Những góc nhìn Văn hoá

Đón Vĩnh Thụy qua Vinh

Cách mạng Tháng 8 năm 1945 của nước ta diễn ra một cách thuận lợi và nhanh chóng. Ngày 19-8 khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Ngày 21-8 khởi nghĩa thành công tại Vinh, ngày 23-8 thành công tại Huế; Ngày 25-8- thành công ở Sài Gòn. 25-8-1945 vua Bảo Đại (tức Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy), vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn nhận thoái vị(1). Ngày 2-9-1945, tại ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra đời.

Trước đó, ngày 28-8-1945, trong phiên họp thành lập Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cựu hoàng Vĩnh Thụy đã được cử làm Cố vấn tối cao của Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có gửi  điện, nhã ý muốn mời ông Cố vấn ra để cùng dự buổi lễ Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2-9-1945. Nhưng không kịp, vì cũng vào sáng hôm đó Vĩnh Thụy mới rời hoàng cung ra Hà Nội.  

Đoàn của cựu hoàng lên đường bằng hai chiếc ô-tô. Vĩnh Thụy ngồi xe riêng của mình là chiếc Méc-quya-ri  (Mercury),có Bộ trưởng Bộ Lao động của Chính phủ cách mạng Lê Văn Hiến tháp tùng. Theo sau là chiếc Pắc-ka (Packard) chở hoàng thân Vĩnh Cẩn cùng đi.

Đây là đoạn hồi ký mà ông Lê Văn Hiến kể lúc đoàn xe vừa đi qua Đèo Ngang:

Có lẽ, tính ông Vĩnh Thụy hơi nhút nhát. Ông ta chẳng biết gì về cách mạng. Ông hỏi tôi: Hồ Chí Minh là ai? Tôi cho biết đó chính là Nguyễn Ái Quốc, ông có vẻ hài lòng. Khi được biết  Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là một, ông nhớ lại câu sấm truyền”Nam Đàn sinh thánh, thánh đây phải là Nguyễn Ái Quốc, ông đã thốt ra:“Thế thì thoái vị cũng đáng”(2).    

 Khoảng 5 giờ chiều ngày hôm đó, đoàn xe của Cố vấn Vĩnh Thụy ra đến Vinh  và nghỉ đêm tại đấy.

Trước đó hai hôm, ông Lê Viết Lượng, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nghệ An(3) nhận được Điện của Chính phủ, rồi ra Hà Nội nhận nhiệm vụ để về lo công việc đón tiếp ngài Cố vấn.

Với trách nhiệm sưu tầm tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quê hương Nghệ Tĩnh và Lịch sử Thành phố Vinh, người viết bài này được gặp ông Lượng tại nhà riêng (Gác 2. Số 14, phố Lê Phụng Hiểu, Hà Nội) vào buổi trưa ngày 16- 7-1970, để xin ghi chép đôi điều về sự kiện ngài Vĩnh Thụy đến Vinh năm 1945. Sau mấy phút trầm tư, ông Lượng kể:

  • Nhớ ấy là buổi sáng ngày 31-8-1945, tôi được Bác Hồ trực tiếp giao trách nhiệm. Cùng dự cuộc gặp có ông Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Bác Hồ cho biết trong chuyến đi từ Huế ra Hà Nội sắp tới, cựu hoàng Bảo Đại sẽ cho xe dừng lại nghỉ đêm tại Vinh. Người nói: “Cựu hoàng nay đã là Cố vấn tối cao của Chính phủ ta. Để vị hoàng đế chịu từ bỏ ngai vàng điện ngọc mà đi với  Chính quyền nhân dân là việc chỉ có một cuộc cánh mạng dân chủ thực sự mới làm được. Bảo Đại là một ông vua được học hành đến nơi, đến chốn . Khi nộp ấn kiếm cho cách mạng, cựu hoàng phát biểu: “Ở giờ phút quyết định này của lịch sử, đoàn kết có nghĩa là sống mà chia rẽ là chết” và ngài đã nói :“ Muốn làm dân một nước tự do hơn làm vua một nước bị trị”. Có được những câu nói như vậy từ một vị hoàng đế, cho dù ông ấy biết là mình không thể cưỡng lại được thời cuộc, đó là một thành công nữa của cách mạng, có ảnh hưởng tốt trong nhân dân. Nay cựu hoàng lại vui lòng nhận làm Cố vấn của Chính phủ, như vậy là thêm một thuận lợi lớn cho nền dân chủ mới. Nay mai Cố vấn sẽ ra Hà Nội nhận chức và đi bằng ô-tô. Vinh là một nơi ông ấy sẽ dừng chân và nghỉ đêm. Chú về theo dõi tình hình và tổ chức đón tiếp ngài Cố vấn cho thật thịnh tình, chu đáo. Nhớ Nghệ An là nơi thời kỳ nào tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân cũng cao, mà ta làm cách mạng cũng cốt là để chấm dứt sự ngự trị của chế độ thực dân -phong kiến. Nay chính quyền đã về tay nhân dân, phải làm sao để thể hiện rõ là ở đâu nhân dân ta cũng rất độ lượng, hết sức trân trọng và biết phát huy mọi thành quả của cách mạng”. Thì giờ không có nhiều, Cụ Hồ nói ít nhưng rất đầy đủ và chỉ rõ trách nhiệm của Nghệ An trong việc đón tiếp ông Cố vấn Vĩnh Thụy.

