Chưa ai khẳng định được thời điểm chính xác của sự ra đời loại hình dân ca này, song, “từ thế kỷ XVII – XVIII,dân ca Ví, Giặm đã phát triển và trở thành một hình thức diễnxướngdân gian phổ biến của người dân xứ Nghệ với sự tham gia của nhiều lớpngười trong xã hội, từ người lao động đến giới văn nhân, nho sĩ như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Quýnh... ”[1], và giai đoạn sau này có Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý… là những nhà nho có công làm phong phú, tô đậm thêm tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần đoàn kết dân tộc chonhững làn điệu Ví, GiặmNghệ Tĩnh.
Cũng như các loại hình diễn xướng dân gian khác, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã luôn thích ứng để tồn tại và phát triển cùng xã hội, trở thành yếu tố văn hóa không thể thiếu của người dân xứ Nghệ. Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập cho đến nay, môi trường diễn xướng đã có những thay đổi nên đề tài và hình thức thể hiện của Ví, Giặm đã thay đổi theo, phù hợp với tình hình và nhu cầu mới của công chúng. Thông qua các hình thức văn nghệ quần chúng, sinh hoạt câu lạc bộ, trình diễn trên sân khấu, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng và đưa vào dạy trong trường học, Ví, Giặm đã được bảo tồn, lưu giữ trong cộng đồng.
Theo kết quả kiểm kê năm 2012, 2013 phục vụ công tác lập hồ sơ trình UNESCOcủa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Trung tâm Bảo tồn Phát huy di sản dân ca xứ Nghệ tỉnh Nghệ An, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Tĩnh và Viện Văn hóa, Nghệ thuật Việt Nam, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh có hơn 800 nghệ nhân và người thực hành ở 260 làng thuộc 104 xã ở 27 huyện của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh; tổng sốcó 75 nhóm/câu lạc bộ dân ca Ví, Giặm với khoảng gần 1.500 thành viên, là do chính quyền địa phương thành lập”[2]. Việc thành lập hệ thống Câu lạc bộ hát dân ca cũng như việc đưa dân ca vào trường học, dạy hát dân ca trên đài phát thanh - truyền hình, tổ chức các hội thi, hội diễn, liên hoan dân ca đã tạo ra không gian văn hóa mới cho Ví, Giặm được thực hành và phát triển.
Những thông số trên cho thấy hiện trạng của di sản văn hóa phi vật thể dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Sở dĩ dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh có thể tồn tại với sức sống mạnh mẽ qua thời gian như vậy là do ý nghĩa vàchức năng quan trọng của nó đối với đời sống xã hội, donhững đặc tính đậm chất địa phương, cởi mở về nội dung và nghệ thuật của loại hình di sản văn hóa phi vật thể này. Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, “Ví, Giặm có đặc tínhđịa phương về thang điệu, điệu thức, tiết tấu, giai điệu và giọng hát… Ca từ bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể (hát Ví), 5 chữ (hát Giặm), cô đọng, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hát”2. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là kết quả của sự sáng tạo về giai điệu và lời ca bằng sắc thái ngôn ngữ địa phương, dễ dàng ứng tác, dễ đặt lời mới vớinội dung miêu tả cuộc sống hết sức đa dạng về lịch sử, về đời sống lao động cần mẫn, về tình yêu quê hương, đất nước, con người, tình yêu đôi lứa, tình nghĩa thủy chung, kính trên nhường dưới mang tính giáo dục sâu sắc, phảnánh thế giới quan, nhân sinh quan và những tập tục lâu đời, truyền thống tốt đẹp trong ứng xử xã hội của nhân dân địa phương, góp phần làm cho kho tàng dân ca của xứ Nghệ nói riêng, của Việt Nam nói chung thêm đa dạng, phong phú.
