2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Những vấn đề đặt ra cho nền ngoại giao Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển
Nếu như trước 1991, mâu thuẫn, xung đột giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa bao trùm lên mối quan hệ quốc tế, thì sau khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt, xu thế hoà bình, hợp tác cùng đối thoại để phát triển lại trở thành xu thế chính yếu trong mọi mối quan hệ, chi phối sâu rộng đến đường lối đối ngoại của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn thế, trong nửa cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI này, chúng ta cũng có dịp được chứng kiến sự phát triển như vũ bão của các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Có thể nói, chính sự phát triển nhanh chóng của những thành tựu công nghệ ấy đã góp phần đắc lực trong quá trình liên kết toàn cầu, kết nối mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới với nhau, bất luận khoảng cách địa lý hay sự khác biệt về thể chế chính trị, đặc trưng tôn giáo, tín ngưỡng…Trong bối cảnh chung đó, một mặt các quốc gia phải chủ động tham gia vào quá trình giao lưu chính trị, kinh tế, văn hóa để cùng phát triển, mặt khác, mỗi nước cũng phải nhận chân rõ rằng: Quá trình toàn cầu hóa có thể làm lộ rõ hơn những khác biệt về nhiều mặt giữa các quốc gia, dân tộc - một trong những căn nguyên dẫn đến các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo... Do vậy mà, hơn lúc nào hết, ngoại giao với tư cách là phương thức hòa bình sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác và tháo gỡ những bất đồng, mâu thuẫn tiềm tàng hiện tồn trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt, sự chú trọng hơn đến ngoại giao văn hóa và phát huy thế mạnh của nó trong việc xây dựng lòng tin, giúp làm sâu sắc và thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ chính trị và kinh tế đang là sự lựa chọn của hầu khắp các nước trên thế giới hiện nay.
Hòa trong xu thế thế ấy của thế giới, tại khu vực Đông Nam Á, các quốc gia ASEAN cũng đang không ngừng nỗ lực thúc đẩy mạnh mẽ sự hợp tác toàn diện về mọi mặt, cùng nhau hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN với 3 trụ cột chính là: Cộng đồng an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa - Xã hội. Từ đây, chúng ta có quyền hy vọng về sự xác lập của một mạng lưới quan hệ giữa các quốc gia trong một khu vực không có bá quyền, không có tình trạng đối đầu mà tất thảy đều tôn trọng lẫn nhau và hoạt động dựa trên nguyên tắc an ninh chung, thịnh vượng chung bền vững cho toàn bộ khu vực.
Là một nước trong cộng đồng thế giới và là một thành viên tích cực của tổ chức khu vực ASEAN, Việt Nam sau ngày giải phóng, đặc biệt từ sau Đổi mới đến nay đã và đang bước đầu khởi động lộ trình hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Vấn đề đặt ra là, trên đại lộ hội nhập thênh thang ấy, Việt Nam chọn cho mình lối đi và cách đi như thế nào? Hẳn nhiên, ngay khi bước vào công cuộc hội nhập quốc tế, Đảng và nhà nước ta đã phải chọn cho mình một con đường đi sao cho thuận chiều nhất. Song, khi mà bối cảnh chung của thế giới, khu vực và bối cảnh riêng của đất nước không ngừng chuyển vần theo thời gian thì lối đi đó, phương cách ấy không phải “nhất thành bất biến” mà luôn có sự bổ khuyết, thay đổi. Vấn đề là, làm sao những giá trị truyền thống làm nên sắc diện ngoại giao Việt phải luôn được giữ gìn và phát huy bất luận trải qua bao biến thiên lịch sử và biến động xã hội. Có như thế thì nền ngoại giao nước nhà mới có thể tạo lập được thế đứng vững chãi của mình trong quan hệ quốc tế.
Là một quốc gia nhỏ, kinh qua bao cuộc chiến tranh giữ nước trường kì, từng phải đương đầu với những cường quốc hùng mạnh bậc nhất trên thế giới như Trung Quốc, Pháp, Mĩ, Nhật, hơn ai hết, mỗi người dân Việt Nam đều thấm thía cái giá của hòa bình, của độc lập, tự do. Quả thật, hiếm có một quốc gia nào trên thế giới phải trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm như dân tộc Việt Nam và cũng vì thế mà hiếm có nơi nào khát vọng hòa bình, độc lập lại cháy bỏng, thường trực trong mỗi người dân đến như thế. Do đó, những chiến thắng lớn lao trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ hay những lần kháng chiến chống lại ách xâm lược của đại quốc Trung Hoa thủa trước ở Việt Nam không chỉ đơn giản là chiến thắng quân sự, ngoại giao kì vĩ mà hơn thế, chúng còn là chiến thắng của khát vọng hòa bình, khát vọng độc lập và thống nhất Tổ quốc[1].
Nếu như Hobess[2] xem Chiến tranh không chỉ nằm trong trận đánh hoặc hành vi chiến đấu mà còn nằm trong ý định chiến đấu, thái độ thù địch giữa các quốc gia thì Hòa bình ở đây chúng ta cũng không nên hiểu đơn thuần là tình trạng bất xung đột vũ trang giữa các nước. Hòa bình còn là tình trạng mà trong đó, con người sẵn sàng dàn xếp tranh chấp bằng thảo luận thay vì bạo lực. Nếu chúng ta nhận thức Hòa bình theo cách đó thì rõ ràng, ngoại giao chính là phương thức hữu hiệu nhất để thực thi hòa bình và hóa giải mọi xung đột. Nhất là ở Việt Nam, do đặc thù lịch sử và truyền thống hòa hiếu vốn có từ xa xưa của dân tộc mà tính chất hòa bình của nền ngoại giao càng trở nên thực chất hơn đâu hết. Vì thế, dù thời cuộc có đổi thay thì yêu cầu đặt ra cho nền ngoại giao Việt Nam trước hết là phải đi theo con đường hòa bình – từ mục tiêu hòa bình, phương cách hòa bình đến chuẩn mực đạo đức mang tên gọi Hòa bình ở mỗi một nhà ngoại giao.
