Thời sự mấy hôm nay có vấn đề một giáo sư hiệu phó Trường Đại học Bách khoa Hà Nội bị nghi đạo văn. Bài này nhân cơ hội, đưa ra vài phân tích về quyền sở hữu trí tuệ và đạo đức của người làm khoa học.
Thời sự mấy hôm nay có vấn đề một giáo sư hiệu phó Trường Đại học Bách khoa Hà Nội bị nghi đạo văn. Bài này nhân cơ hội, đưa ra vài phân tích về quyền sở hữu trí tuệ và đạo đức của người làm khoa học.
Đạo đức của một người làm khoa họcthật ra rất là giản dị: câu đầu môi «cái nào của César thì trả cho César» thể hiện tập quán nhất thống: tôn trọng tuyệt đối tác quyền. Đó là một cách làm việc vừa nói lên sự tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của người khác vừa là tự trọng.
Tức là hoàn toàn không được dùng tài liệu, kết quả hay công trình của người khác rồi ký tên mình.
Giáo trìnhcũng thuộc quyền sở hữu của người viết. Có cập nhật thì cũng phải ghi tên tác giả nguyên thủy và ghi thêm tên người cập nhật.
Không thể nói rằng những cái hay, cái tốt từ tài liệu cũ thì phải lấy để viết.
Cũng không thể quan niệm rằng chép giống nhau là đặc trưng của sách giáo khoa.
Có những giáo viên mới ra trường, chưa đủ thì giờ và khả năng viết giáo trình thì không có gì cấm họ dùng giáo trình của người tiền nhiệm với hai điều kiện:
.được tác giả đồng ý;
. nêu tên tác giả với học trò mình
Sự đồng ý của tác giả là một điều kiện cần thiết. Không thể nào suy diễn rằng người chết chắc cũng đồng tình.
Quyền sở hữu trí tuệ cũng áp dụng cho những tài liệu chưa hay không xuất bản.
Một luận văn ra trường thường không được xuất bản, một số luận án Tiến sĩ cũng thế. Các giáo trình cũng là những tác phẩm sáng tạo dù có in ấn xuất bản hay không. Và nếu có sáng tạo thì có quyền trí tuệ. Ta không có quyền sao chép hay mượn đem về rồi cho tên mình vào.
Đó là nói theo tập tục của những nước tham gia hay thừa nhận Công ước Berne.
Công ước Berne (1)
Nguyên thủy Công ước được ký ngày 9.9.1886, tại Berne (Thụy sĩ), được chỉnh sửa nhiều lần qua các kỳ họp ở Paris, Berlin, Roma, Bruxelles, Stockholm và lần sau cùng là ở Paris năm 1979.
168 nước ký tham gia công ước này, đồng ý chấp nhận quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có Việt Nam – Việt Nam tham gia từ ngày 26.10.2004.
Công ước Berne gồm hơn 40 điều khoản đi từ định nghĩa các tác phẩm được bảo vệ, các tiêu chỉ để áp dụng tác quyền, thời gian được bảo vệ, vấn đề tác quyền xuyên quốc gia, …
Văn bản này quan trọng vì được đại đa số các quốc gia toàn cầu tham gia, đã đưa ra những định nghĩa khung và một khuôn mẫu pháp lý cho vấn đề sở hữu trí tuệ. Công ước Berne ra đời từ hơn một thế kỷ nhưng được tu chỉnh bằng các hội nghị tiếp theo, như đã ghi trên, nên vẫn còn cập nhật.
Một số điều khoản đặc biệt được dự trù cho các nước đang mở mang (6 điều, phụ lục) «rộng lượng» hơn với các nước này để họ có thêm khả năng tiếp cận với những công trình quốc tế mà không phải trả đúng giá các bản quyền .
Ngoài ra, Công ước Berne cũng để cho mỗi hệ thống pháp luật của từng quốc gia có quyền định nghĩa, bổ túc và ấn định chi tiết các thể thức áp dụng văn bản sao cho thích hợp với đặc thù của xã hội mà vẫn tôn trọng các ý hướng đạo của Công ước (điều1, khoản 2 chẳng hạn cho định nghĩa tác phẩm được bảo vệ).
