Những góc nhìn Văn hoá

Bảo tồn và phát huy dân ca [qua trường hợp Ví, Giặm Nghệ Tĩnh]

1. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân ca là một truyền thống tự giác, thấm sâu trong con người Việt Nam từ rất lâu đời

Dân ca là một trong những loại hình di sản văn hóa phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị bền vững trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Bởi vậy, ngay từ thưở xa xưa, nhiều thể loại dân ca của các tộc trong nước đã không ngừng được khai thác, kế thừa và phát triển. Nhiều làn điệu, bài bản dân ca đã được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác, được dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác và chuyển hóa, biến thái…, khiến cho dân ca ngày càng phong phú, đa dạng – không chỉ bởi những dị bản, mà cả bởi những biến thể phái sinh của chúng.

Lí con sáo với 42 dị bản trải từ vùng đất tổ Phú Thọ, qua một sô tỉnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ cho tới tận Đồng Tháp – gần nơi địa đầu phía Nam của đất nước, mà nhóm tác giả Lưu Nhất Vũ – Lê Giang – Lê Anh Trung đã dày công sưu tập, là một trong những ví dụ điển hình về hành trình dịch chuyển, biến hóa và sinh sôi nẩy nở của một bài dân ca qua khắp ba miền Tổ quốc. Dân ca quan họ Bắc Ninh với 300 bài đã được cố nhạc sĩ Hồng Thao sưu tầm, kí âm là sự thể hiện sinh động của việc kế thừa, tiếp thu và địa phương hóa dân ca từ các thể loại và vùng, miền khác để phát triển hệ bài bản mang đặc trưng riêng của địa phương.

Nhiều làn điệu và bài dân ca - không những thế, còn được chuyển hóa từ thể loại này sang thể loại khác, từ hình thái âm nhạc này sang hình thái âm nhạc khác.  Thậm chí, chúng còn có thể được chuyển hóa từ loại hình âm nhạc này sang hẳn một loại hình âm nhạc có những khác biệt  lớn về bản chất. Chẳng hạn, ở thế kỉ XX, từ khi âm nhạc phương Tây thâm nhập và nhạc mới Việt Nam hình thành, nhiều làn điệu, bài bản dân ca vẫn tiếp tục được các nhạc sĩ khai thác, kế thừa và phát triển, để rồi âm điệu của chúng đi vào các sáng tác của nhiều thế hệ nhạc sĩ nhạc mới một cách nhuần nhuyễn – mặc dầu môi trường sinh hoạt của chúng trong đời sống dân dã không còn tồn tại nữa.

Hò, ví, giặmNghệ - Tĩnh cũng nằm trong luồng chảy văn hóa chung nói trên. Riêng tại vùng đất này, - không biết tự bao giờ, người dân đã sáng tạo nên nhiều làn điệu khác nhau trong từng thể loại hò, ví, giặm. Dẫu chưa được sưu tầm, tập hợp đầy đủ, mỗi thể loại chí ít cũng có tới 6 - 7 hoặc trên dưới 10 làn điệu khác nhau. Sang thế kỉ XX, những làn điệu dân ca này lại tiếp tục được khai thác, kế thừa và phát huy trong những sáng tác mới. Có thể dẫn ra bằng chứng của việc khai thác, kế thừa và phát huy những làn điệu dân ca chỉ của riêng xứ Nghệ qua một số ca khúc mới mà nhiều người từng nghe, từng biết đến: Tiếng hò trên đất Nghệ An (Tân Huyền,1964), Đào công sự (Nguyễn Đức Toàn, 1965), Tiếng hát sông Lam (Đinh Quang Hợp, 1965), Người con gái sông La (Doãn Nho,1970), Năm anh em trên một chiếc xe tăng (Doãn Nho, thơ Hữu Thỉnh, 1971), Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh (Nguyễn Văn Tý, 1974), Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác (An Thuyên, 1974), Sợi nhớ sợi thương (Phan Huỳnh Điểu, thơ Thúy Bắc, 1978), Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví giặm (Trần Hoàn, 1981), Neo đậu bến quê (An Thuyên, 1993), Ca dao em và tôi (An Thuyên, 1996), Chỉ tại dòng sông đa tình (An Thuyên, 2001)… Bên cạnh đó, còn phải kể hàng chục bài cải biên và sáng tác mới trên chất liệu hò, ví, giặm Nghệ - Tĩnh được sử dụng trong các vở dân ca kịch của địa phương, mà chỉ riêng số lượng đã được giới thiệu trong tập Dân ca Nghệ Tĩnh[1]ấn hành vào năm 1991đã lên tới con số 46 bài. Đó là công việc thầm lặng nhưng đầy ý nghĩa của các tác giả - đặc biệt là những tác giả đã góp công xây dựng và phát triển kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh - loại hình sân khấu mới ra đời từ thập kỉ 1960 trên nền tảng của dân ca Nghệ - Tĩnh, như Hồ Hữu Thới, Văn Thế, Khắc Chín, Mai Hồng, Tiến Dũng, Thanh Tùng, Lê Hàm và nhất là hai nhạc sĩ Thanh Lưu và Vi Phong.