Sau đó, ông Hoàng Hữu Nam cùng trao đổi thêm. Ồng dặn là, nên bố trí để khi xe của cựu hoàng vừa qua phà Bến Thủy là nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt, chân tình của nhân dân Thành phố Vinh. Cốt làm sao để vị cựu hoàng thấy không có gì là hụt hẫng khi mình rời bỏ ngai vàng mà theo cách mạng, đi với nhân dân. Nơi gặp gỡ, nghỉ ngơi của ông Cố vấn phải bảo đảm thật sự an toàn nhưng không nên bố trí thêm cái gì khác biệt  trong việc giữ an ninh trật tự so với ngày thường.

Ủy ban Cách mạng Lâm thời tỉnh Nghệ An đã làm theo những lời chỉ dẫn đó. Vào ngày ấy cũng có một số công an viên bận thường phục đứng canh gác cách quãng với những dụng cụ lao động cầm tay như mọi người dân phố khác đang chăm lo công việc của mình. Buổi ấy chưa đến ngày tựu trường nhưng ta cũng đã huy động được khá đông thanh niên, học sinh tay cầm cờ đỏ sao vàng, đứng làm hàng rào danh dự từ hai bên bến phà. Họ vẫy chào khi đoàn xe của khách đi qua. Cố vấn Vĩnh Thụy tươi cười đưa tay ra ngoài cửa kính mà khoát mạnh để đáp lễ. Ra tới đây, ông Cố vấn gặp thêm một người bạn đường là Hoàng thân Xu-pha-nu-vông.

Vì bận công việc buổi chiều, ông Cựu chủ tịch đầu tiên của tỉnh Nghệ xin dừng lời kể và bảo tôi : “ Từ đó, việc tiếp vị Cố vấn thì ông Nguyễn Tạo(4) là người lo liệu chính. Anh nên gặp thêm ông ấy. Hồi đó, ông Tạo là Trưởng Ty  Trinh sát Nghệ An”.

Ông Lượng cũng không quên chỉ cho tôi chỗ ở của ông Tạo ở số nhà 127, phố Lò Đúc. Vâng lời ông, tôi đã tìm tới đó.

Nghe chúng tôi trình bày về yêu cầu của công việc và những điều mình đã thu nhận được, ông Nguyễn Tạo cho biết thêm:

- Bữa ấy tôi được phân công đi đón Hoàng thân Xu-pa-nu-vông. Theo kế hoạch dự định, sáng ngày 4-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ gặp Hoàng thân ở Hà Nội để cùng bàn định công việc chung. Hành trình của Hoàng thân là đi bằng ô-tô, qua cửa khẩu Nậm Cắn, xuống Đô Lương, xuôi về Nam Đàn rồi nghỉ lại ở Vinh để hôm sau thì đi  ra. Sau này, tôi được nghe nói, Hoàng thân đi theo con đường ấy là để xem xét thêm về đập nước Đô Lương và cống  Sa Nam. Một số người cho biết, Hoàng thân là kỹ sư cầu cống, học từ bên Pháp về(5). Ngoài tháp nước Phan Rang nổi tiềng và đập Bái Thượng được xây dựng sớm, ngài còn tham gia làm 7 công trình thủy nông khác ở Trung Kỳ(6).