Với những giá trị và đặc tính nêu trên, dân ca Ví, Giặm gần gũi với mỗi người dân ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh; họ yêu thích và cùng nhau sáng tạo, giao lưu, trình diễn, trong cộng đồng, trên sân khấu và coi Ví, Giặm là đặc sản, là niềm tự hào của quê hương xứ Nghệ. Vì những giá trị riêng có ấy, dân ca Ví, Giặm còn trở thành nguồn cảm hứng, là chất liệu cho các tác phẩm âm nhạc, ca khúc, ca kịch đương đại được công chúng cả nước yêu thích. Đây chính là nhân tố quan trọng giúp dân ca Ví, Giặm có khả năng tồn tại lâu bền. Vì vậy, khi được tin Chính phủ cho phép, chính quyền cùng nhân dân địa phương hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã phối hợp với các cơ quan chức năng ở Trung ương khẩn trương lập hồ sơ dân ca Ví, Giặm để trình UNESCO trước ngày 31 tháng 3 năm 2013 theo quy định. Hồ sơ đã qua các vòng thẩm định và sẽ được Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể xem xét lần cuối tại kỳ họp lần thứ 9 của Ủy ban vào đầu tháng 11 năm 2014 tới đây tại Trụ sở chính của UNESCO tại Paris, Cộng hòa Pháp.
Tuy nhiên, ở giai đoạn hiện nay, Việt Nam là nước đang phát triển, đang nỗ lực hội nhập sâu và rộng với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa và hiện đại hóa, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh không khỏi phải đối mặt với những nguy cơ nhất định do cơ cấu kinh tế địa phương thay đổi, môi trường sản xuất, đời sống văn hóa, xã hội với lối sống, thị hiếu, chuẩn mực đạo đức, ngôn ngữ và nhiều tập quán xã hội khác thay đổi dẫn đến môi trường diễn sướng thay đổi. Những phường mộc, phường vải, phường nón… không còn như xưa, nguy cơ hiện hữu là các bài bản cổ không cóđiều kiện để thực hành; các nghệ nhân nắm giữ, thực hành Ví, Giặm đã cao tuổi và mất dần, mang theo họ cả kho tàng tri thức, kỹ năng và bài bản cổ về dân ca nói chung, ví, Giặm nói riêng, trong khi đó, số người kế thừakhông còn nhiều. Một số người thực hành hiện nay nắm chưa thật vững kỹ thuật trình diễn và nội dung các bài bản truyền thốngnhưng đã muốncải biên hoặc “sáng tác” mới, nếu không thận trọng sẽlàm thay đổi, thậm chí sai lệch di sản.Cách thức trình diễn, cách hát các làn điệu dân ca cổ bị mai một nhiều, tính sáng tạo trong thực hành dân ca Ví Giặm đã bị hạn chế, không còn khả năng đối đáp ngẫu hứng nhanh nhạy như xưa mà chủ yếu dựa vào bài bản có sẵn. Ngày nay, Ví, Giặm được biết đến nhiều hơn thông qua các bài hát mới sáng tác lấy cảm hứng từ Ví, Giặm nhiều hơn. Do vậy, để bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh trong xã hội đương đại, cần thiết phải xác lập những phương pháp tiếp cận thích hợp và đưa ra những biện pháp bảo vệ di sản mang tính thiết thực và bền vững.
Trên cơ sở những đặc thù của thể loại dân ca Ví, Giặm do cộng đồng sáng tạo trong suốt quá trình lao động, sản xuất và sinh hoạt văn hóa như đã nêu ở trên, chúng tôi thiết nghĩ cần tiếp cận bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể này theo một số hướng sau:
1. Tiếp cận cộng đồng
- Cộng đồng là người sáng tạo, là chủ sở hữu di sản, do vậy, cần coi cộng đồng là trung tâm – đối tượng chính của sự quan tâm bảo tồn di sản, như Điều 15 Công ước UNESCO 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đã quy định: “Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mỗi quốc gia thành viên cần phải nỗ lực đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân vào việc sáng tạo, duy trì và chuyển giao loại hình di sản văn hóa này và cần tích cực lôi kéo họ tham gia vào công tác quản lý”. Theo đó, cộng đồng cần được cung cấp thông tin và có hiểu biết về pháp luật bảo vệ di sản văn hóa, về ý nghĩa và nội dung các hoạt động bảo vệ di sản mà họ đang nắm giữ; vì vậy cộng đồng cũng cần được đào tạo, được tạo điều kiện tiếp cận và giao lưu học hỏi những kinh nghiệm tốt khác về thực hành và bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể;
- Cộng đồng phải là người được hưởng lợi từ các hoạt động/dự án bảo tồn di sản họ nắm giữ.