Tuy nhiên, cũng như các thời đại trước đó, hơn ai hết chúng ta hiểu rõ rằng:hòa bình thực sự chỉ có được khi dân tộc được độc lập, Tổ quốc được thống nhất. Vì thế, nguyên tắc hòa bình của nền ngoại giao Việt xưa nay phải luôn song hành với nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vấn đề đặt ra là, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập quốc tế đã và đang làm cho khái niệm chủ quyền, độc lập quốc gia ấy không còn nguyên nội hàm như cũ, mặc dù xét về hình thức, mỗi quốc gia vẫn có chủ quyền và lãnh thổ của riêng mình. Chính sự thay đổi trong cách nhìn nhận về chủ quyền, độc lập dân tộc ngày nay sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nền ngoại giao của mỗi nước và Việt Nam cũng không là biệt lệ.
Nếu như trước đây, khi nhắc đến chủ quyền, độc lập dân tộc “nhiều khi người ta nghĩ đến một chính sách khép kín về chính trị theo kiểu biệt lập, tự cấp tự túc về kinh tế”[3] thì ngày nay, quốc gia nào càng có mối quan hệ rộng mở, đang dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế thì lại càng có khả năng tăng cường thế “tự chủ” trong việc thực thi chính sách, đường lối đối nội, đối ngoại.
Hơn thế, nếu như trước đây, với sự phổ biến của tư duy chính trị quyền lực (Realpolitik), sức mạnh chính trị, quân sự được xem là thước đo sức mạnh của mỗi nước và là nhân tố quyết định vị trí cũng như tầm ảnh hưởng quốc tế của quốc gia, dân tộc đó, thì nay, sức mạnh của mỗi quốc gia được tạo dựng nên không chỉ bởi nguồn lực chính trị, quân sự mà còn bởi tiềm lực kinh tế và những giá trị văn hóa. Do đó, xét trên phương diện ngoại giao trong thời hội nhập, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa đang trở thành thế mạnh trong quan hệ quốc tế mà không một quốc gia nào có thể làm ngơ. Và ngoại giao Việt Nam chúng ta muốn hội nhập thành công cũng không thể nằm ngoài xu thế chung ấy.
Hơn nữa, bối cảnh mới cũng đặt ra yêu cầu tất yếu cho nền ngoại giao Việt là phải thay đổi tiêu chí phân loại các mối quan hệ ngoại giao. Nếu như trước đây trên thế giới có sự phân tuyến giữa một bên là những nước tư bản chủ nghĩa và một bên là những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì ngày nay, ranh giới đấy đã bị phá vỡ trong xu thế toàn cầu hóa về mọi mặt. Do vậy, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế với phương châm vì hòa bình, độc lập và phát triển đã trở thành nhu cầu bức thiết đối với nền ngoại giao nước nhà.
Có thấu tỏ những thay đổi của bối cảnh lịch sử và nắm bắt được một cách chân xác các yêu cầu cấp thiết đặt ra nêu trên, chúng ta mới có thể hy vọng tìm ra lối đi thuận nhất cho nền ngoại giao Việt Nam trong bối cảnh mới đầy thử thách.
2. Làm sao để xây dựng và thực thi đường lối ngoại giao hòa bình trên cơ sở giữ vững và tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới?
Thiết nghĩ, thời đại nào cũng vậy, để tiến hành giao thiệp được với bên ngoài, Việt Nam cũng như các nước trên thế giới phải “biết mình biết người”, xác định đúng vị thế, vai trò hiện có trong quan hệ quốc tế, từ đó mà đề ra mục tiêu, chiến lược ngoại giao phù hợp, tương xứng với tầm, thế và lực của quốc gia mình. Là một nước nhỏ trong hệ thống 195 nước trên thế giới[4] ngày nay, Việt Nam cũng như các nước nhỏ khác trên thế giới rất coi trọng độc lập, tự chủ về chiến lược và luôn cần có sự hỗ trợ từ các nước khác, các thể chế, các tiến trình để đảm bảo an ninh. Điều này đã từng được các nhà lý thuyết về nước nhỏ như Robert Rothstein, David Vital, Annette Fox nhấn mạnh[5]. Và đặt trong bối cảnh thế giới hiện nay, lý thuyết đó càng trở nên có giá trị. Theo đó, các nước nhỏ như Việt Nam sẽ đứng trước 3 sự lựa chọn: Thứ nhất, thực thi chính sách dựa vào nước lớn để đảm bảo an ninh; Thứ hai, thực hiện chính sách “trung lập” (trung lập tích cực hoặc biệt lập); Thứ 3 là đi theo đường lối “cân bằng linh hoạt”. Trong khi chính sách dựa hẳn vào nước lớn chứa đựng nhiều rủi ro, thiếu đi sự chủ động, tích cực; chính sách “biệt lập” tỏ ra không còn phù hợp với bối cảnh của quan hệ quốc tế hiện đại và bản thân Việt Nam cũng chưa thể đảm đương được vai trò một khu đệm trung lập. Hơn thế nữa, trong khi Trung Quốc không chấp nhận một quốc gia láng giềng nào là trung lập, kể cả nước lớn như Ấn Độ thì sự chọn lựa thích hợp nhất cho các nước nhỏ như Việt Nam ta chính là kiên định độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ đối ngoại một cách linh hoạt dựa trên thể chế đa phương và luật pháp quốc tế, gắn lợi ích phát triển của chính mình với lợi ích phát triển chung của cộng đồng quốc tế (tức là lựa chọn thứ 3). Đây cũng chính là sự cụ thể hóa chính sách “giữ cân bằng linh hoạt” mà nhiều nước theo đuổi trong quan hệ quốc tế thời kỳ sau Chiến tranh lạnh[6].
Từ chỗ xác định đúng vị trí hiện có của dân tộc mình như thế, chúng ta phải ra sức phát huy nội lực dân tộc một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực (cả chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa) để tạo lập được tư thế ngoại giao vững vàng, chủ động trong giao thiệp quốc tế, bởi ngoại giao không chỉ là hùng biện mà trước hết và trên hết là hùng khí của cả dân tộc. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đây đã từng căn dặn: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”[7]. Và điều làm nên thực lực ấy của nền ngoại giao dân tộc không gì khác chính là sức mạnh vật chất và tinh thần do nhân dân mang lại. Sức mạnh ấy trong thời đại hội nhập ngày nay không chỉ được thiết dựng nên bởi nhân dân trong nước mà còn phụ thuộc vào sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình, nhân nghĩa trên toàn thế giới. Để có được sự hội đủ của sức mạnh tổng hợp ấy buộc dân tộc ta phải tùy bối cảnh lịch sử mà đặt mình vào dòng chảy của thời đại, phải ưu thời mẫn thế để xác định đúng đắn cho mình con đường hòa bình, chính nghĩa, từ đó đánh thức lương tri của nhân loại tiến bộ trên thế giới, nâng cao được quốc lực, dân lực một cách hữu hiệu nhất.
