Những góc nhìn Văn hoá

Gia Miêu Ngoại Trang - dấu chân nên chặng đường đầu

Gia Miêu Ngoại Trang nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, đông giáp Thị xã Bỉm Sơn, tây giáp huyện Thạch Thành, nam giáp xã Hà Giang, bắc giáp tỉnh Ninh Bình.

Đã có người giải rằng: Gia Miêu là lúa tốt.

Biết vậy.

Thời còn mặc áo lính, vài lần vác gạo, vài lần kiếm củi, tôi có qua địa phận Gia Miêu Ngoại Trang nên trong ký ức còn đọng lại một vùng làng mạc “chân sơn” có đền miếu uy nghi trầm mặc giữa những rừng cây cổ thụ sầm uất với từng ruộng lúa, nương sắn, vạt mía, vồng khoai, đan xen như thể bát cơm độn thường ngày.

Ấy là ký ức.

Bởi vậy khi nghe được lời giảng của Võ Kỳ Điền (Võ Tấn Phước): Gia Miêu là mầm mống sung mãn, tốt đẹp, nòi giống thịnh vượng, vững bền.

Tôi nghiêng ngay về lẽ này.

Điều tôi muốn biết thêm là địa danh Gia Miêu xuất hiện vào thời điểm nào là có lý. Tuy có lý chắc chi đã nhằm. Nhưng tự mình vẽ chuyện để bênh vực mình như là một cớ trấn an. Trước hết tôi nghĩ rằng Gia Miêu Ngoại Trang từ Gia Viễn mà nên, bởi Gia Viễn mà thành. Vì hiện thời:

Gia Viễn có mộ Định Quốc Công.

Gia Miêu Ngoại Trang cũng có mộ Định Quốc Công.

Gia Viễn có địa danh Thiên Tôn Sơn.

Gia Miêu Ngoại Trang cũng có địa danh Thiên Tôn Sơn.

Chẳng lẽ trùng hợp ngẫu nhiên.

17 năm (951- 968) dẹp loạn Sứ quân, Gia Viễn hẵn phải dựa vào Hoan, Ái. Dựa vào Hoan, Ái trước tiên là dựa vào Tống Sơn. Tống Sơn nay là Hà Trung nằm sau đèo Ngọc (phía tây), đèo Ba Dội (phía đông) có lẽ đã là hậu cứ làm nên sức mạnh Hoa Lư. Hậu cứ là hậu phương. Phía ngoài là tiền tuyến. Hơn các Sứ quân kia, Đinh Bộ Lĩnh người Gia Viễn lại biết rõ châu Ái, châu Hoan nên sớm tìm chỗ dựa từ phía sau. Với cương vị là thủ lĩnh, Đinh Bộ Lĩnh cầm quân tất nhiên phải đứng mũi chịu sào quán xuyến lo toan mặt trước để kịp thời ứng phó. Mặt sau hẵn thuộc về người bạn tâm phúc, tin cậy nhất của mình. Nguyễn Bặc của Gia Viễn.  Nguyễn Bặc của Gia Miêu. Tôi nghĩ con người này chính là cánh tay nối dài Hoa Lư vào Hoan, Ái. Hậu cứ Tống Sơn thuở đó. Châu Ái, châu Hoan thuở đó hẵn là do Nguyễn Bặc mà nên. Không có Tống Sơn là không có Hoan, Ái. Hoa Lư cô thế khó mà nên công. 11 Sứ quân khác chiếm lĩnh các địa bàn Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định (ngày nay) ... thiếu hẵn một hậu phương hùng hậu vừa có địa lợi vừa có nhân hòa như thế. Chưa xa gì cho lắm, mới 60 năm trước đây thôi, tôi từ Hà Tĩnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, một đêm Hát Lót giữa rừng già Tây Bắc, gặp dân công bộ, gặp dân công xe đạp thồ ùn ùn từ Thanh Hóa lên. Với tôi, nước mắm cô thấm răng và  thuốc lào say lư tử còn ngấm đến tận bây giờ đều từ Thanh Hóa mà có. Mới biết không được hậu phương đồng lòng, tiền phương lấy đâu sức bền mà đánh giặc. 

Tống Sơn, Hoan, Ái với Hoa Lư chắc cũng đã từng đồng lòng như thế.

