Tuy nhiên, các nhân vật, không một ai biết điều gì đã và đang xẩy ra với cuộc đời họ, ngoài những tin đồn, đoán thất thiệt cùng với một bầu trời riêng tư của ngôi nhà và các nhân vật trong đó dần dần biến mất.
Trong một màn hơi nước bao trùm thành phố, bầu trời, không gian thành phố, nơi ẩn giấu chứa đựng kí ức dần biến mất. Trong một màn hơi nước không ngừng dâng lên, làm ngưng lại các chuyển động sống, làm lây lan các trạng thái, làm mù mờ tất cả thông tin, làm người ta ngạt thở.
Câu chuyện của tiểu thuyết là thứ không thể kể bằng ngôn từ. Đó là câu chuyện mà sự thật từ nó chỉ có thể nhận được bằng sự truyền dẫn của linh giác, của một thứ phi ngôn ngữ.
2.Chính vì lí do nội tại này đã dẫn đến một hình thức hết sức đặc biệt của tác phẩm.
Gần 300 trang viết trong một mạch chuyển động liên tục của những con chữ, giống như một cuộc sắp đặt của hình ảnh, của màu sắc, của nhịp điệu, ngôn từ, của những câu, không có một dấu phẩy nào.
Và vì không có một dấu phẩy nào, tác giả sử dụng rất nhiều từ nối, nối những câu, những mệnh đề độc lập với rất nhiều động từ, khiến cho mạch văn đi nhanh, luôn sống động, luôn tạo ra các thế năng, làm lực đẩy cho các hành động tiểu thuyết.
Tuy nhiên, toàn bộ các hành động, tình tiết, câu chuyện lại được diễn đạt trong sự tiết chế tối đa. Dường như, chúng đã được cô đặc lại, được sắp đặt theo một chủ đích. Chúng không thuần túy là các hành động, tình tiết, câu chuyện, mà trở thành những ám tượng có chiều sâu và đa nghĩa: bầu trời của một thành phố nổi tiếng, khung cửa sổ nhìn ra bầu trời, vườn hoa, những cánh cửa ghi bên ngoài bằng sáp trắng chữ X, cô gái màu hồng có cặp môi hồng, ánh sáng và bóng tối trong các căn phòng, sự sắp đặt các đồ vật, dòng nước thoát từ căn nhà tràn ra phố, chiếc taxi đỗ trước cửa ngôi nhà bao giờ cũng lăn bánh khi những nhân vật X đi ra phố…
Những điệp khúc lắp đi lắp lại có vai trò như những nhắc lại có nhịp điệu được sắp đặt trong nghệ thuật thị giác. Và chúng cũng tạo những ấn tượng, những cảm giác cho người đọc y vậy. Thay cho ngôn từ được tiết chế tối đa, là không gian dành cho những cảm giác được cảm nhận trực tiếp. và vì là cảm giác, nên nó mơ hồ, nó để mở ra những không gian trong mỗi người đọc, để họ tự lấp đầy bằng trải nghiệm của chính mình.
3.Những chi tiết trong “ Thành phố bị kết án biến mất”: một ngôi nhà không số, và những ngôi nhà không số khác trong thành phố, những bầu trời xanh khủng khiếp, và những bầu trời không xanh, những đại lộ chạy đến vô tận, những con phố khiến người ta đi lạc không biết lối về, những nhân vật có cùng tên X, những cô gái luôn mặc váy hồng, đôi môi tươi cười… giống như các biểu tượng, được sắp đặt cạnh nhau, đối nghịch nhau, hỗ trợ nhau, tạo nên những ngữ nghĩa mới, hàm súc, đa nghĩa, mà nếu bằng ngôn từ thông dụng, thật khó diễn đạt.
Thật ra, Trần trọng Vũ là một nghệ sĩ thị giác. Trong nhiều năm trời, anh đã kiên quyết đoạn tuyệt với hội họa giá vẽ để đi tìm những các cách biểu đạt mới trong nghệ thuật. Một con đường gian nan và quyết liệt.
Anh đã được công chúng Việt Nam biết đến trong một số triển lãm “Chúc sống lâu”, “Vườn A4” ( trong vai trò hướng dẫn nhóm sinh viên trương ĐHMT Yết kiêu thực hiên), “Những bức thư được gửi từ một người”, …và những triển lãm ở nhiều quốc gia khác. Điều đễ thấy nếu bạn quan sát, đó là tất cả những tác phẩm của Trần Trọng Vũ, đều luôn có trong đó không gian cho khán giả. Ở bên trong tác phẩm của Vũ, người ta có thể đi lại, trò chuyện, trao đổi, tự mình cảm nhận, hoặc im lặng…Cùng trong không gian đó, điều mỗi người cảm nhận là những phiên bản khác nhau của tinh thần tác phẩm.
“Thành phố bị kết án biến mất”, là một tác phẩm nằm trong chuỗi tác phẩm của một dự án nghệ thuật “Những đề nghị của lời và hình” của Vũ, nếu nhìn ở một góc độ khác, chính là cuộc sắp đặt của hình họa, màu sắc và các ngôn từ. Một cuộc sắp đặt chưa từng có.
4.Nếu như sự tiết chế của ngôn từ, sự chặt chẽ của bố cục, hình ảnh, sự sắp đặt đầy chủ ý của nhịp điệu, của câu cú… đòi hỏi sự quản lí của lí trí, của tư duy logic, thì ngược lại, đọc một mạch toàn bộ “Thành phố bị kết án biến mất” của Trần Trọng Vũ, thì điều đem lại chính là niềm thương cảm. Niềm thương cảm cho số phận con người, cho sự đơn độc, sự vô vọng, và đầy bất trắc trong cuộc sống của họ. Một xã hội phi nhân tính mà con người bé nhỏ, yếu ớt không có bất cứ khả năng nào để chống đỡ.
Vì vậy mà niềm thương cảm con người tràn ra khỏi tác phẩm. Niềm thương cảm vì vậy mà nó vượt ra khỏi các địa danh, ra khỏi thời gian. Giống như là sự bi mẫn của các Đức Phật.
........................................................................................
(*): (Tiểu thuyết Trần Trọng Vũ – NXB Văn hóa thông tin và Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Đông Tây 2014)