Những góc nhìn Văn hoá

Vượt qua thảm trạng và tái cấu trúc

12 công nhân vụ sập hầm thủy điện Đạ Dâng-Đạ Chomo được cứu sống. Hạnh phúc đó không có gì sánh bằng. Nhưng 80 giờ chờ đợi trước khi được cứu là một chấn động lớn có thể để lại những vết tích khó xóa mờ, khó quên.

Hiện các nạn nhân được săn sóc tận tình. Nhưng họ còn cần được theo dỏi trong nhiều năm nữa, theo ý kiến của các nhà tâm thần.

Trong một chừng mực có thể nhẹ hơn, nhưng những người được cứu sống sau một tai nạn, đám cháy hay những nạn nhân của bạo hành, hãm hiếp, … cũng bị những chocs, những chấn thương – vừa thể xác vừa tâm lý – Họ cần được giúp đở. Khoa tâm lý thần kinh học có thể giúp họ.

Trong hoàn cảnh đặc biệt kỳ diệu của cứu nạn thành công ở Lâm Đồng, xin đăng lại đây, với vài khai triển, gọi là góp thêm phần cho vấn đề thời sự và để kêu gọi tiếp tục bảo vệ những nạn nhân chấn động, tất cả những nạn nhân.

Thảm trạng và tái cấu trúc ?

Con người là một con vật biết suy nghĩ, có khả năng trí tuệ và có trí nhớ. Nhưng chính những khả năng này làm cho con người, trong thiên nhiên, «mỏng manh» hơn các thú vật: tâm lý con người dễ bị thương tổn và các chấn động có thể là những vết thương khó lành.

Chấn động, chấn thương (choc hay traumatisme tiếng Pháp) là những hiện tượng bất ngờ về cường độ cũng như về tính cách mà một cá nhân có thể phải trực diện trong đời sống. Chữ «trực diện» quan trọng vì phản ứng của mỗi cá nhân khác nhau trước chấn động. Có người rất dễ bị thương tổn. Có người thì chịu đựng giỏi hơn. Ở đây, thảm trạng là tiếng được dùng để chỉ chung những hiện tượng đó.

Sau thảm trạng, khả năng phục hồi lối sống bình thường, khái niệm tái cấu trúc cho bản thân và tái lập liên hệ xã hội, rất cần cho một cá nhân vừa bị chấn động để «quên» chấn động, chữa lành vết thương và tiếp tục sống.

Một cái tang (mất đi một người thân, một chỗ dựa, như chính một phần của thân thể ta), một biến cố thiên nhiên (động đất, sóng thần – như thời sự gần đây cho ta thấy với hàng trăm hay hàng ngàn nạn nhân), một tai nạn nghiêm trọng, một biến cố lịch sử (thí dụ nạn diệt chủng Do thái của Đức quốc xã hồi Thế chiến thứ II)… trong đó ta phải trực diện với cái chết, hoặc khi chính ta là nạn nhân của bạo lực, nhất là bạo lực giới tính, bạo lực đối với trẻ em… những thảm trạng ấy làm thương tổn và khó quên.

Hậu quả nhẹ là chứng sợ hải vô cớ, chứng mất ngủ, trầm cảm, không còn nghị lực để làm việc.

Nặng hơn là cách sống cô lập, không cưới vợ lấy chồng, không đi làm, sống ngoài lề xã hội.

Và cuối cùng là rơi vào các chứng nghiện – rượu, ma túy, thuốc, – và phạm tội vì không còn biết tuân thủ luật lệ hay tôn trọnh tha nhân .

Hai bà Emmy Werner  Ruth Smith, tâm lý gia người Mỹ, từ đầu thập niên 1950 đến năm 1982 đã theo dõi, ở Hawaï, 700 trẻ em bị bỏ rơi, đã không được đi học, lại là nạn nhân của bạo lực thể xác và giới tính. Ba mươi năm sau, nhóm trẻ này, phần đông, trở thành người lớn không phương hướng, một loại “thân tàn ma dại”, sống lê, hết tin tưởng ở mình và mất tin cậy nơi người đối diện. Thế nhưng, lạ lùng là 28% trong số họ đã học được một nghề, lập gia đình và không bị bệnh tâm lý nặng mà có thể sống gần như là bình thường.

Chính những người thoát khỏi “định mệnh” này đã giúp hai bà xác định được những phương thức của sự vượt qua số phận cùng cực. Bà Werner và bà Smith cho ra đời khái niệm “tái cấu trúc tâm lý bị thương tổn sau thảm trạng” để chỉ những trường hợp, mặc dù vô vàn khó khăn khổ sở, một số người có thể khắc phục được và sống bình thường sau đó.