Nguyễn Bặc trở thành Tể tướng đứng thứ hai sau Đinh Tiên Hoàng, được tôn phong là Định Quốc công phải là người có đóng góp xứng đáng làm nên sức mạnh Hoa Lư. Công định quốc đâu phải là nhỏ. Không có Châu Ái châu Hoan, Hoa Lư không thể giành thắng lợi.

Đinh Bộ Lĩnh làm vua thành Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn giữ chân Thập đạo Tướng quân quyền ra vào cung cấm, có cơ “lửa gần rơm” mới tư thông với Thái hậu Dương Vân Nga rồi gạt Đinh Tuệ, cướp công vua Đinh. Các vị công thần khai quốc Vương triều Đinh hẵn biết ai đứng phía sau Đỗ Thích nên đã bỏ Hoa Lư tìm phương cứu ấu chúa. Dịp này Định Quốc Công Nguyễn Bặc chắc nghĩ đến hậu cứ bên trong dãy Vạn Sơn nên đã vào đây tính chuyện phò Đinh. Căn cứ dấy nghĩa của Định Quốc Công nằm sau dãy Vạn Sơn là nằm trên lãnh thổ thuộc Ngoại Minh Đường thuở trước về sau trở thành nơi cư trú của gia đình ông. Gia Miêu Ngoại Trang từ đó mà nên địa danh chăng? Ấy là lý thứ nhất.

Nguyễn Bặc thất thế bị Lê Hoàn giết. Đại sự không thành. Hoa Lư – Gia Viễn sang tay Tiền Lê. Thân nhân các gia đình trung quân không còn chỗ dung thân buộc phải rời khỏi rời Hoa Lư tìm nơi lánh nạn. Lịch sử nước ta thường lặp lại điều này.  Khoảnh khắc đó Gia Viễn, Nho Quan, Gia Miêu đang là chiến địa. Thân nhân Nguyễn Bặc, Đinh Điền … không còn hướng thoát nào hay hơn là tìm bóng “bồ đề” mà mai sanh ẩn tích. Anh em Nguyễn Đê, Nguyễn Viễn đã luống tuổi không dễ thay tên đổi họ. Nhưng con em những người này trở thành chú “tiểu” nhỏ không mấy khó khăn.

Cuối năm 1954, tôi đã từng tá túc tại một vài nhà vùng gò đồi thuộc địa bàn Yên Định phía dưới, bên trong Gia Miêu Ngoại Trang. Khác với Thạch Thành là địa danh trời ban theo hình thế núi đá cao mà dài như một dải trường thành, Yên Định có lẽ lại do tình thế, do hoài bảo con người mà nên tên. Yên rồi mới định.Con cháu Định Quốc Công chắc cũng từng xoay xở để được an cư trên vùng đất mới. Cha chú vì việc nghĩa mà bị hại. Con cháu lẽ nào bó gối ngồi yên nơi góc rừng xó núi u ám nhìn trời.

Thuở đó Phật giáo là quốc đạo. Các vị Thiền sư là quân sư. Quân sư cho vương triều và quân sư cả cho từng gia đình công thần khai quốc thông đồng mộ đạo. Thiền sư Vạn Hạnh được biết đến là người họ Nguyễn làng Cổ Pháp. Ấy là sự biết theo sách vở về sau. Bởi Thiền sư Vạn Hạnh Trụ trì chùa Lục Tổ. Chùa Lục Tổ thuộc làng Cổ Pháp. Chùa ở làng chắc chi sư trụ trì cũng là người của làng. Nhưng như vậy lại hóa hay. Thiền sư Vạn Hạnh là người nhà chùa, của công chúng, không của riêng ai. Mà thói đời kẻ phù thịnh bao giờ cũng lắm. Phù suy chẳng được mấy người. Đã là Thiền sư thì bao dung, vị tha, nhân ái, vô tư, thương người hoạn nạn không tính lẽ thịnh, suy. Một vị Thiền sư có đức có tài thường là một vị chân tu. Một vị chân tu chính là một đấng chân nhân. Bản chất và hành vi của một vương triều, thời cuộc và tình thế xã hội như là dữ liệu gom vào tri thức của các đấng chân nhân tạo thành các đấng tiên tri. Vạn Hạnh Thiền sư thuộc tầng người hiếm hoi đó. Ông là họ Nguyễn. Ông là chân tu. Lẽ phải trái ông rành. Đúng sai ông biết. Cổ súy, bênh vực, nuôi dưỡng dòng giống trung quân ái quốc thuộc về nhân tâm, thuộc về phận sự.