Trước đây, trong thời kì chiến tranh lạnh, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng cũng như do phương thức tập hợp lực lượng của hai hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã dành ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ với Liên Xô – nước tiên phong trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đương thời và xem đây là “hòn đá tảng” trong chiến lược đối ngoại. Nhờ đó, sự nghiệp cách mạng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã nhận được sự hậu thuẫn to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em và lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ trên thế giới để lập nên bao chiến thắng quân sự vẻ vang, chấn động địa cầu. Và rồi, khi chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực và xu thế đối đầu chấm dứt, thay vào đó là trật thế giới đa cực với xu thế đối thoại, hòa bình thì cánh cửa ngoại giao của Việt Nam lại được mở rộng để đón chào sự hợp tác, đầu tư từ tất cả các nước, các trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa hàng đầu trên thế giới. Từ đây, Việt Nam tranh thủ mọi nguồn lực bên ngoài để củng cố sức mạnh nội lực, đưa đất nước vượt qua tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài sau ngày thống nhất, phá thế bao vây cấm vận để dần đưa Việt Nam hội nhập vào dòng chảy toàn cầu hóa. Vì thế, từ cuối những năm 1980 trở lại đây, chúng ta lại có dịp được chứng kiến sự điều chỉnh linh hoạt trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: Từ phương châm “thêm bạn, bớt thù” trong Nghị quyết 13 của Bộ chính trị (5/1988), Đảng ta tại Đại hội VII năm 1991 đã phát triển thành phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[8] và phương châm đó tiếp tục được hoàn thiện, nâng lên trong Đại hội VIII thành “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa. Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[9]…Đó là những biểu hiện cụ thể, sinh động cho sự hòa nhập đầy linh hoạt của đường lối đối ngoại Việt Nam trong dòng chảy của thời đại.
Hơn thế nữa, trong bối cảnh hiện nay với những diễn biến phức tạp, khó lường, với biết bao nguy cơ, xung đột tiềm ẩn, thì để xây dựng và thực thi một nền ngoại giao hòa bình thực thụ đòi hỏi chúng ta phải nhạy bén trong việc xác định cả “đối tác” lẫn “đối tượng”. Theo đó, “những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”[10]. Chính vì sự đan xen, khó tách biệt giữa hai mặt: hợp tác và cạnh tranh, mâu thuẫn càng đòi hỏi chúng ta phải bén nhạy hơn trong việc nhìn nhận, xác định đúng đối tác, đối tượng trong từng giai đoạn, từng thời điểm cụ thể.
Không những thế, là một nước nhỏ, Việt Nam không thể tồn tại và phát triển trong hòa bình nếu chỉ dựa vào các thể chế và luật pháp quốc tế mà luôn cần có sự ủng hộ của các nước lớn trên thế giới bởi các nước lớn ngày nay đều theo đuổi lợi ích riêng, có khả năng chi phối mạnh mẽ đến các thể chế đa phương (tiêu biểu là Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc), đồng thời các nước lớn cũng có quyền không tuân thủ các cam kết an ninh và có thể áp dụng luật pháp quốc tế theo cách của mình nhằm phục vụ cho lợi ích của chính mình. Trong khi đó, việc thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý…từ các nước lớn để rút ngắn khoảng cách, tạo đà cho sự phát triển kinh tế lại đang đặt ra bức thiết đối với nước ta. Vì vậy, từ sau khi đất nước thống nhất, đặc biệt sau Đổi mới, Việt Nam đã chuyển từ chỗ chỉ coi trọng quan hệ với hai nước lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là Liên Xô, Trung Quốc đến chỗ nhấn mạnh bình thường hóa mối quan hệ với tất cả các nước và các trung tâm lớn trên thế giới. Vấn đề là, với mỗi nước khác nhau thì tất nhiên chúng ta lại phải có bước đi và phương thức ngoại giao phù hợp.
Trước hết là với Mĩ. Sau thắng lợi năm 1975, Việt Nam đã chủ động đối thoại, bày tỏ thiện chí hợp tác, tiến tới bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. Điều này cũng thể hiện sự nhạy bén trong đường lối đối ngoại của Việt Nam khi mà bản thân Mĩ bấy giờ đang ra sức điều chỉnh chiến lược toàn cầu nhằm phát huy vai trò siêu cường của mình sau chiến tranh lạnh. 5 năm sau đó, Hiệp định Thương mại song phương giữa hai nước đã được kí kết (7/2000) và hai bên tiến tới phê chuẩn Hiệp ước này vào tháng 12/2001, đánh dấu sự hoàn tất của quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Kể từ đây, chúng ta được chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của mối quan hệ hai bên trên mọi phương diện[11]. Song, một mặt coi trọng mối quan hệ hợp tác với Mĩ, mặt khác, Việt Nam cũng không thể mất cảnh giác trước diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch ở Mĩ, đồng thời cũng phải đặc biệt chú trọng đến những bất đồng, mâu thuẫn nảy sinh do những khác biệt về kinh tế, văn hóa, chính trị, những xung đột về lợi ích (điển hình như sự đối xử bất bình đẳng của Mĩ với Việt Nam xung quanh vấn đề cá Basa, tôm, vấn đề nhân quyền…) để tìm hướng tháo gỡ.
Không chỉ với Mĩ mà trong quan hệ với nhiều nước lớn khác trên thế giới hiện nay, Việt Nam cũng luôn cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai mặt hợp tác - đấu tranh và xem đó là hai mặt song tồn không thể tách rời trong quá trình vận động, phát triển của mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với bất kì nước lớn nào trên thế giới.