Tác phẩm nào được bảo vệ ?
Thông thường, có ba điều kiện để thành một tác phẩm được bảo vệ:
. có một sinh hoạt sáng tạo
. sự sáng tạo này đã thành phẩm chứ không là rải rác hay rời rạc từng bộ phận
. sản phẩm độc đáo chưa hiện hữu trước đó
Trong sở hữu trí tuệ, ta có thể kể các tác phẩm văn chương, hội họa, điêu khắc, âm nhạc, các bài báo khoa học, các chương trình tin học, các phát minh, sáng tạo kỷ thuật, máy móc, và cả trong các phát minh về sự sống (các giống lúa hay ngũ cốc chẳng hạn), …
Công ước Berne đi xa hơn nữa và 8 khoản trong điều 2 ghi rõ những dạng khác nhau của các tác phẩm được bảo vệ – theo đó ngoài những gì vừa nêu ở đoạn trên còn có cả các bài thuyết trình, bản vẽ của kiến trúc sư, bản đồ của nhà địa lý học, …nghĩa là tất cả những gì hội đủ ba điều kiện (sáng tạo, thành phẩm và chưa có trước đó) ba điều kiện đã nêu lên ở trên, là được bảo vệ.
Theo nguyên tắc, không cần thủ tục gì hết để thực thi quyền này.
Thế nhưng, trong thế giới kinh tế thị trường, những sản phẩm công nghệ thì cần trình tòa (brevet hay patent) để khẳng định quyền sở hữu trí tuệ.
Trong khoa học thì ngày đăng báo là bằng chứng cho biết tác giả đầu tiên của khám phá.
Để áp dụng quyền sở hữu trí tụê trong công nghệ, thông thường ta phân biệt thông tin hay nguyên tắc và sản phẩm. Thông tin thì không có sở hữu trí tuệ. Còn sản phẫm thì được bảo vệ. Thí dụ như trong công nghệ, khái niệm bao cao su là một thông tin (đó là phương thức bảo vệ trong quan hệ giới tính). Các mẫu mã và hiệu của các bao cao su thì có thể trình tòa và được bảo vệ.
Nội dung quyền sở hữu trí tuệ
Quyền vật chất
. phát hành, in ấn, trình bày trước công chúng dưới mọi hình thức, bán buôn chuyển nhượng, dịch sang ngôn ngữ khác, sản xuất ra hàng loạt, …
. quyền khai thác dưới mọi hình thức có thể.
Quyền tinh thần
. tư cách cha đẻ, tác giả của tác phẩm.
. quyền được thừa nhận hay tôn vinh của xã hội,
. quyền được bảo vệ sự tròn vẹn của tác phẩm và cấm người khác cắt xén hay làm méo mó sai lệch tác phẩm.
Thông thường quyền sở hữu trí tuệ được bảo đảm suốt cuộc đời của tác giả và từ 50 tới 70 năm – tùy theo ấn định cụ thể của từng quốc gia – sau khi tác giả qua đời (cho hai thế hệ người thừa kế). Sau đó tác phẩm sẽ được xem như thuộc về vốn văn hóa chung của xã hội
Đa phần các tác phẩm nhạc cổ điển Tây phương (Beethoven, Bach, Mozart, Schubert, …) không còn phải trả tác quyền. Có chăng là trả tiền những cách diễn đạt đặc biệt của nhạc công X hay Y nếu ta theo cách thể hiện đó – quyền này gọi là quyền sở hữu trí tuệ đi kèm.
Tại sao cần bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ?
. Cho những tác phẩm văn chương, mỹ thuật, nghệ thuật là để khuyến khích sự sáng tác và sáng tạo đồng thời bảo đảm quyền tinh thần của tác giả .