Với những tác phẩm nói trên – dù là dân ca cải biên hay ca khúc nhạc mới, âm hưởng và tinh hoa của dân ca Nghệ - Tĩnh chẳng những được bảo tồn, mà còn được phát huy một cách sinh động dưới nhiều dáng vẻ, sắc thái và khả năng biểu hiện ngày càng đa dạng - theo cách nghĩ và cảm xúc của con người thời nay

Những hiện thực lịch sử được chứng kiến trên đây là minh chứng hiển nhiên cho sức sống và khả năng tồn tại của dân ca nói chung, của những làn điệu dân ca Nghệ - Tĩnh, trong đó có ví giặm nói riêng, trong đời sống đương đại. Đó cũng chính là những biểu hiện của khả năng tự bảo tồn và phát triển vốn đã tiềm tàng trong dân ca, mà nhân tố đặt nền tảng cho khả năng đó chính là các giá trị văn hóa nghệ thuật tích đọng trong những di sản này.

Những hiện thực lịch sử kể trên cũng là bằng chứng cho thấy: mặc dầu nhiều làn điệu, bài bản và cả một số thể loại dân ca đã và đang dần bị mai một theo những đổi thay của thời đại, song bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị của dân ca nói chung, của ví, giặm Nghệ - Tĩnh nói riêng, đã trở thành một truyền thống tự giác, thấm sâu trong con người Việt Nam từ rất lâu đời. Người được may mắn thừa hưởng truyền thống đó chính là các thế hệ chúng ta ngày nay. Vậy thì, nếu chỉ bàn tới vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca, công việc của chúng ta chỉ làtiếp tục kế thừa và phát huy truyền thốngsẵn có của các thế hệ tiến bối.

Tuy nhiên, điều mà chúng tôi quan tâm nhiều hơn là việc bảo tồn, kế thừa và phát huychính các di sản dân ca với những sinh hoạt cổ truyền của chúng. Công việc này đem lại lợi ích gì, khả năng thực thi và phương thức thực hiện ra sao? Đó là những vấn đề sẽ được bàn cùng với vài gợi ý nhỏ ở phần tiếp theo.

2. Bảo tồn và phát huy chính các di sản dân ca với những sinh hoạt cổ truyền của chúng –  lợi ích và khả năng thực thi

Nói về lợi ích của việc bảo tồn và phát huy chính các di sản dân ca với những sinh hoạt cổ truyền của chúng, có thể thâu tóm trong mấy khía cạnh chính sau đây:

a) Các di sản dân calà nơi tích đọng những phương thức tư duy âm nhạc cùng những đặc trưng âm nhạc đã được hình thành từ hàng trăm năm. Bảo tồn các làn điệu, bài bản dân ca nhạc cổ để chúng tiếp tục ngân vang trong đời sống đương đại chính là tạo điều kiện để các thế hệ trẻ “nạp” những di sản văn hóa nghệ thuật quý báu của ông cha vào tâm thức và bồi đắp tâm hồn dân tộc, để từ đó biết yêu mến, gắn bó với những sáng tạo bao đời của các thế hệ tiền bối, nâng cao lòng tự hào dân tộc. Cái vồn tích lũy được từ sự thụ hưởng những di sản đó sẽ là nền tảng hữu íchcho việc kế thừa, phát triển chúng trong nền âm nhạc đương đại. Nhạc sĩ An Thuyên – nhờ tắm mình trong dòng sông dân ca của quê hương, đã sáng tạo nên nhiều ca khúc thắm tình người – chan chứa âm hưởng dân ca xứ Nghệ, được công chúng đương đại mến mộ. Anh từng nói: “Không có dân ca xứ Nghệ - không có An Thuyên”. Câu đúc kết của người nhạc sĩ ấy về giá trị và lợi ích của dân ca trong sự nghiệp sáng tạo âm nhạc đương đại của chính anh thật đáng được ghi nhận và để tâm.