Bên cạnh Mĩ, để giữ thế cân bằng trong quan hệ giữa các nước lớn, Việt Nam cũng đặc biệt coi trọng ngoại giao với Trung Quốc. Với Việt Nam thì Trung Quốc không chỉ là một cường quốc có tầm ảnh hưởng ngày càng cao trên trường quốc tế mà còn là một quốc gia láng giềng khổng lồ hùng mạnh, mưu sâu mà chính sách đối ngoại đầy tham vọng của nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình, độc lập của dân tộc trong suốt nhiều thế kỷ qua.Vì thế, ngay từ xa xưa, để xác lập một đường biên giới hòa bình, thân thiện, tránh chiến tranh đổ máu cho nhân dân hai nước, ông cha ta đã không thể lấy cương để thắng cái cao ngạo vốn có của nước lớn Trung Hoa mà phải mềm dẻo, "lấy nhu, thắng cương". Tuy nhiên, đó là sự nhu, sự kính nhường mà không hèn, nhịn mà không nhục, rắn mà không giòn, nhân nhượng mà không để thua – một sự nhân nhượng dựa trên nguyên tắc bất biến để cốt giữ hòa khí cho cả hai dân tộc. Và phương châm đó, nguyên tắc ấy cũng vẫn còn nguyên vẹn giá trị trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời đại mới. Mặc dù những thập kỷ vừa qua, hai bên đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong quan hệ ngoại giao với nhau như: đưa ra Tuyên bố chung chính thức bình thường hóa quan hệ (vào tháng 11/1991), thống nhất được phương châm 16 chữ vàng năm 1999 “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, hay cùng nhau ký kết Hiệp định phân định biên giới trên bộ và Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ, triển khai cắm mốc quốc giới…song, với tham vọng bá quyền thường trực của nước lớn Trung Hoa buộc Việt Nam phải luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với mọi bất trắc có thể xảy ra. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, thiết nghĩ chúng ta cần phảitận dụng tốt cơ sở pháp lý quốc tế cũng như phát huy tốt phương pháp “răn đe ngoại giao”trong lý thuyết quốc tế.Phương pháp này là dùng quan hệ với các nước mạnh hơn Trung Quốc và áp lực của quốc tế để Trung Quốc không thể gây hấn, đe dọa chủ quyền Việt Nam. Rõ ràng, hiện thời Trung Quốc vẫn phải kiêng dè Mỹ, do đó Việt Nam cần thiết lập quan hệ gần gũi với Mỹ. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần phải thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế, đặc biệt là các nước và các tổ chức lớn trên thế giới như: Nga, NhậtBản, ẤnĐộ, HànQuốc, ASEAN, EU, ASEM…. Trước mắt, Việt Nam phải tự thân tạo nên khối lớn, mà trước hết là với các nước Đông Nam Á - nơi Việt Nam là thành viên, bởi trong con mắt của nước lớn Trung Hoa cũng như nhiều nước lớn khác thì Đông Nam Á chính là một đối trọng. Trong bối cảnh hiện nay thì nhất thiết Việt Nam phải luôn xếp quan hệ với các nước láng giềng và Hiệp hội ASEAN ở vị trí ưu tiên số một trong đường lối đối ngoại của mình. Thiết nghĩ, người Mỹ hay người Âu Châu sẽ phải bảo vệ vị thế một khối Đông Nam Á cho dù có thể bỏ rơi Việt Namnếu quyền lợi ở đó không đáng để tranh đua với Trung Quốc.Và bản thân những gây hấn của Trung Quốc với Việt Nam nếu đượckhu vực, được thế giới thấu hiểunhưlàbước đầu của một mối đe dọa lớn hơn đối với họ thì ắt rằng, chúng có thể làm Trung Quốc yếu thế đi, và cũng là một rào cản tự nhiên để Trung Quốc phải cân nhắc kỹ hơn trước những hành động của mình.Do đó mà, dựa trên luật quốc tếđể danh chính ngôn thuận để tự bảo vệ mình, không đi ngược lại lợi ích của quốc tế thiết nghĩ là phương cách hữu dụng nhất hiện nay của Việt Nam trong mối quan hệ đầy sóng gió với nước Trung Hoa láng giềng. Có lẽ một nước lớn khó có thể đánh cùng một lúc với nhiều nước nhỏvà Trung Quốchay các nước lớn khác sẽchẳng làm gì được Việt Nam nếu Việt Nam duy trì tốt mối quan hệ quốc tế và cân bằng tốt mối quan hệ với các nước lớn trên toàn thế giới.
Rõ ràng, trong thời đại ngày nay, tuy xu thế hòa bình, đối thoại đã trở thành xu thế chính yếu, song để có được một nền hòa bình thực sự, để bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc theo đúng nghĩa quả thật không hề dễ dàng. Thực tiễn trong và ngoài nước suốt mấy thập kỷ qua đã vén mở cho chúng ta một thực tế rằng: Chiến tranh vẫn luôn hiện hữu, đe dọa con người ở mọi lúc, mọi nơi. Chiến tranh không chỉ nằm trong trận đánh hoặc hành vi chiến đấu mà còn nằm trong ý định chiến đấu, thái độ thù địch, cạnh trạnh không lành mạnh giữa các quốc gia. Nếu trước đây, chúng ta chỉ biết đến chiến tranh trên mặt trận chính trị, quân sự thì nay, chúng ta còn biết đến chiến tranh kinh tế, chiến tranh văn hóa…Thực tế thì, cuộc tranh giành quyền lực và uy thế giữa các quốc gia lúc nào cũng diễn ra, song vấn đề là phương tiện và cách thức có sự thay đổi theo thời gian. Ngày nay, các nước không chỉ sử dụng phương thức vũ trang mà còn sử các phương thức phi bạo lực khác để gây hấn, tạo xung đột, tranh chấp. Thành ra, trong bối cảnh quốc tế tiềm ẩn vô vàn những bất trắc khó lường ấy thì tinh thần khoan dung, hòa hiếu lại cần hơn bao giờ hết.Nhất là ở Việt Nam ta, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài nhiều thế kỷ, trong đó có sự phân chia chiến tuyến đến mức tàn khốc và không thể tránh khỏi việc để lại những vết hằn và mặc cảm trong tâm lý người dân thì sự khoan dung ấy lại càng trở nên cần thiết. Chính bản chất hòa hiếu, khoan dung của nền ngoại giao sẽ xóa nhòa hận thù và kéo gần khoảng cách giữa ta với thế giới bên ngoài, nhất là với những nước trước đây vốn đã từng đặt chân xâm lược lên đất Việt như Trung Quốc, Pháp, Mĩ.