Con cháu Định Quốc Công có người thay tên, đổi họ rồi tìm chùa Lục Tổ của Vạn Hạnh Thiền sư mà đến là tìm thầy để vấn kế, tìm ánh sáng làm nguồn an ủi, tìm chốn dung thân để mai danh ẩn tích. Hơn ai hết, Vạn Hạnh Thiền sư thấu hiểu thời cuộc với lẽ đúng sai, chánh tà trong triều ngoài quận sẵn sàng cưu mang che chở người hiền giữa cảnh đảo điên. Duyên và nghiệp từ đó mà nên.

Thế rồi, qua ba chặng Thiên Phúc (980-988), Hưng Thống (988-993), Ứng Thiên (993-1005) Lê Đại Hành như thể băn khoăn, như thể bối rối, như thể day dứt không yên, nhắm mắt xuôi tay là loạn. Loạn bởi sự bất minh, con cái của vị vua thất nhân tâm xâu xé lẫn nhau để giành giật ngai vàng. Suốt 7 tháng ròng quyết liệt như thể “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.  Phe này bênh anh. Phái nọ giúp em. Người của chùa Lục Tổ lẽ nào không tham dự vào biến cố nóng bỏng của sự mất còn để cổ xúy bên nọ hoặc phò tá bên kia. Lê Long Đỉnh giết được Lê Long Việt độc chiếm ngôi vua. Ấy là chuyện nội bộ nhà Tiền Lê. Lý Công Uẩn là con cầu tự lại được Thiền sư Lý Khánh Vân đỡ đầu dường như không thuộc phe nào, họ nào trong số thất hùng dẹp loạn Sứ quân. Nhân dịp này, những người đã có công giúp Lê Long Đỉnh chắc được trọng dụng.

Để dẹp yên 11 Sứ quân mà làm nên Đại Cồ Việt ngoài Đinh, Lê còn có Nguyễn, còn có Trịnh, Phạm, còn có Lưu, Đào. Đinh có công dẹp loạn sứ quân. Lê có công chống Tống. Chỉ thế thôi đã là hai phe rồi. Nhưng Đinh hay Lê hầu như đã cạn nguồn thừa kế. Nguyễn,Trịnh, Phạm, Lưu, Đào kẻ chống phe nọ, người phò phe kia chẳng ai chịu nhường ai. Điều đáng cho ta suy ngẫm hôm nay là một kẻ tàn ác lại thiếu nhân cách như Lê Long Đỉnh vẫn được ngồi yên trên ngai vàng 5 năm. Cho hay thế lực của các phe phái phò Đinh, phò Lê, phò mình đều tạm thời lấy đó làm lẽ cân bằng. Nhờ thế giữa sự chông chênh Lê Long Đỉnh vẫn giữ ngôi vua, nhưng tất nhiên phải có lúc nghiêng ngả.

Cục diện triều chính rối ren đó hình như Vạn Hạnh Thiền sư đã đon trước, đã tiên lượng được và chuẩn bị khá chu toàn để khi thời cơ đến, “cờ vào tay là phất”.

Lê Long Đỉnh hấp hối. Ngôi vua lắm kẻ nhìn. Lý Công Uẩn đã giữ chức Tả Thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ lại là người nhà chùa dễ làm trung gian hòa giải nên nhanh chóng trở thành ngọn cờ tập hợp. Đã thế, bên cạnh Lý Công Uẩn lại có Hữu Thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ Nguyễn Đê, mà ai cũng biết là con trai trưởng của Định Quốc Công Nguyễn Bặc uy thế hơn người, nổi lên như một đấng trung quân gợi lại thời hào hùng dẹp loạn sứ quân. Đào Cam Mộc với con cháu những người từng là chiến hữu của Định Quốc Công nghiễm nhiên đứng về phía Nguyễn Đê cùng tôn phò Lý Công Uẩn làm nên thế áp đảo. Các phe phái khác tự thấy sự non yếu đều bị khuất phục.   

Không tiên lượng trước nhất là không có sự chuẩn bị tinh tế kín đáo làm sao nhịp nhàng đến vậy. Vạn Hạnh Thiền sư hình như là tác giả thiết kế, quy hoạch và đạo diễn kịch bản này.