b) Các sinh hoạt ca nhạc cổ truyềnnói chung, sinh hoạt dân ca nói riêng, là nơi đào luyện, phát triển năng lực sáng tạo âm nhạc theo phương thức truyền thống. Chính từ những sinh hoạt đó,các dị bản không ngừng nảy nở và ngày càng hoàn thiện, các làn điệu, bài bản không ngừng phát triển. Vì vậy, bảo tồn và phát huy các sinh hoạt đó sẽ tạo môi sinh cho sự sáng tạo, phát triển các làn điệu theo lối tư duy truyền thống. Đó phải chăng là nền tảng quan trọng cho việc xây dựng nhạc mới Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, là những năng lực cần được bồi đắp bên cạnh việc tiếp thu những thủ pháp sáng tác và lối tư duy âm nhạc của phương Tây đang thịnh hành tại các cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp trong nước?

c) Các sinh hoạt dân ca có hát đối đáp nam nữ, đặc biệt là các cuộc hát thi đối đáp lạicó tác dụng rất lớn cho việc phát triển khả năng ứng đối và sáng tác văn học nhanh nhạy. Ví, giặm Nghệ - Tĩnhchính là một trong những thể loại như vậy.

Tài “xuất khẩu thành thơ” và ứng đối thông minh, ý nhị trong đông đảo quần chúng nhân dân thưở xưa đã nảy nở và phát triển từ chính những sinh hoạt dân ca đó. Cũng chính những cuộc hát ví, giặm thuở xưa – với sự bình dị, hấp dẫn của nó, đã từng cuốn hút mãnh liệt biết bao thanh niên và trung niên thuộc mọi thành phần xã hội tham gia – từ những người nông dân thuần phác cho tới các ông đồ nho - và cả những thi nhân cùng những người thuộc dòng dõi quan lại. Thi hứng và cảm xúc khơi nguồn cho sự ra đời của hai thi phẩm Thác lời trai phường nón Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ. của đại thi hào Nguyễn Du đã chẳng nảy nở từ những cuộc nghe hát ví ở xứ Nghệ - quê ông đó sao?

Tiếc rằng đã từ lâu, khả năng ứng đối thông minh, ý nhị và sáng tác văn học nhanh nhạy cũng như tài “xuất khẩu thành thơ” hầu như đã bị thui chột ở phần đông các thế hệ trẻ. Khôi phục lại những sinh hoạt hát đối đáp nam nữ không những là khơi lại tập quán và năng lực biến hóa lòng bản và phổ lời cho các làn điệu dân ca – qua đó tạo cơ hội phát triển cho những làn điệu cổ truyền, mà còn là một phương thức khôi phục và đào luyện lại khả năng ứng đối và sáng tác văn học nhạy bén cho các thế hệ trẻ ngày nay. Ấy là chưa kể:

d)Những cuộc hát đối đáp đồng thời cũng là dịp để tăng cường mối quan hệ giao lưu, tính tập thể cộng đồng và tình thân ái trong giới trẻ. Phải chăng đây cũng còn là phương thứctạo thêm một sân chơi lành mạnh, thanh nhã đầy trí tuệ và giàu tính nghệ thuật cho thanh niên. Từ những sân chơi và các sinh hoạt này, nhiều tài năng văn học và âm nhạc sẽ nảy nở trong đông đảo giới trẻ, làm nền tảng vững chắc cho sự xuất hiện những tài năng chuyên nghiệp xuất sắc - vừa chung đúc được tinh hoa âm nhạc của nhân loại, vừa bám chắc rễ trong cội nguốn âm nhạc của dân tộc.

Lẽ dĩ nhiên, việc khôi phục và phát triển những sinh hoạt dân ca như trên trong đời sống ngày nay không nhất thiết chỉ bó hẹp trong các phường nghề và các làng quê xứ Nghệ như xưa kia. Những sinh hoạt dân ca và những cuộc thi tài ứng đối và biến hóa, phát triển các làn điệu dân ca có thể được tái hiện dưới những hình thức khác, với những đối tượng tham gia khác và trong một không gian rộng mở hơn… Chẳng hạn, bên cạnh việc khôi phục những sinh hoạt dân ca trong đông đảo công chúng – kể cả trong các trường chuyên nghiệp và phổ thông, tại địa phương – nơi đã sản sinh và nuôi dưỡng, phát triển những di sản dân ca này, còn có thể tái hiện và phát triển những sinh hoạt dân ca trong các cuộc liên hoan hoặc thi hát dân ca, trong những “cuộc chơi” trên các chương trình phát thanh, truyền hình đã, vẫn đang và - hi vọng rằng, sẽ được tổ chức thường kì, để thu hút đông đảo lực lượng tham gia trong cả nước, v.v…