Nhìn lại 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và 20 năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ, chúng ta thấy: chúng đều kết thúc bằng chiến thắng lẫy lừng của dân tộc Việt Nam. Thiết nghĩ, đó không chỉ là những thắng lợi quân sự vĩ đại mà còn là những thắng lợi vẻ vang trên mặt trận ngoại giao mang khát vọng hòa bình cháy bỏng của toàn dân tộc. Khi chiến tranh qua đi, Việt Nam cũng khép lại những năm tháng đau thương, gác lại những hận thù xưa cũ để mở lòng từ bi, hòa hiếu của mình, mở rộng cánh cửa dân tộc, sẵn sàng hợp tác cùng phát triển và nhiệt thành chào đón những người bạn Pháp, những người bạn Mĩ từ phương xa tới. Ngày 12/4/1973, quan hệ ngoại giao Việt Nam – Pháp đã chính thức được thiết lập; tháng 10 năm 1995 thì hai nước Việt – Mĩ bình thường hóa các mối quan hệ. Từ đó cho đến nay, quan hệ Việt Nam – Pháp, Việt Nam – Mĩ ngày càng phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế - thương mại đến an ninh, văn hóa – xã hội,…Và chính Pháp, Mĩ cũng là cầu nối đưa Việt Nam mở rộng mối quan hệ với thế giới bên ngoài, với WTO, với EU…“Chúng tôi chìa bàn tay hữu nghị ra với bất kỳ quốc gia nào thừa nhận Việt Nam là một nước tự do và độc lập[12]” hay “Hãy nắm tay nhau để hướng tới tương lai”[13] …những câu nói thấm đẫm tinh thần hòa hiếu, bao dung ấy của Hồ Chí Minh, của Nguyễn Minh Triết - những người đứng đầu nhà nước Việt Nam đã phản ánh chân thực truyền thống, khát vọng hòa bình cháy bỏng của cả dân tộc từ xưa đến nay. Đến tận bây giờ, lời nhận xét của Xanhtơny – người từng đại diện cho chính phủ Pháp đảm trách việc đàm phán với chính phủ ta trong những năm 1945 - 1946 về Hồ Chí Minh vẫn gợi cho chúng ta hôm nay nhiều suy ngẫm: “Hồ Chí Minh đã đánh đắm cả chế độ thực dân nhưng vẫn là bạn của nước Pháp” và đối với Xanhtoni “chưa bao giờ tôi có thể nhận thấy nơi các chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ sự công kích, đa nghi hoặc chế giễu”[14]. Phải chăng tinh thần hòa hiếu, khoan dung ấy đã trở thành một nét đẹp khó lẫn của văn hóa ngoại giao Việt trong tâm thức bạn bè thế giới. Trách nhiệm của chúng ta hôm nay là phải tiếp tục phát huy tinh thần ấy vì chính nó sẽ làm nên “sức mạnh mềm” bất diệt cho nền ngoại giao Việt Nam trên vũ đài quốc tế.
Và khát vọng hòa bình, nhân nghĩa, lòng khoan dung, hòa hiếu đó không chỉ được chứng thực trong việc giải quyết mối quan hệ với các nước cựu thù như trên mà còn phải được thể hiện trong việc giải quyết mọi va chạm, xung đột nảy sinh với bất kì quốc gia nào khác. Thực tế đã cho thấy: Sự nhún nhường, mềm dẻo trên tinh thần hòa bình, hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền và luật pháp quốc tế của Việt Nam trong cuộc xung đột với Trung Quốc thời gian gần đây đã giúp Việt Nam có được sự ủng hộ nhiệt tình cả tinh thần lẫn vật chất từ các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới, bước đầu đẩy lùi được một số xung đột giữa hai bên.
Tuy nhiên, một mặt Việt Nam đón nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài trong cuộc đấu tranh vì lợi ích dân tộc, nhưng mặt khác, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam cũng phảichia sẻ trách nhiệm đối với hệ thống thế giới. Những hoạt động như thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình của Việt Nam(12/2013) với sự chứng kiến của nhiều quan chức quốc tế, trong đó đặc biệt là có Phó Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc phụ trách hỗ trợ thực địa gìn giữ hòa bình, bà Ameerah Haq, rồi việc đưa sĩ quan liên lạc của chúng ta sang làm việc tại Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc nhằm ổn định khu vực có chiến tranh và tham gia nhiệm vụ nhân đạo như quân y, công binh, rà phá bom mìn, tuyệt đối không tham gia tác chiến, cưỡng chế … đã bước đầu thể hiện trách nhiệm quốc tế của Việt Nam trong công cuộc gìn giữ hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại. Thiết nghĩ, trách nhiệm đó cần tiếp tục được phát huy hơn nữa nếu Việt Nam muốn hội nhập thực sự vào dòng chảy chung của toàn thế giới.
Hơn thế, đặt nền ngoại giao của dân tộc trong bối cảnh mới, chúng ta còn nhận thấy sự cần thiết phải phát huy ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa bên cạnh ngoại giao chính trị vốn đã được chú trọng từ lâu. Nếu thiếu chúng, nền ngoại giao của dân tộc sẽ không thể nào hội nhập được với xu thế thời đại. Đó cũng chính là một biểu hiện sinh động cho tinh thần khoan hòa trong ngoại giao Việt Nam hiện nay. Tinh thần khoan hòa càng lớn thì ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa sẽ càng nhanh chóng phát triển.Nhất là, trong khi tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ của chúng ta còn chưa mạnh thì lại càng cần phải phát huy tốt lợi thế sức mạnh mềm của mình, bắt đầu từ văn hóa.Đặc biệt, chúng ta phải nhận thức được rằng: Với văn hóa, không có sự hơn kém mà chỉ có sự khác nhau. Nhận thức này sẽ là sự bảo đảm vô cùng cần thiết cho thái độ tự tin trong ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.