2. Tiếp cận toàn diện, liên ngành
- Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh vốn được sáng tạo và thực hành trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt văn hóa, tinh thần. Do vậy, việc bảo tồn và phát huy cần phải được nhìn nhận toàn diện, từ nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm khía cạnh vật thể và phi vật thể, hiện vật và môi trường diễn xướng, không gian văn hóa liên quan.
- Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh có thể được thực hành ở mọi lúc, mọi nơi, không bị hạn chế bởi những điều cấm kỵ hay không gian thiêng, do vậy, có thể nhìn nhận việc bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh theo phương pháp liên ngành, từ góc độ phát triển văn hóa, du lịch và kinh tế tại địa phương như các quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, phát triển ngành nghề kinh tế, du lịch và xây dựng nông thôn mới cần quan tâm tới việc hỗ trợ cho dân ca Ví, Giặm có cơ hội tồn tại, phát huy và phát triển.
3. Tiếp cận có tính bền vững
Để dân ca Ví, Giặm được bảo tồn và phát huy giá trị một các bền vững, cần đảm bảo:
- Có cơ chế, chính sách phù hợp của Nhà nước (từ Trung ương tới địa phương) tạo điều kiện cho dân ca Ví, Giặm được thực hành, duy trì và trao truyền liên tục, lâu dài;
- Chủ thể văn hóa và cộng đồng phải được giữ vai trò chính, nắm giữ, duy trì và trao truyền di sản còn nhà khoa học hỗ trợ công tác sưu tầm, nghiên cứu và hướng dẫn chuyên môn;
- Đảm bảo hài hòa về quyền lợi giữa chủ thể văn hóa, người dân/cộng đồng địa phương và Nhà nước, đặc biệt trong những trường hợp khai thác giá trị của di snả Ví, Giặm nhằm phát triển du lịch.
Trên cơ sở những quan điểm tiếp cận trên, chúng tôi xin đề xuất một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh cụ thể như sau:
-
Các cơ quan chức năng tiếp tục khuyến khích, hỗ trợ và phối hợp với cộng đồng liên quan triển khai công tác nghiên cứu, kiểm kê nhằm nhận diện ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn về dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh; tư liệu hoá, xây dựng cơ sở dữ liệu về dân ca Ví, Giặm và tạo điều kiện để công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin, tài liệu về di sản văn hóa phi vật thể này;
-
Ngành văn hóa phối hợp với ngành thông tin, truyền thông và ngành giáo dục tăng cường công tác quảng bá, nâng cao nhận thức về dân ca Ví, Giặm trong cộng đồng, đặc biệt là trong trường học dưới nhiều hình thức như trao đổi, truyền dạy trực tiếp, sử dụng băng, đĩa, sách, báo và phổ biến bằng nhiều phương tiện truyền thông đại chúng; tổ chức giao lưu, liên hoan, biểu diễn giữa các cộng đồng ở trong nước và quốc tế;đưa dân ca Ví, Giặm vào nội dung sinh hoạt liên hoan, lễ hội hằng năm, các chương trình văn hóa, văn nghệ trong những dịp lễ lớn của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, của quốc gia và quốc tế;
-
Các cơ quan chức năng hỗ trợ nghiên cứu và cùng cộng đồng phục hồi những không gian diễn xướng truyền thống, đồng thời phát triển thêm những không gian diễn xướng mới bằng cách khuyến khích cộng đồng, nghệ nhân, nghệ sĩ tham gia sáng tác lời mới cho những ngành nghề và sinh hoạt văn hóa đương đại trên cơ sở phát huy những chuẩn mực, giá trị của dân ca Ví, Giặm cổ truyền và đặc tính ngôn ngữ, giọng điệu xứ Nghệ rất riêng biệt; tổ chức những cuộc liên hoan ở nhiều cấp độ từ cơ sở đến cấp tỉnh, tổ chức giao lưu biểu diễn dân ca Ví, Giặm phục vụ nhân dân. Việc gìn giữ và phát huy dân ca Ví, Giặm sẽ góp phần bảo vệ và phát huy nhiều tập tục, truyền thống và bản sắc ngôn ngữ địa phương.
