Những góc nhìn Văn hoá

"Nỗi niềm" Ví, Giặm hôm nay

Trên dải đất hình chữ S có tên gọi Việt Nam đi đến đâu cũng nghe những câu hát, điệu hò mang đậm tình đất, tình người, thể hiện bản sắc của từng vùng miền. Nhưng có lẽ chỉ có những làn điệu dân ca Ví và Giặm được nuôi dưỡng, lan tỏa trên một phạm vi rộng lớn đến thế, khắp hàng trăm làng xã của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, từ đồng bằng tới trung du, miền núi, từ miền biển tới miền sông nước, dọc đôi bờ sông Lam, sông La, sông Nghèn, sông Ngàn Phố... Nếu như trong dân ca Quan họ Bắc Ninh sau những canh hát giao duyên một liền chị vẫn quyến luyến không muốn chia tay liền anh nên cứ thiết tha “người ơi người ở đừng về”, đến khi liền anh không thể không về thì liền chị còn dặn dò “mấy câu tái hồi” rằng:

 

                        Yêu em (là) em mong anh xin chớ

                        Mà này đừng có (a) đứng ngồi, đứng ngồi với ai

thì chàng trai xứ Nghệ đi hát Phường vải cũng thiết tha bộc bạch nỗi lòng:

                        Ra về nhớ lắm em ơi,

                        Nhớ chốn em đứng, nhớ nơi em ngồi

Hay:

                        Ra về nhớ ngãi nhớ tình,

                        Nhớ gương, nhớ lược, nhớ mình không nguôi

            Nói về cái hay, cái đẹp, cái đằm thắm của dân ca xứ Nghệ thì có lẽ có nói thâu đêm suốt sáng như ngày xưa đi hát phường vải cũng không thể nào nói hết. Người viết bài này không có tham vọng bàn luận về cái đặc sắc của dân ca Nghệ Tĩnh, mà trong khuôn khổ của một tham luận hội thảo xin được đề cập tới một số vấn đề mà theo chúng tôi có mối liên quan cốt lõi tới việc bảo tồn và phát triển dân ca Nghệ Tĩnh trong đời sống đương đại.