Cũng như bao quốc gia khác, sức mạnh mềm của Việt Nam được thể hiện trước hết ở sức thu hút, hấp dẫn, tỏa ra từ các giá trị văn hóa bao gồm các giá trị vật chất (hay giá trị tự nhiên, như phong cảnh, tài nguyên, môi trường…), giá trị tinh thần (hay giá trị nhân văn, như văn hóa, đạo đức, tôn giáo…) và giá trị con người (phẩm chất và năng lực của người dân, đặc biệt là vai trò của các vĩ nhân, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước,… ). Vấn đề là, làm sao chúng ta phát huy được những giá trị đó để tạo nên thương hiệu cho quốc giamình, có sức mời gọi đối với thế giớibên ngoài. Nếu như nói đến Ai Cập người ta nhắc tới Kim tự tháp; nói đến nước Pháp người ta nhắc đến tháp Eiffel, bảo tàng Louvre; nói đến nước Anh người ta nhắc đến Tháp chuông đồng hồ Big-beng, Công viên Hoàng gia; nói đến nước Nga người ta nhắc đến Điện Kremli, đến dòng sông Nêva; nói đến nước Nhật ta nhắc đến núi Phú sĩ, hoa anh đào và trà đạo Nhật Bản; nói đến Trung Quốc là nhắc đến Vạn lý trường thành, Cố cung, Di hòa viên,…thì nhắc đến Việt Nam, chúng ta phải làm sao cho bạn bè trên thế giới nhớ ngay đến Vịnh Hạ Long, Động Phong Nha-Kẻ Bàng, bãi đá cổ Sapa; nhớ đến đến những bãi biểnmiền Trung tuyệtđẹp, nhớ đến khu du lịch sinh thái sông rạch, miệt vườn Nam bộ độc đáo, nhớ đến kiến trúc cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, Tháp Chàm, di tích thánh địa Mỹ Sơn; nhớ đếnnhã nhạccung đình Huế, cồng chiêngTây Nguyên, múa rối nước, hát quan họ; nhớ đếnmón phở, nem rán, bún thang, bánh cuốn; và đặc biệt nhớ đến con người Việt Nam với truyền thống yêu nước, quật cường chống ngoại xâm, thân thiện, cởi mở, bao dung; nhớ đến những danh nhân lịch sử và văn hóa lỗi lạc như Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi,Nguyễn Huệ,Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,...Tất cả sẽ làm nên sức hấp dẫn Việt – một thứ sức mạnh mềm góp phần đưa Việt Nam từ một nước “thuộc địa vô danh” trở thành một đất nước anh hùng, tươi đẹp trong lòng bè bạn thế giới.
Trên thực tế, chúng ta đã bước đầu đạt được những thành công đáng kể trong lĩnh vực ngoại giao văn hóa này. Những giá trị văn hóa Việt đã bước đầu đầu được thế giới ghi nhận. Ví như, vào năm 2000, trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Bill Clinton đến Hà Nội, ông đã trích thơ Nguyễn Trãi và truyện Kiều trong cuộc nói chuyện, khiến bao người dân Hà Nội phải ngạc nhiên:
Just at the lotus wilts, the mums bloom forth,
Time softens grief, and the winter turns to spring
(Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân).
Thậm chí, trong câu chuyện của ông, chúng ta còn bắt gặp cả hình ảnh cây sả, cây tỏi, cây mướp đắng được trồng tại trang trại của một người Việt ở Virginia, rồi việc Tổng thống Thomas Jefferson 200 năm trước tìm cách mua hạt giống gạo của Việt Nam đem trồng ở trang trại …Tất cả những giá trị văn hóa Việt ấy đều được gợi nhắc lại một cách đầy trân trọng, tạo không khí thân thiện, cởi mở giữa hai nước cựu thù. Theo đó, khoảng cách giữa hai nước dường như cũng được xóa nhòa…Và 6 năm sau (2006), trong dịp đến Hà Nội dự APEC và thăm chính thức Việt Nam, vị Tổng thống Mỹ Bush đã phải thốt lên khi xem biểu diễn "độc huyền cầm" đầy thú vị của Việt Nam: "Tôi cũng phải học cách dùng đàn này mới được". Rồi chỉ vài tháng sau đó, trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, cây đàn bầu Việt Nam đã trở thành món quà tặng đầy ý nghĩa cho tổng thống Bush. Đó là một biểu hiện sinh động cho tinh thần tự tôn dân tộc, sự tự tin trong giao tiếp, quảng bá văn hóa ra thế giới bên ngoài của Việt Nam chúng ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn ngoại giao của dân tộc trong quá khứ, chúng ta lại nhận thấy: ngoại giao văn hóa không chỉ được biểu hiện ở chiều quảng bá, chuyển tài hình ảnh đất nước mình ra bên ngoài mà còn phải được thể hiện cả trong chiều tiếp nhận, tức là phải “tôn trọng những khác biệt của kẻ khác, để kẻ khác tôn trọng những khác biệt của ta”, “tôn trọng những gì không giống ta mà bình đẳng với ta”[15]. Chính quá trình giao lưu, tiếp biến những giá trị ngoại sinh ấy sẽ giúp cho chúng ta có cơ hội tự phản tỉnh để nhìn lại chính mình, nhận diện ra mình là ai, như thế nào và đang ở đâu trong thế giới này. Tất nhiên, sự cởi mở trong giao lưu, học hỏi lẫn nhau đó không có nghĩa là tiếp nhận một cách ấu trĩ những giá trị văn hóa bên ngoài mà phải luôn nhuần nhuyễn giữa tiếp nhận những nét phù hợp và lọc thải những gì không phù hợp với cốt cách, bản sắc dân tộc. Đó cũng chính là sự chừng mực, hài hòa cần phải có của quá trình thâu nhận để làm nên tính “khoan - hòa” trong văn hóa ngoại giao Việt Nam thời hội nhập.
Nếu như không cởi mở, tiếp nhận những giá trị văn hóa của các quốc gia, dân tộc khác thì sẽ không thể hiểu được đối tượng giao tiếp và ắt rằng, chúng ta sẽ thường xuyên vấp phải những “cú sốc văn hóa”, những xung đột, va chạm văn hóa. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ những câu chuyện về sự thiếu hòa hợp, hiểu biết văn hóa lẫn nhau trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước phương Tây thế kỷ XIX:
Bấy giờ, dưới thời kì trị vì của vua Minh Mệnh, có những thương thuyền đầu tiên khởi hành từ Massachuset miền Đông của Hoa Kỳ đến bờ biển của tỉnh Phú Yên nước ta. Lúc này, viên thuyền trưởng tỏ ý được đích thân vua Việt Nam tiếp kiến để chuyển một bức quốc thư quan trọng. Bản thân vua Minh Mạng cũng rất hoan nghênh với mong muốn mở rộng mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Vì vậy, ông đã lệnh cho các quan lại cấp dưới phải tiếp đón trọng thị đoàn thương thuyền Hoa Kỳ lần này. Nhưng liền ngay sau đó Minh Mạng lại cương quyết chối từ việc tiếp đãi họ chỉ vì một lý do rất đơn giản: câu mở đầu của bức quốc thư từ phía Hoa Kỳ đã không tuân thủ theo đúng tập quán của phương Đông trong cách xưng tụng trước một đấng quân vương mà lại là “good friend and great friend”theo như tập quán dân chủ phương Tây – một thứ tập quá còn quá xa lạ, mới mẻ với người dân Việt đương thời[16]. Vậy là lần đó, chính vì sự thiếu hiểu biết văn hóa lẫn nhau mà hai bên Việt Nam – Hoa Kỳ đã bỏ lỡ cơ hội ngoại giao hiếm có!
