Ca khúc được phát triển từ chất liệu dân ca truyền thống là một thể loại luôn được số đông khán, thính giả yêu thích. Đồng thời với nhiều thể loại khác có mặt trong đời sống âm nhạc hiện nay nhưng người ta thường tìm đến với dòng nhạc này bởi sắc thái, giai điệu, tiết tấu phù hợp với tâm lý, với văn hóa của người Việt. Chính vì thế các tác giả, các nhạc sĩ đã khai thác triệt để chất liệu truyền thống để phát triển thành những ca khúc. Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là chất liệu truyền thống được khai thác nhiều nhất, điều này đã được khẳng định thông qua hàng ngàn ca khúc từ các thế hệ nhạc sĩ đầu tiên của Việt Nam cho đến các thế hệ hôm nay.
Trong sáng tác ca khúc, ngoài cấu trúc về khúc thức, phải làm sao cho nó gọn gàng, rồi đến chọn một chủ đề, một câu nhạc hội đủ các yếu tố cần thiết cho phần phát triển, để khi nhắc đi nhắc lại mà không nhàm chán (yếu tố nhắc đi, nhắc lại, thường hay sử dụng trong các sáng tác ca khúc của phương tây). Trong ca khúc phát triển dân ca nói chung và dân ca Ví, Giặm nói riêng, điều này là rất cần thiết, nó làm cho người nghe tập trung vào một chủ đề đã được đặt ra, không bị miên man rong ruổi theo nhiều câu đoạn mới mẻ khác.
Cách khai thác chất liệu từ dân ca giữ vai trò quyết định sự thành công của tác phẩm. Có thể ca khúc chỉ phát triển từ một làn điệu Ví, hoặc là Giặm, hoặc kết hợp cả Ví, và Giặm, tiêu biểu như "Giận thương" của Nguyễn Trung Phong viết trong vở "Khi ban đội đi vắng", "Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví giặm", của Trần Hoàn, thơ Quý Doãn, "Hương cau vườn Bác" của Vi Phong... Ngoài ra để có một ca khúc phát triển dân ca hay, người sáng tác thường quan tâm đến hai yếu tố cơ bản, đó là giai điệu và ca từ.
Về giai điệu âm nhạc, cần phải luôn luôn bám vào một chủ đề đã lựa chọn trước như một giai điệu quen thuộc nào đó, hay một câu Ví, một câu Giặm... để mà khai thác và nhất thiết chất liệu ấy phải được xuyên suốt trong tác phẩm. Muốn một ca khúc hay cần tận dụng chất liệu chủ đạo để phát triển, nhưng phải tránh được sự nhàm chán. Đây là yếu tố phát triển nghiêng nhiều về tính học thuật. Tuy nhiên, dùng phương pháp của học thuật để áp dụng vào một tác phẩm cụ thể thì cần phải hết sức tinh tế để cho hơi thở giai điệu được tự nhiên, không bị gò ép mà mất đi cái cảm xúc chân thực của người nghe.
Về ca từ, trong âm nhạc nói chung thường dùng giai điệu để diễn tả sắc thái tình cảm, riêng với thể loại ca khúc, đặc biệt ca khúc phát triển từ dân ca, thì lời ca đóng góp một vị trí hết sức quan trọng, nó làm cho người nghe ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi đều có thể hiểu được nội dung cần chuyển tải, vì thế người sáng tạo ra nó ngoài hiểu biết về âm nhạc phải có thêm khả năng thẩm thấu về văn học khá sâu sắc.