Khi chúng tôi về tới Vinh thì đoàn của Cố vấn Vĩnh Thụy vừa sang khỏi phà Bến Thủy rồi tất cả cùng về gặp mặt tại dinh Công sứ (cũ).

Một  tiệc trà nhẹ tẩy trần được diễn ra. Ngài  Cố vấn và vị Hoàng thân cùng trò chuyện, nhắc lại những ngày gặp nhau, lúc họ còn đồng học tại Pa-ri. Sau đó, các vị  được mời vào nghỉ ở trong thành, nơi ấy có ngôi hành cung, vốn là cung điện do từng tỉnh (ngoài kinh thành) xây, để phòng khi vua đi xuất tuần mà ở lại. Còn Hoàng thân Vĩnh Cẩn thì được mời nghỉ ở nơi vốn là dinh Tổng đốc Nghệ An cũ.

Buổi cơm tối hôm đó diễn ra tại Khách sạn Lớn(Grand Holel), nằm trên Ngã tư nơi đường Sét-chi-ê(Henri Sestier) chạy giữa một bên là Tòa Sứ, một bên là đền Nhà Ông cắt đường Gióp-phơ-rơ (Joseph- Jacque- Cécaire Joffre) rồi qua trước cầu Cửa Tiền thẳng xuống chợ Vinh. Sáng sớm ngày 3-9-1945, sau bữa điểm tâm, cũng tại Khách sạn Lớn, cả hai vị khách cùng lên đường ra Hà Nội. Lại các em thanh thiếu niên mang cờ hoa đến tiễn khách.

Ông Nguyễn Tạo được giao nhiệm vụ tiễn khách ra đến Cầu Cấm rồi chia tay nhau ở đó.

Đó cũng là lần cuối cùng Bảo Đại/Vĩnh Thụy đến đất Nghệ.

C.T.H

                                                                                               

                                                                                                         

 



(1)Về thời gian diễn ra lễ tuyên bố thoái vị của vua Bảo Đại, một số tài liệu chép là ngày 30-8-1945. Nhà thơ Huy Cận là thành viên trong Đoàn do Chính phủ cử vào  nhận ấn kiếm của nhà vua dịp ấy cũng nhớ là ngày 30-8-1945 (Hồi ký in trên báo Quân đội Nhân dân). Ở đây chúng tôi căn cứ vào Quyết nghị của  cuộc họp Chính phủ ngày 28-8-1945 cử Cựu hoàng Bảo Đại làm Cố vấn tối cao,  Bách khoa toàn thư  Wikipedia : “Bản Tuyên ngôn thoái vị của Bảo Đại” và sách  “ Con rồng Việt Nam” của Bảo Đại. Các tài liệu đó đều ghi rằng , ngày vua Bảo Đại thoái vị là 25-8-1945.

(2)Trích trong  Chương 15, “ Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam” (Bao Dai ou les derniers jours de l’ Empire d’Annam) của Daniel Grandclément (Loại sách tiểu sử và hồi ký) Nhà xuất bản Phụ nữ  2006. Nguyên văn tiếng Pháp của câu cuối cùng : “çavaut bien de coup, alors”.

(3)Lê Viết Lượng (1905-1985), quê cũ ở thôn Cải Lương,tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, xuất thân là một nhà giáo. Năm 1930 ông tham gia hoạt động cách mạng, là Bí thư Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên rồi bị thực dân Pháp bắt bỏ tù .Đến tháng 3-1945 ông mới ra khỏi nhà lao của đế quốc. Từ đó, ông ở trong Ban Việt Minh liên tỉnh Nghệ-Tĩnh cùng lãnh đạo công việc cướp Chính quyền trong Cách mạng Tháng 8 tại hai tỉnh này. Cách mạng thành công, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban  Lâm thời tỉnh Nghệ An…Khi chúng tôi được gặp(1970), ông đã từ là Giám đốc Ngân hàng Trung ương chuyển sang làm Phó Chủ nhiện Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