Những người này sở dĩ đã vượt lên thảm trạng là nhờ có khả năng bấu víu vào, nhờ tình cờ của cuộc sống, trong một thời điểm nào đó, nhờ có một bàn tay hiền lành cứu trợ (một cha sở nhà thờ, một cán sự xã hội, một nhà báo, một nhiếp ảnh gia, một người láng giềng…) hay nhờ một sự kiện bất ngờ (được khẩn cứu nơi một bệnh viện và được sự tận tình của nhân viên bệnh viện sau đó)…

Danh sách những cấu thành giúp tái cấu trúc rất dài, một cách sơ lược ta có thể kể:

. những khả năng nội tại của mỗi cá nhân: trí thông minh, biết tự trọng, khả năng có thể thân thiện với người chung quanh, biết khôi hài…

nền tảng đã hấp thụ được của gia đình nguyên thủy, nếu có, lúc trước đó.

sự giúp đỡ của xã hội, môi trường sống của một lúc nào đó (một người lớn tận tình hảo tâm, một cha đạo, một giáo viên hay một cán sự xã hội… như đã nói ở trên)

Nếu tất cả hay đa số các yếu tố này cùng tác động thì sự tái cấu trúc sẽ hoàn hảo hơn.

Nhưng các nhà tâm lý học nghiên cứu về vấn đề này đều thống nhất ở một điểm : chính nạn nhân của những thảm trạng phải tự cứu mình – có cái ý chí và nghị lực muốn thoát thảm trạng – thì “vết thương” mới lành hẳn, không sợ một ngày nào đó lại rướm máu. Môi trường xã hội là tối cần thiết – nhưng chỉ là phương tiện – hay là điều kiện cần chứ chưa đủ – .

Phải chữa thảm trạng. Nếu không thảm trạng có thể tiếp tục qua thế hệ con cái.

Một nghiên cứu gần đây (Jonathan Seckl và cộng sự) theo dõi trường hợp của 170 phụ nữ mang thai, nạn nhân những chấn động mạnh trước đó. Những bà mẹ này đã cho ra đời những trẻ nhẹ cân hơn trọng lượng trẻ sơ sinh bình thường (có khi nhẹ hơn đến gần 50%), vòng đầu cũng nhỏ hơn (kém hơn 24%). Vùng trán và vùng limbic của não các cháu bé, qua scanner, cho thấy là kém phát triển.

Nhưng sau đó, một môi trường sống an toàn và thích ứng tốt nhất đã giúp các bé phát triển các mạch điện não cần thiết cho cảm xúc, trí nhớ và khả năng tiếp cận (cũng qua scanner não bộ mà các nhà nghiên cứu đã kiểm chứng).

Mặt khác, các nhà tâm thần học cũng thống nhất rằng khó khăn của cuộc sống lúc trưởng thành thường có nguồn gốc trong quá khứ, của thời niên thiếu. Chứng kiến bạo hành giữa cha mẹ lúc thơ ấu, nạn nhân của bạo hành khi còn trẻ, một sự nghèo khổ cùng cực trong nhiều năm, … Não bộ ghi nhận hết những biến cố của cuộc sống và lập thành một loại … hồ sơ lưu trử chỉ chờ dịp để … xuất hiện.

Mất ngủ kinh niên, lãnh cảm nơi phụ nữ, bạo lực của một số người, …là những biểu hiệu thường gặp mà nguồn gốc cần nghiên cứu.

Không được giúp đở, những trường hợp vượt khó để thành công là những trường hợp ngoại lệ, hiếm hoi. Giá trị sống không còn được bảo vệ.

Tự lèo lái vượt qua thảm trạng ?

Trở về thảm trạng, ta có thể kể thí dụ của chính cá nhân ông Boris Cyrulnik, một bác sĩ tâm thần nổi tiếng, vốn là người Do thái sống sót sau chiến tranh diệt chủng. Ông cũng đã phân tích sự tái cấu trúc tâm lý sau chấn động, một quá trình dài và phức tạp nhưng một cách tích cực ông gọi đó là “nghệ thuật lèo lái qua các thác nước đổ ào ào”.

Ông kể chuyện của những người sống sót sau nạn Holocaust (lò thiêu diệt chủng của Đức quốc xã), những trẻ đường phố, những trẻ bị bạo hành… và cho tất cả các trường hợp này, nếu được những người giúp tái cấu trúc, như những bà tiên hiền lành ra tay cứu độ, hay nói đúng hơn những điểm tựa giúp người bị chấn thương dựa vào đó để không bị cuốn theo lốc, để hướng lên, để hiểu những khó khăn của mình, từ từ tự tìm cách băng lành các vết thương tâm lý và để cuối cùng mĩm cười nói, như ông Cyrulnik, rằng tôi đã trải qua “một bất hạnh kỳ diệu” – bất hạnh thật vì đã rất khó khăn khổ sở, nhưng kỳ diệu vì tôi đã vượt qua được và sống an bình sau đó.

Sách và tài liệu tham khảo:

Cyrulnik B., Un merveilleux malheur, NXB Odile Jacob, 1999.

Lecomte J., Guérir de son enfance. NXB Odile Jacob, 2004.

Seckl J. & al., Vulnerable phenotypes for stress-related mental disorders focus on glucocorticoids. Chương trình EuroStress 437, 2011 (chưa xuất bản).

Tisseron S., La résilience. NXB Presses Universitaires de France, 2007.

Werner E. và Smith R., Journeys from Childhood to Midlife: Risk, Resilience, and Recovery. NXB Cornell Univ. Press, 2001.

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577710

Hôm nay

2241

Hôm qua

2333

Tuần này

2909

Tháng này

224767

Tháng qua

130677

Tất cả

114577710