-
Tổ chức truyền dạy dưới nhiều hình thức:
-
Truyền dạy trong cộng đồng (trong gia đình, các câu lạc bộ dân ca và rộng rãi ra công chúng):Lấy phương pháp truyền dạy truyền miệng, tức là trực tiếp từ nghệ nhân đến người thực hành là chính. Bên cạnh đó, với loại hình dân ca Ví, Giặm, chúng ta có thể phát triển thêm nhiều hình thức khác như dạy và học qua băng, đĩa hình, dạy trên sóng phát thanh, truyền hình, v.v…;
-
Tăng cường tổ chức dạy hát dân ca trong nhà trường ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, theo phong trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” và “Hướng dẫn” liên tịch số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16 tháng 01 năm 2013 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về “sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục từ xa (GDTX)”, theo đó, có thể mời nghệ nhân hoặc nghệ sỹ đến dạy các làn điệu Ví, Giặm trực tiếp cho học sinh hoặc có thể dạy qua băng, đĩa; phát động các phong trào thi đua tìm hiểu về di sản văn hóa phi vật thể nói chung, các làn điệu dân ca của địa phương trong đó có Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh nói riêng trong học sinh, sinh viên.
-
Tăng cường đầu tư cho công tác bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành ở cơ sở về di sản văn hoá phi vật thể trong đó có dân ca Ví, Giặm; thường xuyên mở các lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở;
-
Xây dựng cơ chế, chính sách vinh danhvà đãi ngộ nghệ nhân. Hiện nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thiện Dự thảo Nghị định quy định đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình thủ tục xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trình Chính phủ xem xét ban hành trong thời gian tới. Trong thời gian chờ Nghị định có hiệu lực để thực thi, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Công văn gửi các địa phương, đề nghị quan tâm có chế độ thăm hỏi, hỗ trợ, chăm lo nuôi dưỡng đối với nghệ nhân. Đồng thời, cần có chính sách thu hút sự quan tâm của thế hệ trẻ tham gia thực hành, kế thừa và phát huy dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh.
-
Ngành văn hóa phối hợp với các cơ quan, ban, ngành liên quan trong việc nghiên cứu bảo tồn, phục hồi và phát triển các không gian diễn xướng phù hợp, các hình thức phát huy giá trị di sản dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh gắn với phát triển du lịch bền vững:Tổ chức những chương trình giao lưu trình diễn dân ca Ví, Giặm như một sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, một đặc sản tinh thần không thể thiếu khi tiếp đãi du khách đến với Nghệ An và Hà Tĩnh; gắn kết việc phổ biến, quảng bá di sản với các chương trình giáo dục tại bảo tàng ở địa phương.
Với những giá trị đặc sắc của nó, chúng ta hy vọng rằng, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh sẽ được UNESCO xem xét, ghi danh tại kỳ họp Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 9 tới đây tại Paris, đáp ứng mong mỏi của chúng ta và của mỗi người dân xứ Nghệ; và chúng ta tin tưởng rằng di sản này cũng sẽ luôn luôn được cộng đồng và chính quyền các cấp quan tâm bảo vệ phù hợp trong xã hội đương đại./.
N.K.D.
[1]Theo Lý lịch hồ sơ Ví, Giặm xứ Nghệ đề nghị đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An.
[2]Theo hồ sơ Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh do Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh xây dựng.