Và rồi, chúng ta ngày nay nghĩ sao trước cảm xúc ngạc nhiên đến độ “giật mình” của sứ thần Phan Thanh Giản khi viên sứ thần này đặt chân sang trời Tây. Cái giật mình ấy đã thể hiện đầy sinh động sự thiếu hòa hợp đang tồn tại trong văn hóa ngoại giao giữa nước ta với thế giới phương Tây lúc bấy giờ.
Từ những câu chuyện trong quá khứ, nhìn lại ngày nay, khi Việt Nam chúng ta hằng năm đón chào biết bao chính khách và người dân ở mọi nơi trên thế giới đến công tác, học tập và du lịch thì rõ ràng, hơn lúc nào hết, mỗi nhà ngoại giao và thậm chí là mỗi người dân Việt vừa phải tỏ tường văn hóa dân tộc mình, vừa phải thấu hiểu cả văn hóa của nước bạn và tìm ra được nét tương đồng văn hóa hai bên để thắt chặt tình giao hảo. Ví dụ, vào tháng 4 năm 2006, khi tiếp Chủ tịch Hạ viện Mỹ Dennis Hastert, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam lúc đó là Nguyễn Văn An đã gửi tặng ông Dennis Hastert một món quà đầy ý nghĩa là bản Tuyên ngôn độc lập in trên giấy dó kèm theo đó là lời giải thích: “Khi viết Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập năm 1766 của Mỹ về nguyên tắc “Tự do, bình đẳng, bác ái””[17]. Nghĩa cử đậm chất văn hóa đó của Chủ tịch Nguyễn Văn An đã gây được sự đồng cảm và niềm tin tưởng từ phía phái đoàn Mỹ do ông Dennis Hastert dẫn đầu. Đây chính là minh chứng sinh động cho sự hòa hợp văn hóa cần có trong tiếp xúc ngoại giao giữa Việt Nam và các nước. Hay khi đối thoại với thế giới bên ngoài, có nhiều điều tưởng chừng rất nhỏ nhưng lại trở thành những nguyên tắc ngầm mà mỗi nhà ngoại giao phải tuân thủ như: người Hồi giáo sẽ không hài lòng, vui vẻ khi chúng ta tặng họ tranh ảnh hay tượng phụ nữ và thậm chí, họ sẽ bất bình khi được mời ăn thịt lợn. Hay người Ấn Độ giáo sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi được mời thức ăn có thịt bò. Hoặc người Nhật sẽ phật lòng khi được tặng hoa sen – thứ hoa mà họ chỉ để dùng trong các dịp lễ tang …Rõ ràng, khi chưa biết, chưa hiểu những điều cơ bản nhất của văn hóa đối phương thì chúng ta không thể tiến hành giao thiệp với họ và sự xung đột văn hóa diễn ra âu cũng là tất yếu. Hay nói cách khác, nếu như dưới thời phong kiến, những nhà ngoại giao Việt Nam đều phải những bậc Nho sĩ tài cao học rộng và được xây dựng theo kiểu mẫu lý tưởng của Nho giáo mang tên gọi Quân Tử[18] thì ngày nay, các nhà ngoại giao nước nhà càng cần được trang bị vốn kiến thức toàn diện, uyên thâm trên nhiều lĩnh vực và đặc biệt cũng phải có tài ứng đối, giỏi ngoại ngữ và mang đậm cốt cách, bản lĩnh, đạo đức của con người Việt. Đó chính là những chuẩn mực cần có trong phẩm cách, trí tuệ của mỗi một nhà ngoại giao ngày nay và chính nó sẽ định thành nên tầm mức cũng như hàm lượng văn hóa của nền ngoại giao Việt Nam đương đại.
3. Kết luận
Vậy là, đứng trước một thế giới mở đầy những biến động khôn lường, Việt Nam ngày càng có nhiều cơ hội để phát triển, để hội nhập nhưng cũng thường xuyên phải đối mặt với không ít khó khăn, thử thách, đe dọa trực tiếp và gián tiếp đến nền hòa bình, thịnh vượng chung của cả dân tộc….Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ công tác ngoại giao với tư cách là phương thuốc hữu hiệu làm “mềm” mọi mâu thuẫn, xung đột lại được sự quan tâm đặc biệt của công chúng như ngày hôm nay. Trên đại lộ hội nhập với thế giới, con đường nào là con đường thuận chiều nhất cho nền ngoại giao dân tộc? Rõ ràng, không thể có một con đường chung cho tất cả các nước mà mỗi một quốc gia đều phải tìm cho mình một lối đi riêng. Lối đi đó không có sẵn và cũng không phải được định hình trong ngày một ngày hai mà nó được phát lộ dần dần, phải kinh qua một thời gian dài để san dần mọi trở ngại. Đặc biệt, lối đi đó sẽ không “nhất thành bất biến” mà tất yếu có sự điều chỉnh trên từng chặng đường để phù hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể. Trên lối đi ấy, tất nhiên sẽ có những thể nghiệm thành công và cũng sẽ có những thể nghiệm thất bại nhưng tất cả sẽ trở thành bài học kinh nghiệm quý báu để khai sáng dần lối đi riêng cho nền ngoại giao dân tộc. Dẫu trên con đường phía trước, Việt Nam sẽ phải thường xuyên điều chỉnh, cải biến chính sách, đường lối đối ngoại cho tương hợp với sự chuyển vần của lịch sử, song một nguyên tắc bất biến xưa nay trong lịch sử ngoại giao của dân tộc buộc chúng ta phải luôn tuân thủ, tiếp truyền, đó là nguyên tắc hòa bình – một nền hòa bình thực sự trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Bởi thế, nếu chúng ta hình dung văn hóa ngoại giao Việt Nam như một kiến trúc hai bậc, gồm Biểu tầng (tức là những biến số thường xuyên thay đổi do sự đổi thay không ngừng của thời cuộc) và Cơ tầng (tức là những giá trị văn hóa ngoại giao cơ hữu, bất biến làm nên căn tính dân tộc) thì Hòa bình, hòa hiếu chính là Cơ tầng trong cấu trúc hai bậc đó. Nguyên tắc hòa bình ấy sẽ góp phần làm nên sức mạnh và định diện nên bản cách riêng của nền ngoại giao Việt Nam trong thế giới hội nhập, mở cửa ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Mortimer J. Adler, Dịch: Phạm Việt Phương, Mai Sơn, Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004.