  1. Về môi trường - không gian diễn xướng của Ví Giặm Nghệ Tĩnh

Chúng ta đều biết rằng, mọi hình thức, loại hình nghệ thuật dân gian đều có cái nôi đầu tiên sản sinh ra chúng, rồi từ cái nôi ấy nghệ thuật mới được lan tỏa, truyền tụng. Sự lan tỏa từ vùng này qua vùng khác rộng hay hẹp, sự truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác lâu bền hay đứt đoạn là tùy thuộc vào giá trị văn hóa và sức sống của loại hình nghệ thuật đó lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu. Dẫu sao, khi bị tách rời khỏi môi trường đã sản sinh và nuôi dưỡng ra mình, nghệ thuật dân gian không tránh khỏi bị biến đổi, bị pha tạp, bị biến dạng… Tất nhiên không phải loại hình nghệ thuật dân gian nào cũng có thể lan tỏa và phát triển trên những mảnh đất “xa lạ” với cái gốc văn hóa của nó. Cụ thể như, trên đất nước Việt Nam của chúng ta có rất nhiều nơi có nghề trồng bông và kéo sợi, nhưng không phải ở nơi nào có nghề làm bông, kéo sợi là có hát Ví Phường vải. Hát Phường vải chỉ phát triển ở Nghệ Tĩnh, mà ở Nghệ Tĩnh cũng chỉ tập trung ở một số huyện có các điều kiện địa văn hóa, văn hóa, kinh tế… phù hợp với loại hình diễn xướng này. Đó là một số xã ở các huyện Nam Đàn, Đô Lương, Thanh Chương, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Diễn Châu thuộc tỉnh Nghệ An, nổi bật là ở huyện Nam Đàn; Ở Hà Tình Ví Phường vải có ở một số xã thuộc các huyện Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Đức Thọ, Kỳ Anh, nổi bật là ở Trường Lưu (huyện Can Lộc). Đấy là những địa danh hết sức quen thuộc nằm rài rác hai bên bờ sông Lam, sông La, hoặc là những nơi “sơn thủy hữu tình”, địa linh nhân kiệt, và cái chung là đều có nghề phụ thủ công (ngoài nghề làm nông), nhất là nghề trồng bông kéo vải. Ví Phường vải ở Nam Đàn (Nghệ An) hay ở Trường Lưu (Hà Tĩnh) đã một thời nổi tiếng gần xa bởi đã đạt đến trình độ cao về nghệ thuật đối đáp, ví von và về sự thâm nho uyên bác… Dù vậy, không nằm ngoài quy luật phát triển của xã hội, khi môi trường sống cùng với tất cả những điều kiện kinh tế - xã hội biến đổi thì những nếp sống, tập tục và sinh hoạt văn hóa, trong đó có nghệ thuật diễn xướng dân gian cũng thay đổi theo. Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Tất Thứ - một trong những tác giả đầu tiên viết về Ví Phường vải, thì “Khoảng đầu thế kỷ XX, vải sợi, nhất là sợi từ Trung Quốc tràn vào thị trường Việt Nam khiến nhiều nơi vốn quen nghề kéo sợi của ta phải lần lượt tùy theo hoàn cảnh địa phương mà dẹp bỏ. Khi đã bỏ nghề kéo sợi, nhiều nơi chuyển sang nghề dệt vải hoặc dệt lụa tằm tơ. Khi mà nghề kéo sợi không còn thì tập tục tụ họp nhau để ví phường vải cũng không có lý do tồn tại. Chỉ một số làng xã ở Nam Đàn là đeo đẳng nghề kéo sợi lâu dài nhất và tập tục ví phường vải cũng được duy trì bền bỉ nhất”. [1]      

Nghệ nhân Trần Văn Tư, sinh năm 1928, ở xóm Hoàng Trù 1, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn (một trong những nơi trước đây có hát Ví Phường vải rất nổi tiếng), cho chúng tôi biết, vào khoảng những năm 1958 - 1959 ở đây đã nghỉ làm bông, không còn kéo sợi nữa thì cũng không có hát Phường vải nữa; Đến khoảng cuối 1990 ở đây có đề án phục hồi hát Phường vải, Câu lạc bộ Phường vải ra đời, nhưng tất nhiên không còn cảnh hát ví Phường vải của phường quay xa kéo sợi như trước đây.

Nghệ nhân Nguyễn Trọng Đổng ở xã Thanh Tường, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An (sinh năm 1932) nhớ lại, hồi ông mới 9 – 10 tuổi, tối tối, nhất là những hôm trăng thanh gió mát, từ sân nhà mình ông vẫn được nghe mấy tốp người lớn trong xóm cứ hát qua hát lại với nhau, tiếng hát văng vẳng, vọng từ bên này sang bên kia cánh đồng làng… Cậu thiếu niên Đổng liền hỏi mẹ mình (là cụ Nguyễn Thị Đồng, vốn là một nghệ nhân hát Ví – Giặm nổi tiếng của đất Thanh Tường, năm nay 104 tuổi) “Người ta hát cái gì đấy hả mẹ?”, bà mẹ trả lời rằng “Người ta hát đối, hát Ví đấy”… Chỉ cần tưởng tượng cái cảnh ngày xưa ấy tôi đã thấy háo hức trong lòng và thầm ước “bao giờ cho tới ngày xưa”!

