Những góc nhìn Văn hoá

Hậu quả từ đơn giản hóa và phong trào hóa các khái niệm khoa học

Nền học thuật ở các quốc gia luôn có những dấu ấn, đặc điểm riêng mang tính lịch sử của nó. Nhưng, như một quy luật phát triển trong thời đại toàn cầu hóa, các nền khoa học đều có những nét chung trong sự giao lưu với các nền khoa học khác và chịu ảnh hưởng của các xu hướng phát triển toàn nhân loại: Đó là tinh thần khoa học khách quan và lấy con người là trung tâm để phát triển. Các khái niệm khoa học sẽ được chứng minh và lan truyền qua các nền khoa học khác nhau như một nhu cầu tất yếu.

Sẽ còn nhiều ý kiến để luận bàn về tính chất/bản chất của nền khoa học xã hội Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám-1945. Nhưng trên một góc độ nhất định, từ ban đầu, nền khoa học đó có chức năng và rồi trở thành một tính chất, tuyên truyền là chủ yếu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của yếu tố chính trị. Đây không phải là ý muốn chủ quan của một cá nhân hay của một chính sách cụ thể, mà nó là hệ quả của một quá trình hình thành, phát triển trong điều kiện lịch sử khắc nghiệt, trái khoáy của Việt Nam. Đó là một nền học thuật của đất nước chiến tranh và phải gánh gánh nặng là một mặt trận góp phần giải phóng dân tộc.

Điểm xuất phát của nền học thuật Việt Nam sau 1945 là rất thấp, dựa trên một nền tảng dân trí lạc hậu, yếu kém khi mà phần lớn người dân mù chữ. Vậy nên trong những ngày đầu bắt tay xây dựng nền khoa học xã hội, những người lãnh đạo đã mặc định cho nó chức năng tuyên truyền và xem đây là một mặt trận trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Do vậy, nền học thuật đó ít đề cao tính sáng tạo nhưng lại coi trọng làm sao để nhân dân hiểu về cuộc kháng chiến, ủng hộ và tham gia vào cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước XHCN. Nghĩa là từ khi sinh ra, nền khoa học xã hội Việt Nam đã mặc nhiên đảm nhận nhiệm vụ tuyên truyền tư tưởng, chính sách và đường lối giải phóng dân tộc đúng như tinh thần của Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943.

Nhìn ra thế giới, chính trị hóa khoa học là một xu hướng khá phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Mọi thể chế đều mong muốn đem nền học thuật phục vụ cho công tác quản trị xã hội của mình. Nhưng, một nền học thuật tiến bộ phải được phát triển trên cơ sở có sự độc lập tương đối với chính trị. Nền học thuật có thể chịu ảnh hưởng nhất định của chính trị nhưng nó cần có quyền tự quyết về tư tưởng học thuật, phương pháp và lý thuyết nghiên cứu, hướng đến sự tiến bộ nhân loại và phục vụ mục tiêu tối thượng là phát triển con người. Nhà nước không can thiệp và quyết định vào những yếu tố đó của nền học thuật. Một nền học thuật tiến bộ được phát triển dựa trên sự phát triển trí tuệ cá nhân trong sự tự do học thuật của họ.

Trở lại với thực tiễn Việt nam, chúng ta có thể nhận biết vấn đề trên qua một số hiện tượng. Trước hết, đó là sự độc tôn tư tưởng. Để độc tôn tư tưởng học thuật, người ta đã thực hiện một cuộc đấu tranh không khoan nhượng với các tư tưởng học thuật khác với nguồn tư tưởng được coi là chính thống. Cuộc đấu tranh đó đã tác động sâu sắc và ảnh hưởng lâu dài trong giới khoa học từ giữa thế kỷ XX đến nay. Có thể quá trình đấu tranh này bắt đầu từ sau khi chiến dịch Biên giới 1950 thắng lợi, khai thông biên giới Việt-Trung và mở ra cánh cửa rộng lớn để Việt Nam kết nối với thế giới XHCN qua người láng giềng đầy tham vọng. Đồng thời, đó cũng là sự khởi đầu cho việc áp đặt sự ảnh hưởng đến Việt Nam của Liên Xô và Trung Quốc. Những ảnh hưởng đó đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội Việt Nam lên cao trong khi giai đoạn trước, đấu tranh dân tộc mới là nội dung chủ yếu. Những sai lầm tả khuynh trong Cải cách ruộng đất, Cải tạo tư sản và tiểu tư sản, Nhân văn Giai phẩm…đã loại bỏ vai trò của một bộ phận trí thức vốn được đào tạo từ trước cách mạng dù các trí thức này đa số đã tham gia kháng chiến, phục vụ cách mạng nhưng vẫn không khỏi liên lụy vì thành phần gia đình.