1.004năm đã qua, nằm suông nghĩ lại xem Lý Công Uẩn từ nguồn nào mà nên. Theo sự tích, mẹ Lý Công Uẩn là người họ Phạm, nhân một hôm viếng chùa Tiêu Sơn nằm mộng gặp thần nhân, về nhà thụ thai sinh hạ một bé trai khôi ngô tuấn tú, 3tuổi đem đến chùa Cổ Pháp làm con nuôi Thiền sư Lý Khánh Vân nên mới có tên là Lý Công Uẩn. Cổ Pháp là làng Dịch Bảng tức Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Năm 1010 Lý Công Uẩn lên ngôi đã 35 tuổi. 3 tuổi làm con nuôi có nghĩa là 32 năm trước, chùa Cổ Pháp vừa giao cho Vạn Hạnh Thiền sư thừa kế trụ trì sau khi Ngài Thiền Ông Đạo Giả viên tịch (977). Thiền sư Lý Khánh Vân chưa bao giờ làm giám tự chùa này. Mà trong lịch sử Thiền sư Việt nam, trước và sau Lý Khánh Vân dường như không có bóng dáng truyền thừa cho dù ông được ghi nhận cùng hệ phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) với Thiền sư Vạn Hạnh. Vả lại, làng Cổ Pháp lúc đó cũng chưa có họ Lý. Vậy nên, Lý Công Uẩn và Thiền sư Lý Khánh Vân như thể là một sáng tạo của Vạn Hạnh Thiền sư để dung hòa trong bối cảnh tranh chấp của nhiều thế lực còn rơi rớt mầm mống cát cứ Đinh, Lê, Nguyễn, Trịnh, Phạm, Lưu, Đào tiềm tàng từ Thập nhị sứ quân đang hiện diện trong thế tương quan. Nếu Lý Công Uẩn chỉ là một đứa con hoang không tông tích, không uy thế, khó có vây cánh để làm ngọn cờ tập hợp. Từ đó suy ra để được nhận ngôi vua, Lý Công Uẩn phải là người có nguồn gốc xuất thân không thế gia vọng tộc thì cũng là con cháu của người có công dẹp loạn Sứ quân hay chống Tống thuở bấy giờ. Đã có khi vương vấn trong tôi, biết đâu người đóng vai Lý Khánh Vân lại chính là Nguyễn Đê đang xuất gia mai danh ẩn tích tại chùa Lục Tổ của Vạn Hạnh Thiền sư.

Những điều như thế hình như Đỗ Ngân (một loại Đỗ Thích) đã nhận ra vai trò của vị Thiền sư họ Nguyễn, nên nhiều lần muốn sắm vai thích khách. Có lẽ từ thực tế rối ren thù hận qua các biến cố Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng cùng Đinh Liễn như “ăn miếng trả miếng”, Vạn Hạnh Thiền sư đã tiên liệu đề phòng. Qua bài thơ gửi cho Đỗ Ngân, Ngài đã thẳng thắn vạch mặt chỉ trán và khuyên ông ta hãy làm điều lành tránh điều dữ để khỏi hối hận về sau. Đỗ Ngân chột dạ. Vả lại, thế lực phò Tiền Lê sau cái chết của Lê Long Việt dường như đã đuối nếu không muốn nói là đang thất thế tan rã.

Thổ mộc tương sinh cấn dữ kim

Vân hà mưu ngã uẩn linh khâm

Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt

Chân chỉ vị lai bất hận tâm.

(Thích Thanh Từ, Thiền Sư Việt Nam)

Đe nẹt Đỗ Ngân cũng có nghĩa là dẹp được các đối thủ thù địch. Lý Công Uẩn thênh thang lên ngôi. Vạn Hạnh Thiền sư lại có thơ chiêu an ban bố khắp vương quốc càng chứng tỏ vai trò và vị thế của Ngài trong biến cố lịch sử chuyển Tiền Lê sang Lý đầu thế ký XI.

Tật Lê trầm bắc thủy

Lý tử thụ phương nam

Tứ phương qua can tịnh

Bát biểu hạ bình an.

         (như trên)

Bản thông báo với nội dung chiêu an mà Vạn Hạnh Thiền Sư cho ban bố ngay sau khi Lê Long Đỉnh chết chấm dứt Vương triều Tiền Lê và Lý Công Uẩn bước vào ngai vàng, có cớ cho ta suy diễn minh định địa thế xuất thân của vị vua khai sáng vương triều Lý.