Nhắc tới tất cả những điều trên là để nói rằng, cái môi trường “đích thực” của hát phưởng vải nay đâu còn nữa. Hát Phường vải hôm nay là hát ở câu lạc bộ, ở sân khấu của các hội thi, hội diễn, các cuộc liên hoan văn nghệ xã, huyện, tỉnh, v.v… Và như vậy, trong môi trường mới, hoàn cảnh mới, tất nhiên những nét độc đáo, đặc sắc của hát phường vải cũng bị mai một. Cũng tương tự, hát ví, hát Giặm phường mộc, phường nón… ngày nay cũng cùng chung một cảnh như vậy. Khi phục hồi để bảo tồn, để phát huy các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống nói chung, Ví Giặm Nghệ Tĩnh nói riêng, chúng ta buộc phải chấp nhận quy luật tất yếu này, đồng thời cố gắng tìm cách “tái tạo” lại môi trường “giống như cũ”, gần với khung cảnh cũ, để tạo cảm hứng cho người diễn lẫn người nghe, người xem.

2. Về chủ thể sáng tạo và trao truyền

Không gian diễn xướng của Ví, Giặm đã thay đổi, vậy còn người hát Ví, Giặm hôm nay thì sao? Ai Ví, ai Giặm hôm nay? Họ là ai? Họ ở đâu?

Có thể trả lời ngay rằng, người hát Ví, Giặm hôm nay cũng khác xưa nhiều lắm. Sự khác này bắt nguồn từ đặc điểm loại hình của dân ca Ví, Giặm, cái làm nên sự khác biệt rõ rệt giữa dân ca Ví Giặm với các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian khác. Trong khi phần lớn các loại hình nghệ thuật diễn xướng hay nghệ thuật biểu diễn dân gian của chúng ta gắn liền với hội hè, mỗi dịp xuân về hay diễn ra trong những dịp nông nhàn của người dân lao động (như dân ca Quan họ Bắc Ninh, trò Rối nước, Đờn ca tài tử, …), thì dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh xuất phát từ lao động, hơn nữa thường gắn liền với một hình thức lao động nhất định và diễn ra đồng thời trong lúc chủ thể sáng tạo đang lao động. Chả thế mà người ta đặt luôn tên Ví Phường vải, Ví Phường nón, Ví Phường mộc, Ví đò đưa, v.v… vì chúng được sáng tạo và thực hành trong khi con người đang làm những công việc ấy. Vì diễn ra trong lúc con người đang lao động nên dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh có đặc điểm nổi bật là tính ứng khẩu rất cao, đối đáp hoàn toàn ngẫu hứng, không hề có bài bản được soạn sẵn mà hết sức linh hoạt, thể hiện trí thông minh và tài nghệ của người hát.

Ngày nay, nhiều ngành nghề thủ công đã mất, môi trường – không gian diễn xướng xưa vì thế cũng không còn. Ngày nay bà con hát và dạy Ví, Giặm trong các câu lạc bộ dân ca của thôn, của xã hay của huyện. Không những ở nông thôn, hiện nay ở Nghệ Tĩnh ở các thị trấn, thành phố đều có các Câu lạc bộ hát dân ca Nghệ Tĩnh. Ngày nay các “nghệ nhân dân gian” (đã được phong hay chưa được phong) hát Ví, hát Giặm, hát đối, hát ghẹo trong các cuộc liên hoan hay thi hát dân ca từ cấp huyện đến cấp tỉnh, cấp toàn quốc. Họ diễn các hoạt cảnh, tiểu phẩm hay kịch (dân ca) ngắn do tác giả nào đó sáng tác theo một số chủ đề nhằm tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước như kế hoạch hóa gia đình, an toàn giao thông, bài trừ các tệ nạn xã hội, v.v…