. Đối với các nhà khoa học, bảo vệ sở hữu trí tuệ là cách vinh danh những người tận tụy với khoa học và tìm tòi khám phá.
. Cho những sáng chế công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ cũng theo theo chiều hướng trên. Những phát minh là tối cần cho công nghệ.
. Cho những thương hiệu, là để bảo vệ thông tin cho người tiêu dùng (hàng thật- hàng giả) và bảo đảm một sự cạnh tranh trong sạch – Phải biết rằng ở các thương hiệu cũng như trong công nghiệp, công tác nghiên cứu phát triển (recherches et développement) tốn nhiều kinh phí. Bảo vệ sản phẩm đầu ra là khuyến khích các thương nghiệp tìm tòi và nghiên cứu để cuối cùng giúp công nghiệp phát triển.
Bảo vệ sở hữu trí tuệ như thế tạo được một khung cảnh rất thích hợp cho sáng tạo.
Những ngoại lệ?
1. Phần mềm tự do, từ thập niên 80, khởi xướng bởi một số chuyên gia có ý thức hệ chống quyền lực thương mại của các ông trùm máy tính và cổ vũ cho sự phát triển của các chương trình tin học không phải mua. Ở đây, các tác giả theo đuổi một cứu cánh cao hơn quyền lợi cá nhân và mang «tiến bộ» đến cho mọi người. Cái kiểu “Ở đời muôn sự của chung/Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”.
2. Từ mươi năm nay, các Đại học Bỉ đều đưa lên trang mạng những công trình khảo cứu các Tiến sĩ, nghiên cứu sinh trong ý thức hệ chia sẻ kiến thức, góp “vốn” vào gia tài tri thức của nhân loại mà không đòi hỏi một đền bù nào (2)
Sở dĩ các khoa học gia chấp nhận công bố các khám phá của mình vì họ muốn mang phần đóng góp của mình. Vã lại, họ tin chắc rằng không ai sẽ đi …ăn cắp các kết quả đó.
Khuynh hướng này sẽ, về lâu về dài, một mặt góp phần phát triển khoa học nhanh hơn. Và mặt khác đưa trình độ khả năng tiếp cận khoa học của dân tình lên cao hơn.
Lời chót
Nói đến sở hữu trí tuệ có lẻ cũng phải đề cập đến một vấn đề thời sự khác:
Về những trích dẫn văn chương cho các sách giáo khoa. Con số hàng triệu đô la đã được đưa ra khi nói về tiền bản quyền có thể phải trả cho các tác giả được trích dẫn trong các sách giáo khoa.
Trường hợp này đã được các nước trong Công ước Berne giải quyết một cách nhẹ nhàng bằng cách xin phép các tác giả được trích dẫn, không đền bù, để theo đuổi mục đích đào tạo một tầng lớp người đọc trẻ. Những người này sẽ có khả năng mua sách sau đó. Hơn thế, đem các trích dẫn vào sách giáo khoa thì cũng như là một hình thức quảng bá không công cho tác giả !
Giáo dục thế hệ trẻ thuộc hàng ưu tiên trong bậc thang giá trị đạo đức và tất cả tác giả mà các sách giáo khoa cần trích dẫn đều sẳn sàng chấp nhận cho trích dẫn không tiền bản quyền. Dĩ nhiên, đó là hiện trạng của các nước Tây Âu.
Việt Nam đã tham gia vào Công ước Berne, ta cũng có thể hành xử như thế, tiết kiệm được ngân sách mà lại hợp lý hợp tình.
……
(1) nguyên văn Công ước Berne bằng tiếng Pháp có thể đọc được ở đây:
http://www.copyright.ht/hypertext/berne1.htm
(2) đây là ba liên kết với các chỗ mà ba Đại học lớn nhất ở Bỉ cho đăng các công trình của các khoa học gia:
http://www.bib.ulb.ac.be/fr/bibliotheque-electronique/index.html
http://orbi.ulg.ac.be/news?id=03
http://www.uclouvain.be/374269.html
239
2333
2707
224565
130677
114577508