Lê Long Đỉnh chết tại Hoa Lư là “trầm bắc thủy”. “Lý tử thụ phương nam” lên ngôi. Phương nam với Hoa Lư rõ ràng không phải là Cổ Pháp. Không phải là Tiêu Sơn.Vả lại, sự hiện diện để phò tá Lý Công Uẩn của Nguyễn Đê, của Đào Cam Mộc trong giờ phút lịch sử hi hữu đó, cọng với sự vận động cổ súy của Vạn Hạnh Thiền sư cho tôi suy luận rằng “phương nam” nhìn từ Hoa Lư ở về phía Gia Miêu Ngoại Trang.

Xem ra, 24 năm mai phục dưới triều Lê Đại Hành mới có 5 năm Lê Long Đỉnh. Không tiên liệu, không chuẩn bị, không đề phòng khó có một người họ Lý xuất hiện vào thời cơ thích hợp nhất. Bởi đưa một người của họ Nguyễn vào ngôi vua chắc gì đã yên. Bởi Đinh, Lê, Trịnh, Phạm, Lưu, Đào ai cũng tự cho mình đáng ngồi vào vị thế đó. Lý làm nên lẽ trung dung. Lý là hợp lý nhất.

Chuyện xưa theo nhà nghiên cứu lão thành Bùi Văn Nguyên với công trình “Việt Nam Và Cội Nguồn Trăm Họ” đã xác nhận tên thật của Trưng Trắc là Nguyễn Thị Lý, Trưng Nhị là Nguyễn Thị Huệ. Hai chị em song sinh người họ Nguyễn đã mở đầu trang sử chống kẻ thù truyền kiếp phương bắc. Vạn Hạnh Thiền sư từng là mưu sĩ của Lê Đại Hành trong sự nghiếp chống Tống hẵn đã biết rõ điều này. Nguyễn Thị Lý phải chăng đã gieo vào tâm thức vị Thiền sư đang đứng mũi chịu sào về vận mệnh dân tộc trước lịch sử chống ngoại xâm một lẽ “Nguyễn Lý nhất nguyên”. Nguyễn xuất thân từ Gia Miêu. Lý thành thân từ Cổ Pháp. Lý Công Uẩn là công trình, là tác phẩm sáng tạo của Vạn Hạnh Thiên sư xuất phát bởi bối cảnh xã hội sau nghìn năm bắc thuộc mà trực tiếp là sau loạn Thập Nhị Sứ Quân cần nhanh chóng ổn định để kịp thời đương đầu với quân Tống xâm lăng chăng? 

Một điều để suy nghĩ cho hôm nay là sau khi nhận ngôi vua, Lý Công Uẩn bỏ Hoa Lư là bỏ ngay nơi đã gây nên nỗi oan khuất đối với các vị công thần khai quốc, trong đó có Nguyễn Bặc cùng gia đình ông, để ra Đại La mà xóa sản phẩm của nghìn năm bị đô hộ. Thăng Long theo “điềm rồng vàng xuất hiện” chính là Thiên tử lên ngôi. Thiên tử lên ngôi diễn giải quẻ đại thành của Kinh Dịch là “Phi long tại thiên”. “Phi long tại thiên” trên đất đã từng là Đại La thì “Hiện long tại điền” hẵn là Cổ Pháp. Cho nên “Tiềm long vật dụng” có lẽ vị vua đầu triều Lý mà cũng có thể vị quân sư của Vương triều Lý dành để gán cho vùng đất mà những người con, người cháu của Định Quốc Công ôm chí đền nợ nước, báo thù nhà thay tên đổi họ từ đó ra đi. Ấy là lý thứ hai về thời điểm và lý do xuất hiện địa danh lịch sử Gia Miêu Ngoại Trang mà tôi tự hỏi tôi và tôi tự trả lời tôi.

Từ suy luận như thế, tôi đinh ninh rằng Lý không từ Nguyễn mà ra thì cũng từ Nguyễn mà nên. Gia Miêu không từ Nguyễn mà sinh thì cũng từ Lý mà thành. Với tôi, Nguyễn Lý nhất nguyên đã làm nên Gia Miêu Ngoại Trang vậy.