Mặt khác của quá trình này là chính trị hóa con người ngay từ khi bắt đầu đưa đi đào tạo để về làm cán bộ nghiên cứu. Những người được đưa đi Liên Xô, Trung Quốc và một số nước CNXH khác được tuyển chọn rất kỹ lưỡng và chỉnh huấn chính trị rất nghiêm khắc cả trước, trong và sau khi đi học. Ngoài đoàn đầu tiên đi học Liên Xô năm 1951 (gồm 21 người chủ yếu là con em thuộc thành phần gia đình địa chủ, phú nông, tư sản hay tiểu tư sản yêu nước) thì các đoàn đi học càng về sau này đều là con em công nông có điểm xuất phát vô cùng thấp về học vấn nhưng tinh thần cách mạng lại rất cao. Sau khi học hành xong, họ được sử dụng làm cán bộ cốt cán và lãnh đạo quản lý trong các lĩnh vực học thuật, góp phần định hướng tư tưởng, phương pháp nghiên cứu. Không thể phủ nhận sự đóng góp to lớn cho đất nước của những người được Đảng và Nhà nước đưa đi học ở nước ngoài, nhất là trong điều kiện chiến tranh với bao sự khó khăn, thiếu thốn và nguy hiểm. Họ đã tận tâm phục vụ đất nước  nhưng về năng lực sáng tạo khoa học thì có những hạn chế nhất định. Cộng thêm sự khép kín của đất nước trong hệ thống XHCN, và, trong chiến tranh triền miên, nên nền khoa học xã hội của chúng ta đã không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển một cách bình thường.

Sau khi công cuộc Đổi mới được phát động [1986], nhất là từ những năm 90 của thế kỷ XX, những nhận thức về sự lạc hậu của nền học thuật Việt Nam càng trở nên rõ ràng hơn. Làm thế nào để thay đổi điều đó đã trở thành một vấn đề lớn của cả giới khoa học và lãnh đạo nhà nước. Nhưng vì các lý do khác nhau nên việc đa dạng hóa tư tưởng học thuật, quan điểm nghiên cứu, mở rộng tự do học thuật vẫn gặp không ít khó khăn. Sau hơn hai thập kỷ, nền học thuật Việt Nam vẫn chưa có được một bước đột phá căn bản. Đó là một trong những lý do tại sao sau hơn nửa thế kỷ phát triển và hơn một phần tư thế kỷ hội nhập, khoa học xã hội của chúng ta vẫn còn khuôn sáo… và chưa thể vươn lên để phát triển trí tuệ sáng tạo.

Sẽ khó để lý giải hết các nguyên nhân của tình trạng đó nhưng chúng ta có thể tìm một góc độ để xem xét mức độ tương quan của nền khoa học xã hội Việt Nam với các nền khoa học ở các quốc gia khác. Ở đây, chúng tôi xin được nhấn mạnh quá trình vận dụng các khái niệm khoa học từ nước ngoài để nói lên một khía cạnh tại sao cũng là những vấn đề, những nội dung của các khái niệm khoa học được thế giới xem là tiến bộ mà khi vào Việt Nam lại có nhiều biến thể. Theo chúng tôi, ngoài nhiều con đường, nhiều yếu tố tác động khác thì có hai vấn đề mà cần quan tâm là việc “đơn giản hóa các khái niệm” và “phong trào hóa các khái niệm” là con đường gây nên sự khúc xạ của các khái niệm khoa học, là một minh chứng cho sự “hội nhập nửa vời” của nền khoa học xã hội Việt Nam.

Đơn giản hóa các khái niệm khoa học là quá trình bình dân hóa nội dung các khái niệm khoa học để nhiều người ở các trình độ nhận thức khác nhau có thể hiểu được. Ở Việt Nam, bắt nguồn từ chức năng tuyên truyền của nền khoa học xã hội mà xu hướng Việt hóa các khái niệm khoa học cũng khá phổ biến. Đến nay, nó vẫn đang tồn tại và được một số người cổ vũ để biện minh cho một số công việc mà họ làm là hợp lý với xu thế phát triển của nhân loại.