(4)Nguyễn Tạo(1905-1994) xuất thân trong một gia đình nhà Nho yêu nước, tại xã Thái Yên, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh, lớn lên và học tập tại Vinh rồi tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1930 người đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương Nguyễn Tạo bị đế quốc Pháp bắt, an trí tại các nhà tù ở Tây Nguyên. Sau hai lần vượt ngục rồi bị bắt lại, năm (1942), đang  là Bí thư chi bộ Tù của  nhà lao Đắc –Min, ông vượt ngục lần thứ 3 thành công. Từ đó, Nguyễn Tạo được tổ chức cử đi xây dựng lại cơ sở Đảng ở nhiều nơi, như việc khôi phục Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa… Năm 1945, ông ở trong Ban lãnh đạo tổ chức khởi nghĩa Tháng 8 tại Nghệ- Tĩnh. Sau ngày cướp Chính quyền, ông làm  Trưởng ty Trinh sát (sau đổi là Ty Công An) tỉnh Nghệ An. Khi là Trưởng ty Công An Hà Nội, ông đã có công dẹp xong vụ gây bạo loạn  ở phố Ôn Như Hầu ( 12-7-1946). Từ 1954 ến 1957, ông là Cục trưởng cục Chấp pháp Bộ Công An. Ông cũng đã làm Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp. Trước khi nghỉ hưu, ông là Phó chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Nhân dân xã Thủy Lạc, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình hiện thờ ông Nguyễn Tạo, là vị Thành hoàng của địa phương ấy. Những tư liệu về ông Nguyễn Tạo, ngoài hồi ký nói trên, chúng tôi lấy từ  kỷ yếu Hội thảo “Nguyễn Tạo-Người cộng sản kiên cường một đời vì nước, vì dân do Tạp chí “Xưa và Nay”, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức vào  ngày 10-4-2013.

(5)Souphanouvong (1909-1995) là anh em cùng cha khác mẹ với hoàng thân  Souvanna Phouma và hoàng thân  Boun Oum. Họ là con của hoàng thân Bounkhong Uparạt, vị phó vương cuối cùng của triều vua Luang Pra-bang, nước Lào. Khoảng năm 11 tuổi, Xu-pha-nu-vông đã sang học tập tại  Hà Nội. Sau khi học xong ở Trường An-be-Sa-rô (Albert Sarraut ), ông sang Pháp học  và tốt nghiệp tại Đại học Quốc gia cầu-cống (École Natiornal des Ponts et Chaussées). Trong thời gian ấy, Vĩnh Thụy học tại Trường Đại học Khoa học chính trị Sciene Po (École Libre des Sciences Politique). Cả hai trường  cùng đặt tại Paris.Về sau, Souphanouvong là Lãnh tụ Đảng Cộng sản Lào, người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam. Suốt đời  ông chiến đấu cho một nước Lào độc lập và thống nhất .Ông làm Chủ tịch nước Lào từ tháng 12-1975 đến thán 8-1991. Sau đó, ông làm Cố vấn Trung ương của Đảng Cộng sản Lào.

(6)Theo Bách khoa Wikipedia. Một số tài liệu gần đây viết Souphanuvong là người đã xây dựng đập nước Đô Lương (Tô Lan Hương trên “Nhân dân” hàng tháng và trên mạng  Google 27-01-1914). Nhưng, trong “Niên giám Đông Dương” ghi chép về nhân sự của Quận Thủy nông Bắc Trung Kỳ (từ 1930-1939) do Pi-e-rơ Phơ-răng ( Pierre Franc), Kỹ sư công chánh hạng 3 (bắt đầu từ hạng 1, tính từ thấp lên cao) làm Quận trưởng thì trong đó, riêng tại Nghệ An, bản Niên giám ấy đề cập đủ những nhân sự  phụ trách các địa điểm Đô Lương , Diễn Châu, Nam Đàn và ghi chép đến cả tên các nhân viên kỹ thuật hạng 1 người Việt,mà không thấy nói đến Souphanuvong. Có chăng, vị Kỹ sư  nổi tiếng này chỉ tham gia vào công việc xây dựng đập nước Đô Lương ở phần thiết kế (?). Còn đập nước Bái Thượng do Souphanouvong  thiết kế thì hoàn thành vào năm 1927. Cũng năm ấy đập nước Đô Lương  cũng đã có bản  vẽ  thiết kế nhưng để thực hiện nó, cần phải có đường dẫn thuyền bè qua núi Cóc, một việc làm quá khó nên công trình này bị chậm lại. Rồi một phần cũng là nhờ có Cao trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh mà đập nước Đô Lương cùng hệ thống tưới nước của nó vùng đồng bằng Bắc Nghệ An được thự thi (1931-1937). 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577832

Hôm nay

22

Hôm qua

2361

Tuần này

21031

Tháng này

224889

Tháng qua

130677

Tất cả

114577832