Những ngày về già nằm khàn nghĩ lại mọi diễn biến từ Đinh sang Tiền Lê, sang Lý có điều gì đó như lẽ đời bằng các cuộc đấu tranh phe phái, chính, tà thầm lặng nhưng quyết liệt của thời kỳ đầu khôi phục nền tự chủ dân tộc sau nghìn năm bị người Hán đô hộ, éo le và gian nan biết nhường nào. Từ thực tế mất còn thuở đó như thể gieo vào tâm trí Vạn Hạnh Thiền sư rồi hun đúc nên bài kệ bất hủ trước giờ Ngài viên tịch, năm1018:

    Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

(Thích Thanh Từ, Thiền Sư Việt Nam)

Nhờ người khai canh mát tay, Thiên Tôn Sơn hậu cứ thành Thiên Tôn Sơn định cư rồi với lời nguyền lập thân từ buổi đầu nối nghiệp, Gia Miêu Ngoại Trang tự khẳng định mình trở thành cái nôi của lòng trung nghĩa.

Nguyễn Bặc với Đinh Tiên Hoàng. Nguyễn Đê với Lý Thái Tổ. Nguyễn Quang Lợi với Lý Thái Tông, Nguyễn Viễn cùng Lý Thường Kiệt làm nên chiến công Như Nguyệt trong sự nghiệp chống Tống năm 1076. Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc với Lý Anh Tông. Nguyễn Khoái cùng Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản làm nên chiến công Hàm Tử Quan cuối thế kỷ XIII. Sang đầu thế kỷ XV Nguyễn Gia Miêu và Nguyễn ngoài Gia Miêu đã có mặt tại Lam Sơn từ những ngày đầu dấy nghĩa. Nguyễn Công Duẫn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Nguyễn Chích trong hàng ngũ các công thần khai quốc đầu thời Lê Thái Tổ không chỉ làm rạng danh Gia Miêu mà còn làm rạng danh Nguyễn trên toàn cõi non sông.

Viết như thế không ít người sẽ cho tôi “thấy sang bắt quàng làm họ”. Có thể như thế và cũng có thể không như thế. Bởi Nguyễn của Vân Lôi, Nguyễn của Gia Viễn, Nguyễn của Gia Miêu, Nguyễn của châu Ái, châu Hoan cuối thiên niên kỷ thứ nhất là Nguyễn Việt Mường, Nguyễn bản địa của con Lạc cháu Hồng. Nếu như Nguyễn Gia của Bắc Ninh từ Nguyễn Gia Miêu mà ra thì Nguyễn Trãi của Chí Linh, Nhị Khê cũng có thể từ Nguyễn Gia Viễn mà nên. Lý sự như thế bởi sau khi đọc bài thơ “Hoàng Giang Dạ Vũ” của Nguyễn Phi Khanh, tôi cứ ngờ ngợ có điều gì đó như vương vấn cố hương. Bởi Hoàng Giang là một dòng sông nhỏ của riêng Gia Viễn không thuộc hàng trường giang để tao nhân mặc khách viễn du. Thơ của Nguyễn Phi Khanh viết tại Hoàng Giang như viết tại quê nhà vậy.

Hoàng Giang Dạ Vũ

Liễu phố tam thu vũ,

Quân bồng bán dạ thanh.

Cô đăng minh hựu diệt,

Hồ hải thập niên tình.

   (Hợp Tuyển Thơ Văn, TậpII)

 

Mười năm xa cách nay mới về cố hương chăng? Chí Linh, Nhị Khê từ Gia Viễn mà nên chăng?

Thế đấy. Suy diễn là vô cớ. Vô cớ nên suy diễn. Cuộc đời đã không bất biến thì chuyện đổi thay di dời nơi cư trú là mặc nhiên. Thanh Oai, Gia Viễn, Nghi Xuân, Nghi Lộc và rất nhiều nơi khác trên lãnh thổ Việt Nam có Nguyễn không cứ gì Gia Miêu. Thậm chí Trần thành Nguyễn bởi Hồ Quý Ly. Nguyễn phải chuyển sang sang Lê, sang Phạm … sau ngày Nguyễn Trãi bị nạn do sự bày vẽ của thế lực ngoại xâm nằm vùng trả thù người có công lẫy lừng trên đất Lam Sơn. Nghiệm ra trong lịch sử nước ta hễ sau một lần quân xâm lược bị đại bại thì tướng tài có công của phía thắng gặp nạn liền. Đến như vua Quang Trung, sau võ công Đống Đa năm Kỷ Dậu,  chỉ một lần mặc áo lông vua Càn Long nhà Mãn Thanh tặng là xây xẩm mày mặt, triều đình không kịp cứu. Giặc thua trên chiến trường. Tướng tài ta mất sau ngày khải hoàn dường như đã thành duộc.