Việt hóa các khái niệm khoa học không phải là tiêu cực, sai trái. Ngược lại, đặt trong vào điều kiện nước ta thì việc này còn nhiều ý nghĩa tích cực to lớn. Trước hết, là để phục vụ công tác giảng dạy trong điều kiện tài liệu thiếu thốn và điểm xuất phát của người học còn thấp. Ví dụ các thầy trò trong lĩnh vực y học thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954) thể hiện rất rõ về vấn đề này: Một nhiệm vụ quan trọng của các bác sĩ (được đào tạo từ thời Pháp) là Việt hóa các khái niệm, thuật ngữ và tri thức cơ bản để giảng dạy cho học trò có đủ khả năng chữa bệnh để tham gia kháng chiến. Nhưng có một điều thú vị là một số thuật ngữ quan trọng sau khi đã giảng giải cho học trò thì họ vẫn gắn liền với nguyên gốc ngoại ngữ của nó bởi họ sợ cách dịch/hiểu qua Việt hóa chưa thể hiện hết ý nghĩa của thuật ngữ, khái niệm đó. Sau nữa, là để dễ dàng truyền bá tri thức phổ thông cho nhiều tầng lớp với trình độ văn hóa khác nhau. Vô hình trung quá trình Việt hóa khái niệm khoa học lại trở thành quá trình đơn giản hóa các khái niệm khoa học. Nhưng có phải tất cả các tầng lớp ở các trình độ nhận thức khác nhau đều phải hiểu các khái niệm khoa học hay không?

Đơn giản hóa khái niệm khoa học dần ăn sâu vào nhận thức của nhiều người và đến đỉnh điểm của nó, các khái niệm, và có cả các định nghĩa được hiểu theo cách dân gian vẫn gọi là “hiểu nôm na”. Nhiều khái niệm vốn có những mệnh đề, nội hàm quan trọng lại được xem xét dưới một góc độ đơn lẻ theo mối quan tâm của một cá nhân hay một bộ phận. Có thể đơn cử vài ví dụ: Phát triển bền vững được hiểu đơn giản là phát triển không chỉ cho hôm nay mà còn không ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ sau; Xã hội hóa được hiểu một cách cơ học là có nhiều tổ chức, cá nhân, cơ quan trong xã hội góp tiền vào thực hiện một việc gì đó; Hay tái cơ cấu là điều chỉnh một vài bộ phận của một hệ thống đang thấy có vấn đề… Những cách hiểu đơn giản, cơ học như vậy được một lớp ngôn từ “rất khoa học” che lấp nên có thể không sai nhưng làm cho người vận dụng không hiểu hết, không bao quát được hết nội hàm khái niệm khoa học, tạo nên tình trạng hiểu thế nào cũng cảm thấy đúng. Điều này làm cho các chương trình nghiên cứu dựa vào cơ sở các khái niệm khoa học trở nên khuyết tật, thiếu hiệu quả những vẫn được thông qua.

