Thánh Nguyên chủ biên, 2008 tr.129  (bản Trung Văn)

[6]  Xin xem thêm: Bàn về mối thâm duyên giữa trà và thiền phật, Văn hóa Nghệ An….

[7]rong phần này chúng tôi sẽ tiếp tục đi vào chủ yếu là điểm qua những bước những quy trình chủ yếu là thưởng trà được xem là một khâu trong quá trình tu luyện tiến đến quá trình giác ngộ. Trong nhà chùa, trong công án thiền thường có cảnh, những chuyện người nhà Phật pha trà. Từ khâu đầu tiên, kiếm nước, kiếm củi, đun nước, pha trà thưởng trà đều thấm đẫm tinh thần thiền Phật. Trong tất cả những công đoạn trên, nếu như những văn nhân pha trà thưởng trà theo sở thú cá nhân thì đương nhiên nó sẽ không toát lên một ý nghĩa giáo lý nào, đơn thuần nó chỉ là sự cẩn trọng, thanh tú mang tính cá nhân. Ngoài thế tục thì càng đơn giản hơn. Nhưng trong Phật giáo, đặc biệt là Thiền quy trình này là quy trình thiền hoá trà đặc biệt đậm nét. Kiếm nước, kiếm củi, đun nước, cháng ấm, pha trà, thưởng trà là một quy trình đánh dấu sự giác ngộ của mỗi phật tử tu thiền. Người phật tử tu thiền đi kiếm củi không đơn thuần là hành động kiếm củi, nó là một khâu tu tập Thiền. Sắc màu thiền phật yêu cầu người phật tử phải chuyên chú, tâm yên, thành tâm trong quá trình kiếm củi. Khi kiếm nước cùng là một quá trình tìm đến với sự thanh lọc tâm hồn, trở về nguồn, và làm thanh sạch tâm hồn. Đun nước pha trà là một khâu đặc biệt quan trọng, lượng củi, lượng lửa sao cho vừa đủ, khống chế lửa cho cháy sao cho nước sôi theo đúng quy trình của nó. Củi cho đủ độ, lửa sôi đến tầm và đúng quy trình thì nước pha trà cũng vừa “đắc đạo”, tức là khi đó người tu thiền đã chuyên chú vào những khâu nhỏ nhất, tâm người tu phật không động, suy tư sang những chuyện khác. Củi đủ độ, nước sôi đủ độ, lửa cháy vừa đủ, mỗi việc, mỗi hành động đạt đến độ chuẩn mực của nó cho thấy người phật tử đang thành tâm và chuyên chú vào việc tu tập Thiền định. Tiếp đến là khâu pha trà. Lượng trà và nước pha trà vô cùng quan trọng. Nó quyết định trà co đến độ “đạt đạo” hay không. Lượng nước và lượng trà vừa đủ sẽ tạo ra một ấm trà ngon. Trạng thái vị trà và vị phật quyện vào làm một, trạng thái đó cũng chính là trạng thái tu thiền đạt đạo. Trang thái này trong văn hoá trà thiền phật là trạng thái “Trà phật nhất vị”, Trà thiền nhất vị.( vị của Trà và vị của phật là một vị) Phật tử pha trà đã đạt đạo. Nếu như đến đây mới chỉ dừng lại ở công phu tu luyện đạt đạo được thể hiện qua quy trình pha trà thì khâu thưởng trà lại là khâu cao hơn trong quá trình tu luyện của Thiền phật. Trạng thái tinh thần Thiền phật và tinh thần trà trở thành “nhất vị”, không tách biệt.

[8]Cũng không giống như thưởng trà trong đời sống thế tục, cũng có nét gần gũi với thưởng trà của các văn nhân sĩ phu, thưởng trà đạt đỉnh cao nhất trong Phật giáo là đạt đến ý vị thẩm mỹ của trà. Ý vị thẩm mỹ là ý vị của một quy trình đi từ những vị chát đến vị ngọt tự nhiên của lá trà, tức là từ quá trình xuyên qua thẩm thấu cho được trong vị chát có vị ngọt, vị thơm nhẹ nhàng nhưng bền lâu. Khi thưởng trà, vị chát, đắng ban đầu mất đi và đọng lại là mùi thơm của hương trà và vị ngọt nhẹ nhàng của trà. Quy trình nay lại chính trùng khớp với quy trình tu luyện để đạt tới trạng thái đốn ngộ trong Thiền Phật. Phải chăng sự trùng hợp này là nguyên nhân cốt yếu, là duyên lõi của mối thâm duyên này. Khi người ta thẩm xuyên qua được vị chát cũng chính là lúc con người hưởng được vị ngọt, hương thơm của cuộc đời, phật tử ngộ ra cảnh giới hạnh phúc, nhà Lão Trang ngộ ra đại mỹ của vũ trụ. Mặt khác, khi thưởng trà, với những công dụng của trà như giúp thanh tĩnh, an lạc tâm hồn, tạo ra sự sáng khoái minh mẫn, khi đó con người ta trở về với trạng thái an tĩnh, an nhiên, sáng suốt. Tác dụng này của trà cũng là đích lớn nhất của quá trình tu luyện để giác ngộ trong Thiền phật. Cảnh giới thẩm mỹ cao nhất mà trà có thể mang lại cho con người lại chính là cảnh giới tu thiền đốn ngộ khát khao đạt tới. Do vậy, Phật tử dùng trà sẽ giúp cho quá trình tu luyện đạt hiệu quả hơn. Thưởng được chân vị của trà cũng là lúc đốn ngộ, liễu ngộ trong tu thiền. Đây chính là trạng thái Trà Phật nhất vị/trà thiền nhất vị.  Có lẽ chính vì lý do này mà nhiều nghìn năm nay Trà và Phật giáo đã bén duyên và thâm duyên cùng nhau đi qua thời gian, xuyên qua không gian, bện quyện vào nhau vừa thâm tình, ý vị vừa khó nhận biết

[9]Trung Quốc nhân đích nhàn tình dật chí, Nhà xuất bản Đại học sư phạm Quảng Tây, Quế Lâm, Hoàng Trác Việt và  Đảng Thánh Nguyên chủ biên, 2008tr.144 (bản Trung Văn)

[10]Trung Quốc trà văn hóa và Nho đạo thích, Nhà xuất bản Quang Minh Nhật Báo, 1999.tr. 47 (bản Trung văn)

[11]Trung Quốc trà văn hóa và Nho đạo thích, Nhà xuất bản Quang Minh Nhật Báo, 1999.tr. 16  (bản Trung văn)

[12]Xem thêm Bách khoa thư lạc thú cổ truyền của người Trung Hoa cổ đại, NXb Đại học dân tộc Quảng Tây, do Hoàng Trác Việt và Đảng Thánh Nguyên chủ biên,tr, 2008,

[13]Trà thư, Kakuzo Okakura, Nxb Văn học, 2009, tr. 59

[14]Chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn với một gia đình ướp trà cốm nổi tiếng Hà Thanh, người ướp trà không cho nói rõ tên, và không nói chi tiết quá quy trình ướp và kỹ thuật ướp. Vì vậy, chúng tôi chỉ có thể biết được những thông tin như trên. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577343

Hôm nay

2207

Hôm qua

2335

Tuần này

2542

Tháng này

224400

Tháng qua

130677

Tất cả

114577343