2. Phạm Lê Minh, Chiến thắng của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 2 (11) 2005.
3. Lê Văn Quang, Tư duy mới về Độc lập, Chủ quyền quốc gia – Dân tộc và bảo vệ Độc lập, Chủ quyền Quốc gia – Dân tộc trong Thời đại Toàn cầu hoá, Khu vực hóa và Hội nhập Kinh tế quốc tế, Tạp chí Giáo dục lí luận, , số 1-6, 2005.
4. Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan, Vai trò của ngoại giao đa phương trong chính sách đối ngoại của quốc gia tầm trung: Trường hợp của Indonesia, Tạp chíNghiên cứu Quốc tế,số 97, tháng 6/2014.
5. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, tập 4.
6. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
7. Chu Văn Chúc, Qúa trình đổi mới tư duy đối ngoại và hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, Tạp chíNghiên cứu Quốc tế, số 3 (58) 2004.
8. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2004.
9. Nguyễn Hoàng Giáp, Phát triển quan hệ với các nước lớn trong chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, Nghiên cứu Quốc tế, số 2 (61), 6/2005, tr.55.
10. Đặng Phong, Việt Nam và Mỹ: tình yêu – thù hận – bạn bè, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 350, tháng 7/2007.
11. Dương Trung Quốc, Hàm lượng văn hóa trong ngoại giao, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia“Ngoại giao văn hoá vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hoà bình, hội nhập và phát triển bền vững”, Hà Nội, 2009.
12. Hoàng Vĩnh Thành: Ngoại giao văn hóa: Bắt đầu từ khái niệm, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1(76), 3/2009.
13. Đặng Thị Thu Hương: Ngoại giao văn hóa và truyền thông văn hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (76), 3/2009.
14. Xanhtony, Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1988.
15. Hoàng Ngọc Hiến,Luận bàn về minh triết và minh triết Việt, Nxb Trí thức, Hà Nội, 2011.
[1]Xem thêm: Phạm Lê Minh, Chiến thắng của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 2 (11) 2005, tr.33-35.
[2]Thomas Hobbes (1588 - 1679) là triết gia và lý thuyết gia chính trị người Anh. Ông nổi tiếng với tác phẩm "Leviathan thủy y quái", trong đó, ông ủng hộ chế độ quân chủ tuyệt đối như là phương tiện duy nhất để kiểm soát những xung đột về quyền lợi và ham muốn của con người, đồng thời bảo đảm quyền tự bảo toàn và hạnh phúc của họ. Xem thêm: Mortimer J. Adler, Dịch: Phạm Việt Phương, Mai Sơn, Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004.
[3]Xem thêm: Lê Văn Quang, Tư duy mới về Độc lập, Chủ quyền quốc gia – Dân tộc và bảo vệ Độc lập, Chủ quyền Quốc gia – Dân tộc trong Thời đại Toàn cầu hoá, Khu vực hóa và Hội nhập Kinh tế quốc tế, Tạp chí Giáo dục lí luận, số 1-6, 2005, tr.37.
[5]Shannon Tow, “Southeast Asia in the Sino-US strategic balance,” Contemporary Southeast Asia, Vol.26, No.3, 2004, p. 439. Theo: Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan, Vai trò của ngoại giao đa phương trong CSĐN của quốc gia tầm trung: Trường hợp của Indonesia, Tạp chíNghiên cứu Quốc tếsố 97 (6/2014), tr. 87-116.
[6]Vũ Lê Thái Hoàng, Lê Linh Lan, Sđd, tr. 87-116
[7]Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.3
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng VII, Hà Nội, 1991. Xem thêm: Chu Văn Chúc, Qúa trình đổi mới tư duy đối ngoại và hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3 (58) 2004, tr5-6.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Hà Nội, 1996. Xem thêm: Chu Văn Chúc, Sđd, tr.7.
[10]Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2004, tr.245-246
[11]Xem: Nguyễn Hoàng Giáp, Phát triển quan hệ với các nước lớn trong chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, Nghiên cứu Quốc tế, số 2 (61), 6/2005, tr.55.
[12]Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.20-21.
[13]Câu nói của chủ tịch Nguyễn Minh Triết khi hội đàm với Tổng thống Bush. Xem thêm: Đặng Phong, Việt Nam và Mỹ: tình yêu – thù hận – bạn bè, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 350, tháng 7/2007, tr.76.
[14]Xanhtony, Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.80.
[15]Hoàng Ngọc Hiến, Luận bàn về Minh triết và Minh triết Việt, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2011, tr.89.
[16]Xem: Dương Trung Quốc, Hàm lượng văn hóa trong ngoại giao, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia“Ngoại giao văn hoá vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hoà bình, hội nhập và phát triển bền vững”, Hà Nội, 2009.
[17] Xem: Đặng Thị Thu Hương: Ngoại giao văn hóa và truyền thông văn hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (76), 3/2009, tr.81.
[18]Trong vai trò của một đấng Quân tử ấy, họ phải đạt 3 tiêu chuẩn chính yếu sau: Thứ nhất là Đạt đạo: Đạo là con đường, là những mối quan hệ xã hội mà con người phải biết cách ứng xử trong cuộc sống. Đạt đạo trong thiên hạ có 5 điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo an hem, đạo kết giao bạn bè (Trung Dung); Thứ 2 là Đạt đức: theo Khổng tử, người quân tử nếu có 3 điều Nhân – Trí – Dũng thì gọi là Đạt đức (Trung Dung). Sau này, Mạnh Tử đã bỏ ‘Dũng’ và thay vào đó là ‘Lễ, nghĩa’ thành 4 đức : Nhân, nghĩa, lễ, trí. Đến thời Hán thì bổ sung thêm ‘Tín’ thành 5 đức mà chúng ta vẫn thường nghe gọi là Ngũ thường; Thứ 3 là người quân tử phải có vốn văn hóa toàn diện ‘Thi, thư, lễ, nhạc’