Nói về công việc trao truyền những giá trị nghệ thuật dân gian cho thế hệ trẻ hôm nay, thiết nghĩ, đối với tất cả các loại hình nghệ thuật diễn xướng trên mọi vùng quê ở nước ta nói chung, đối với dân ca Nghệ Tĩnh nói riêng, đội ngũ nghệ nhân “gạo cội” hiện nay không còn được mấy cụ còn đủ sức khỏe để truyền dạy cho con cháu, phần lớn họ đã ở độ tuổi trên 80. Chính lớp nghệ nhân này là những nghệ sỹ dân gian năm xưa đã đêm đêm ngồi quay xa kéo sợi và hát Ví Phường vải, hay ngồi chằm nón lá và hát Ví Phường nón, hoặc họ là những nông dân ngày ấy ban ngày thì “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, nhưng tối đến lại từng tốp kéo nhau ra cánh đống đầu làng hát đối, hát ghẹo… Chỉ tiếc rằng hôm nay lớp nghệ nhân ấy không còn cơ hội để truyền dạy cho con cháu cái vốn quý của cha ông. Việc truyền dạy chủ yếu đặt lên vai các nghệ nhân ở độ tuổi 60, xuống đến tuổi 50, 40. Đó là con cháu của lớp nghệ nhân “gạo cội”, trong số đó nhiều người đã là người của thiên cổ mà chúng ta hôm nay chỉ biết nhắc tới họ với lòng ngưỡng mộ pha chút xót xa…

Về mặt chất lượng nghệ thuật mà nói, chúng ta cần hiểu để mà chấp nhận một quy luật bất khả kháng rằng, với phần lớn các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống, việc bảo tồn và trao truyền khó tránh khỏi tình trạng cứ qua mỗi thế hệ thì lại bị “hao hụt” đi một ít, những gì được cho là căn nguyên nhất, tinh túy nhất của cha ông truyền lại cho các thế hệ tiếp nối cứ qua mỗi thời lại bị mai một đi một phần. Có thể có người cho rằng đây là cái nhìn cực đoan chăng? Cũng có thể có người lập luận rằng mỗi thời có những sáng tạo riêng và không thể nói là cái sau dở hơn, kém hơn cái trước? Tuy nhiên thực tế cho thấy đúng là như vậy. Các nghệ sĩ Tuồng, Chèo hôm nay, dù là Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú vẫn phải thừa nhận rằng những vai mẫu mà họ được các bậc thầy đi trước truyền dạy thì bản thân họ chưa có ai sánh kịp các thầy của mình ngày xưa. Đấy là nói về các loại hình sân khấu truyền thống ở trình độ chuyên nghiệp. Với nghệ thuật diễn xướng dân gian cũng tương tự như vậy mà thôi. Có hai nguyên nhân cơ bản khiến cho nghệ thuật diễn xướng/biểu diễn/trình diễn dân gian dù có được chúng ta hôm nay tích cực bảo tồn và thực hành rộng rãi trong xã hội thì vẫn không thể nào đạt tới trình độ nghệ thuật điêu luyện hay có sức hấp dẫn như ngày xưa, thứ nhất là do không gian diễn xướng đích thực của loiaj hình nghệ thuật đã thay đổi, thứ hai là do chính cái “quy luật bất khả kháng” mà chúng tôi vừa nói ở trên, tức là ở sự “hao hụt” trong quá trình trao truyền nghề nghiệp giữa các thế hệ nghệ nhân.

Các tác giả sáng tác các làn điệu hay hoạt cảnh dân ca Nghệ Tĩnh hiện nay (và thường là người dàn dựng luôn) thường là người sinh sống tại các địa phương, có am hiểu về âm nhạc, nắm được nhiều làn điệu dân ca của quê hương, có chút ít năng khiếu về thơ văn. Cũng có người trước đây hoạt động trong các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, nay về sinh sống tại quê hương, với lòng say mê nghệ thuật, họ tiếp tục theo đuổi “nghiệp” đàn hát, vừa là để tự thỏa mãn lòng yêu ca hát của mình, vừa là đóng góp cho phong trào văn hóa văn nghệ của quê hương. Chúng ta cần đánh giá cao nhiệt huyết của lớp nghệ nhân trẻ này, họ chính là những người đang giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ tiếp nối về tình yêu đối với những làn điệu dân ca của quê hương.