Phong trào hóa các khái niệm khoa học là quá trình thúc đẩy việc vận dụng các khái niệm một cách ồ ạt sau khi đã đơn giản hóa nội dung của nó. Phong trào hóa các khái niệm khoa học làm cho việc vận dụng các khái niệm này ra ngoại biên giới của học thuật, tạo nên các phong trào xã hội trong hoạt động học thuật. Các khái niệm khoa học được đề xuất từ các công trình nghiên cứu và được phát triển qua các sinh hoạt học thuật của giới nghiên cứu khoa học. Khi các khái niệm khoa học được giới nghiên cứu nhận thức và phát triển sẽ tạo cơ sở cho nhiều người tìm cách kiến giải, nhìn nhận về bản chất của các vấn đề nghiên cứu thông qua nội hàm của khái niệm đó. Nói cách khác, khái niệm khoa học tạo ra sự thay đổi trong nhận thức của con người và góp phần tạo nên những phong trào hành động để giải quyết các vấn đề tự nhiên, xã hội, văn hóa và con người theo những nhận thức mới. Các khái niệm khoa học, vì thế mà có sức lan tỏa ra nhiều nền học thuật, nhiều nền văn hóa khác nhau một cách nhanh chóng. Như vậy, để khẳng định một khái niệm khoa học thường có hai quá trình là nhận thức và vận dụng nghiên cứu các vấn đề đặt ra. Nhận thức khái niệm khoa học là quá trình tạo lập, tranh luận và xây dựng khái niệm. Từ đó, xác định vai trò cho khái niệm khoa học đó. Vận dụng là quá trình tư duy và hành động thực tiễn qua các khái niệm khoa học trong các vấn đề cụ thể. Đó cũng là quá trình đi sâu nghiên cứu vấn đề cụ thể và xây dựng các mô hình phát triển trên cơ sở các khái niệm khoa học. Nếu quá trình nhận thức về khái niệm khoa học không được thực hiện nghiêm túc, đúng đắn thì việc vận dụng khái niệm khoa học sẽ thiếu chính xác, không hiểu quả và còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội và cho nền học thuật. Để nhận thức đầy đủ nhất các khái niệm khoa học cần có nhiều nhà nghiên cứu tham gia tranh luận trên tinh thần khoa học. Phân tích như vậy để thấy chúng ta thiếu gì trong quá trình nhận thức và vận dụng các khái niệm khoa học vào thực tiễn phát triển của đất nước.

Sự đồng nhất tư tưởng nghiên cứu như vậy làm cho nền học thuật của Việt Nam bị bình quân hóa, đại chúng hóa, thiếu tư duy phản biện và đặc biệt thiếu các trường phái nghiên cứu khoa học có quan điểm khác nhau. Bên cạnh đó, sự sáng tạo mang tính cá nhân không được khuyến khích đã tạo ra một tính cách, một tâm lý ôn hòa của giới học thuật. Họ rất sợ tranh luận trực diện vì sợ mất lòng nhau. Có chăng cũng chỉ “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Thay vì tranh luận khoa học để hiểu sâu thêm vấn đề thì giới nghiên cứu cười với nhau để rồi ai hiểu theo cách người nấy và vận dụng theo mục đích riêng. Điều này một mặt tạo sự đa dạng, đa chiều trong nhận thức về các khái niệm khoa học. Nhưng vì thiếu tranh luận khoa học để đẩy sâu nhận thức về nội hàm khái niệm nên tạo ra sự chia lẻ, manh mún các khái niệm khoa học, dẫn đến cách hiểu khái niệm khoa học kiểu “thầy bói xem voi”.

Sự khuyết thiếu tranh luận, sự nhỏ lẻ, đơn giản trong nhận thức đã khiến quá trình vận dụng các khái niệm khoa học vào xây dựng chương trình phát triển thiếu hợp lý và kém hiệu quả. Không những vậy, quá trình nhận thức khái niệm khoa học không được coi trọng trong nền học thuật Việt Nam trong khi việc vận dụng các khái niệm lại thường ồ ạt theo phòng trào, có lúc còn đẩy thành cao trào giống như một phong trào quần chúng. Do có nhiều hạn chế như đã phân tích nên các phong trào này thường mang tính hình thức, kết quả thực tiễn hạn chế. Không những vậy, nó còn bị một số người lợi dụng phong trào học thuật để làm giàu cho mình và đẩy những hậu quả vốn nặng nề lại cho cộng đồng, cho xã hội. Vậy nên nhiều người bi quan đã xem những chương trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam là những cuộc rửa tiền, rải/giải ngân với các ngôn từ đẹp đẽ nhất và những hậu quả nặng nề nhất cho cộng đồng.

Tóm lại, với một nền khoa học như vậy thì sự tiếp cận các nền khoa học tiến bộ trên thế giới là rất khó khăn. Việc tiếp nhận các khái niệm khoa học mới một cách đơn giản cùng với phong trào hóa trong việc vận dụng các khái niệm trong môi trường thiếu tranh luận học thuật đã làm biến đổi, méo mó nội dung của các khái niệm, biến các khái niệm khoa học thành các quan niệm về các vấn đề khoa học. Tình trạng này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xây dựng chiến lược phát triển đất nước./ .

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577403

Hôm nay

2267

Hôm qua

2335

Tuần này

2602

Tháng này

224460

Tháng qua

130677

Tất cả

114577403