Tháng 5 năm Ất Tỵ (1545), trên đường tiến quân đánh Mạc, Nguyễn Kim bị đầu độc, Trịnh Kiểm không thừa thắng mà quay về tạo cớ giết Nguyễn Uông, người con xứng đáng thừa kế cha, Nguyễn Hoàng khó tránh tai họa. Biết Trịnh Kiểm đang tìm kiếm ngôi vua, Nguyễn Bỉnh Khiêm bóng gió với người tâm phúc của Trịnh “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ” và “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”.

Nhờ vậy, Trịnh Kiểm nguôi. Nguyễn Hoàng thoát hiểm được đẩy vào “Ô châu ác địa” với “trấn tiết” Trấn thủ Thuận Hóa. Gián tiếp mà suy. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cứu Nguyễn Hoàng vậy.

Vào được Ái Tử (Quảng Trị) trước mắt Nguyễn Hoàng là bảo toàn tính mạng để tìm cơ giành lại danh giá Gia Miêu. Hệ Nguyễn Phúc ra đời bởi sự lo lắng và mong mỏi đó. Từ Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) đến Nguyễn Phúc Ánh (1762-1820), trên hai thế kỷ rưỡi, 9 thế hệ Nguyễn Gia Miêu đã mang Triệu Tường về đặt dưới chân Thiên Tôn Sơn, cũng có nghĩa là mang an lành về cho xứ sở.

Gia Viễn. Gia Miêu. Gia Định. Gia Long. Gia Hội. Hễ nhắc đến những danh địa ấy trong tâm trí tôi lại hiển hiện những pho tượng danh nhân trung quân ái quốc lẫy lừng. Định Quốc Công. Thái Bảo Hoành Công. Hưng Quốc Công. Thái Tổ Gia Dụ… 1.034 năm kể từ ngày Nguyễn Bặc góp sức với Đinh Bộ Lĩnh làm nên Đại Cồ Việt - quốc gia của nền tự chủ đầu tiên sau nghìn năm bị đô hộ đến ngày Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua (1802) khai sáng Vương triều Nguyễn với quốc hiệu Việt Nam, các thế hệ Nguyễn luôn luôn là đội quân tiên phong trên dặm đường dựng nước, mở nước và giữ nước.

Phú Xuân, Phú Yên, Phú Quốc là hoài bảo, là khát vọng của dân tộc Việt mà họ Nguyễn với Đất Việt phương Nam từng gắn bó theo lẽ sinh thành.

Huỳnh tránh Hoàng. Kiểng tránh Cảnh. Ngươn tránh Nguyên. Thới tránh Thái. Châu tránh Chu. Nhiệm tránh Nhậm … đơn giản vậy, bình dân vậy, tầm thường vậy mà dung chứa tình cảm vô cùng cao cả vậy. Lòng người, tình người vô song vững bền thủy chung trong những điều dung dị nhưng thường hằng đó.

Định Quốc Công khai sinh mát tay làm nên chặng đường đầu Gia Viễn – Tống Sơn. Các thế hệ Nguyễn thừa kế đức sáng của ông đã làm nên Gia Miêu Ngoại Trang cái nôi của lòng trung nghĩa, của khí phách cần vương trong mọi thời kỳ lịch sử. Định quốc. Vệ quốc. Hưng quốc. Có lẽ Gia Miêu Ngoại Trang được xếp hàng đầu của những vị khai quốc công thần lừng danh nhất của Đất Nước.

Gia Miêu là thịnh vượng, là cao quý, là tốt đẹp, là phúc đức, là vui vẻ, là may mắn, là vinh quang đời nọ cho chí đời kia. Xứng đáng lắm thay!

 

                                     Montreal, ngày 23 tháng 12 năm 2014

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114612939

Hôm nay

2127

Hôm qua

2488

Tuần này

21639

Tháng này

228191

Tháng qua

131673

Tất cả

114612939