3. Bảo tồn nghệ thuật dân gian cần có tấm lòng nhân gian

Bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc vừa là mong muốn của người dân vừa là chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Nhưng bảo tồn bằng cách nào và phát huy tác dụng của các giá trị cổ truyền trong đời sống đương đại như thế nào không phải là vấn đề đơn giản. Thực tế cho thấy, các di sản văn hóa sau khi được công nhận rồi thì cũng được cả xã hội quan tâm hơn, các nghệ sỹ dân gian có cơ hội biểu diễn nhiều hơn, nhưng có trường hợp cũng do nhận thức chưa đúng nên ở chỗ này chỗ kia đã làm sai lệch đi ý nghĩa, giá trị và chất lượng nghệ thuật của di sản… Thế mới biết, với nghệ thuật, nhất là với các loại hình nghệ thuật mang tính đại chúng như nghệ thuật diễn xướng dân gian, thì chỉ có ý chí thôi chưa hẳn đã làm nên chuyện, và sự mong muốn đến mức quá nôn nóng có khi lại làm hỏng việc.

Chỉ lấy một ví dụ cụ thể, ở thời hiện tại, để các nhà quản lý văn hóa suy ngẫm. Trong quá trình đi nghiên cứu điền dã, tiếp xúc với các nghệ nhân Ví Giặm Nghệ Tĩnh mà tôi mới thực hiện, nhiều câu chuyện của họ ban đầu làm tôi bị bất ngờ, sau đó là sự băn khoăn, suy ngẫm… Có một số chị em yêu thích dân ca nên rất nhiệt tình tham gia câu lạc bộ văn nghệ của thôn, xã. Thỉnh thoảng họ đi sinh hoạt câu lạc bộ, mỗi tháng vài lần thì các ông chồng không phản đối. Thế nhưng vào những dịp trên huyện, trên tỉnh sắp tổ chức thi hoặc liên hoan hát dân ca, các chị phải đi tập nhiều hơn, có khi phải đi sớm về khuya, không tránh khỏi có lúc chồng con phải cáng đáng việc đồng áng, việc nhà cửa thay mình. Một số ông chồng khó tính kêu ca, cho rằng vợ đi tập hát tập hò như vậy là làm cái việc vô bổ, mất thời gian, mất công mất việc. Để chồng con thuận tình cho mình đi sinh hoạt văn nghệ, có một số chị đã phải bỏ tiền túi ra, sau mỗi đêm đi tập hát về lại đưa tiền ra “khoe” với chồng con rằng đây là tiền bồi dưỡng đi sinh hoạt câu lạc bộ hát dân ca, để “chứng tỏ” rằng đi tập hát cũng kiếm ra tiền đấy! Ngược lại, có gia đình thì ông chồng tham gia sinh hoạt câu lạc bộ, vợ con chỉ làm khán giả. Những người vợ nông dân vốn chịu thương chịu khó, luôn chiều chồng thương con, nên không dám kêu ca gì. Thế nhưng các chị cũng tỏ ra bức xúc, không phải bức xúc với chồng, mà bức xúc với “các ông ở trên”. Các chị đặt câu hỏi: “Tại sao các ông ấy tổ chức các cuộc thi hát dân ca lại đúng vào lúc thu hoạch mùa màng như thế, anh ấy nhà tui cứ đi suốt, chẳng giúp gì được cho vợ, một mình tui cứ è cổ ra mà gặt lúa, phơi thóc, làm không kịp. Làng xóm thấy tui vất vả quá cứ hỏi thế ông ấy đâu mà không giúp vợ…”. Câu hỏi tưởng chừng là nhỏ, nhưng phản ánh một vấn đề không hề nhỏ: các vị lãnh đạo và các cơ quan quản lý văn hóa, dù với chủ trương đúng đắn là bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, dù với ý muốn chính đáng là thúc đẩy phong trào, nhưng nếu không quan tâm tới tâm tư nguyện vọng của người dân, không đặt mình vào hoàn cảnh thực tế của các “nghệ sĩ chân đất” và của gia đình họ, nếu chỉ bằng nghị quyết, công văn, mệnh lệnh để chỉ đạo, để “kêu gọi” lòng nhiệt tình của người dân, tôi e rằng đến một lúc nào đó kiểu làm này sẽ phản tác dụng, vì nó không tìm được sự đồng thuận cao của quần chúng. Nếu các cuộc thi và liên hoan dân ca cứ tổ chức vào thời điểm nhà nông vào thời vụ thì người đi tham gia liên hoan áy náy, không yên lòng vì không giúp được gì cho gia đình, còn người ở nhà cũng chẳng vui vẻ gì để ủng hộ cho người đi. Đến một lúc nào đó, có khi người ta đi thi, đi liên hoan là vì trách nhiệm, vì thành tích của địa phương, chứ không phải vì lòng say mê được đàn hát nữa. Tôi nói phản tác dụng là vì thế!     