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc bảo tồn các di sản ca nhạc nói chung, các di sản dân ca nói riêng, cùng với các sinh hoạt truyền thống của chúng không phải bao giờ - và với thể loại nào, cũng là khả thi.  Tuy nhiên, với ví giặm Nghệ - Tĩnh, khả năng bảo tồn như trên lại là khả thi. Bởi, nếu thanh niên ngày nay rất nhiệt thành tham gia các chương trình Vietnam Idol, I Sing, Giọng hát Việt, Tôi là chiến sĩ  và cả những cuộc chơi khác có thi kiến thức (bao gồm cả kiến thức âm nhạc) được tổ chức trên truyền hình, tôi tin rằng - với đặc trưng dân dã, phổ cập và hấp dẫn vốn có từ xưa của các hình thức hát dân ca đối đáp, khả năng thực thi của công việc trên không phải là quá khó – nếu những người làm văn hóa nghệ thuật và phát thanh truyền hình nhân thức được vấn đề và nhiệt thành với công việc này.

Mặt khác, từ nhiều năm qua, chúng tôi đã tiến hành thể nghiệm việc tập vận lời ca và hát đổi đáp trên lòng bản của dân ca vào môn Âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Nội dung này đã chính thức được đưa vào giáo trình của môn Âm nhạc cổ truyền Việt Nam cho Cao đẳng Sư phạm[2].Cách học này hoàn toàn khác với cách học dân ca theo kiểu lâu nay đang phổ biến ở rất nhiều trường chuyên nghiệp cũng như phổ thông. Bởi, đây không phải là cách học thụ động – học bài nào biết bài nấy, mà là học để biết cách vận dụng, biến hóa một cách linh hoạt phần âm nhạc của làn điệu dân ca theo lòng bản của nó cho hợp với lời ca mới, đồng thời tập sáng tác tại chỗ lời ca trên một thể thơ phù hợp với làn điệu dân ca đó. Thực tế thể nghiệm những năm qua cho sinh viên Cao đẳng Âm nhạc, Cao đẳng Sư phạm Âm nhạc và Đại học Sư phạm Âm nhạc ở một số cơ sở đào tạo cho thấy: mặc dầu lúc đầu các em rất bỡ ngỡ, lúng túng – vì trong đời các em chưa từng làm việc này bao giờ, nhưng không khí học dần trở nên vui và hào hứng, giờ học môn Âm nhạc cổ truyền Việt Nam cũng sinh động và hấp dẫn các em hơn. Nhiều em đã thể hiện được khả năng sáng tạo của mình qua việc đặt những lời mới theo chủ đề mà giảng viên đưa ra và biết vận dụng một cách linh hoạt vào làn điệu dân ca theo lòng bản có sẵn. Với phương pháp dạy và học này, các em vừa có cơ hội để “nạp” những làn điệu dân ca cổ truyền của dân tộc, vừa khơi dậy và phát triển những năng lực còn đang “ngủ” trong các em, để các em có thêm những năng lực như đã trình bày.

Kết quả trong việc thể nghiệm cho sinh viên tập hát đối đáp theo một số làn điệu dân ca trên đây cũng là chính những dấu hiệu cho thấy khả năng của việc bảo tồn và phát huy những sinh hoạt hát dân ca theo phương thức cổ truyền trong các thế hệ trẻ đương đại là hoàn toàn khả thi.

Hy vọng rằng các di sản dân ca quý giá, trong đó có ví, giặm Nghệ - Tĩnh, sẽ được bảo tồn và phát huy trong đời sống đương đại cùng những giá trị văn hóa nghệ thuật bền vững của chúng.

..........................

[1]Dân ca Nghệ Tĩnh, 1991, Nxb. ­Âm nhạc – Sở Văn hóa – Thông tin Nghệ Tĩnh.

[2]Nguyễn Thụy Loan, Âm nhạc cổ truyền Việt Nam (Giáo trình Cao đẳng Sư phạm), 2005, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.148-152. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577793

Hôm nay

2324

Hôm qua

2333

Tuần này

2992

Tháng này

224850

Tháng qua

130677

Tất cả

114577793