Vẫn còn đó những ca khúc vượt thời gian đi cùng năm tháng như "Trông cây lại nhớ đến Người", "Vui mở đường" của Đỗ Nhuận; "Tiếng hò trên đất Nghệ An" của Tân Huyền; "Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh", "Người đi xây hồ kẻ gỗ" của Nguyễn Văn Tý; "Nhớ về Hà Tĩnh" của Giang Minh Thực; "Vinh, thành phố bình minh" của Lê Hàm; "Hà Tĩnh trên đường chiến thắng" của Thái Quý; "Qua đèo Ngang" của Phan Huỳnh Điểu; "Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc" của Huy Thục; "Hà Tĩnh trên đường chiến thắng" của Hồ Bắc; "Đường về Hà Tĩnh" của Vĩnh An; "Chào em cô gái Lam Hồng" của Ánh Dương; "Câu hò trên những dòng kênh" của Đinh Quang Hợp, ... và một số ca khúc sau thời kỳ chống Mỹ như: "Tuổi trẻ Hà Tĩnh đi lên" của Trọng Bằng; "Sông Ngàn Sâu" của An Thuyên; "Đẹp mãi Kỳ Anh" của Đỗ Hồng Quân; "Một mình với sông La" của Tân Huyền; "Cảm xúc đèo Ngang" của Vi Phong; "Chim hót dưới trời đồng Lộc" của Phạm Tuyên; ""Thành Sen hoa nở" của Thuận Yến; "Sông Hội và tôi", của Cát Vận, "Nắng hạ bồi hồi của Hồng Đăng, "Mùa xuân về Đức Thọ" của Nguyên Nhung, và một số tác phẩm quen thuộc khác của các nhạc sĩ của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh như: Thanh chương, Mạnh Chiến, Hoàng Thành, Quốc Nam, Văn Thế, Quốc Việt, Tiến Dũng, Trần Danh Viện...
Ngoài ra một số nhạc sĩ đã tìm đến với những bài thơ để phổ nhạc và đã thành công, đưa đến cho người nghe nhiều tác phẩm hay, tiêu biểu là các tác phẩm của nhạc sĩ Trần Hoàn như "Con sông La", thơ Hoàng Xuân Liễu, "Mai em về Hà Tĩnh", thơ Đinh Nho Liêm, "Vỗ bến Lam chiều", thơ Thúy Bắc, hay "Người con gái sông La", nhạc Doãn Nho, thơ Phương Thúy; "Quê mình quê thơ", nhạc An Thuyên, thơ Yến Thanh; "Bài ca Hà Tĩnh”, nhạc Đỗ Dũng, thơ Lương Văn Trọng, "Gửi sông La", nhạc Lê Việt Hòa, thơ Hoàng Thị Minh Khanh; "Đồng dao Hồng Lĩnh xứ Tiên", nhạc Nguyễn Trọng Tạo, thơ Đặng Quốc Vinh; "Câu hát quê hương", nhạc Hồ Hữu Thới, thơ Nguyễn Trọng Tạo; "Linh chuông Đồng Lộc", nhạc Đức Trịnh, thơ Nguyễn Cảnh Nhạc; "Núi Hồng sông Lam", nhạc Quốc Việt, thơ Xuân Hoài...
Đối với ca khúc phổ thơ trước hết cần tìm những bài thơ hay, dễ tạo cảm xúc cho người nghe. Hay ở ý tưởng văn học và từ ngữ trong từng câu, tững chữ, khi đọc nghe thuận tai, xuôi vần, giai điệu thơ có tính nhạc, trong từng câu thơ có sự xắp xếp các cung bậc khá bình ổn, không đột ngột lên xuống bất thường, không quá trục trặc gieo vần theo các thể thơ tự do. Người nhạc sĩ phổ thơ cũng cần kiêm công việc biên tập thơ. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào thơ thì giai điệu âm nhạc mất đi tính độc lập sáng tạo. Nếu âm nhạc là độc lập mà ghép thêm ca từ thì mất đi ngữ âm, ngữ điệu, thổ âm vùng miền. Vì thế, cần có nghệ thuật trong sắp xếp câu chữ làm sao giữ vẫn được những ý thơ hay mà vẫn có được giai điệu âm nhạc đẹp để có thể làm thăng hoa thêm cho bài thơ. Có người cho rằng: Thơ ví như gạo nấu thành cơm, Nhạc ví như cơm đã ủ lên men mà cất thành rượu. Nếu biết kết hợp khéo léo sẽ tạo được một tác phẩm hay, rất dễ đi vào lòng người.
Nhân sự kiện dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại, tôi xin được chia sẻ niềm vui, niềm tự hào được sinh ra và lớn lên trong vòng nôi Ví, Giặm. Ví, Giặm là nguồn sữa nôi lớn tâm hồn và kiến thức âm nhạc của tôi. Tôi tin chắc rằng, trong tương lai, dẫu cho có những thay đổi để phù hợp với cuộc sống mới, nhịp sống mới thì Ví, Gặm vẫn là Ví, Giặm. Ví, Giặm mãi mãi trường tồn với cuộc sống và tâm hồn của người Xứ Nghệ quê ta./.