Theo chúng tôi, việc sáng tác mới các làn điệu dân ca để tuyên truyền, giáo dục cho người dân về chủ trương, chính sách của nhà nước là việc làm cần thiết, cũng là cần thiết khi hàng năm tổ chức các cuộc thi hay liên hoan dân ca để tạo sân chơi cho quần chúng nhân dân, cũng là phương cách để bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật dân gian trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, các nhà tổ chức cần tìm ra các hình thức tổ chức mới mẻ, tránh đi vào lối mòn làm hạn chế sức sáng tạo của các nghệ sĩ dân gian. Kiểu làm như hiện nay, tức là các câu lạc bộ trông chờ vào khả năng sáng tác của một số ít các cây bút địa phương, theo kiểu “cây nhà lá vườn”, và cũng chính các tác giả ấy dàn dựng cho câu lạc bộ, rồi đưa đi thi, đi dự liên hoan. Như vậy, các nghệ sĩ đi thi là thi giọng hát, thi diễn xuất, chứ không hề thể hiện được cái tài ứng khẩu, sự nhanh trí, thông minh, thâm thúy và tinh nghịch trong những câu hát đối, hát đố, hát ghẹo là những nét tài hoa mà các nghệ nhân dân gian trước đây sở hữu. Tại sao chúng ta không có các cuộc thi hay liên hoan dân ca Nghệ Tĩnh để cho các nghệ sĩ hôm nay có dịp trổ tài như ông. bà, cha, mẹ họ đã từng làm? Theo tôi đấy mới là cách bảo tồn và phát triển dân ca Nghệ Tĩnh một cách đúng nghĩa nhất và có tính nghệ thuật nhất.   

Kết thúc tham luận của mình, tôi muốn nhấn mạnh một điều mà nhờ có những năm tháng đi nghiên cứu điền dã ở nhiều vùng miền của đất nước tôi đã ngày càng ngộ ra, rằng nghệ thuật dân gian là do nhân dân sáng tạo nên, nhân dân cũng là người nuôi dưỡng nó, trao truyền nó từ thế hệ này qua thế hệ khác. Vì vậy, cách duy nhất để gìn giữ, bảo tồn nghệ thuật dân gian là phải bảo tồn nó trong đời sống nhân dân, bằng sức sáng tạo không bao giờ cạn kiệt của nhân dân và bằng cách khơi dậy lòng nhiệt tình của quần chúng nhân dân. Có điều, để huy động được nhiệt tình của người dân, để người dân tự giác và chủ động làm người gìn giữ và trao truyền những giá trị văn hóa quý báu của cha ông để lại thì, nói theo cách của dân gian, cần có tấm lòng của nhân gian!

                                                                                  
 


[1]Nguyễn Tất Thứ. Ví phường vải Nam Đàn. Nxb. Nghệ An, 2000. Tr. 19 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578029

Hôm nay

2199

Hôm qua

2361

Tuần này

21228

Tháng này

225086

Tháng qua

130677

Tất cả

114578029