Thực vậy, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã đụng đầu với một dân tộc tuy đất không rộng, người không đông nhưng có lịch sử văn hoá hàng nghìn năm. Khác với lịch sử nước Mỹ, từ xa xưa, người Việt Nam đã xây dựng một quốc gia thống nhất, sớm hình thành và phát triển một nền văn hoá dân tộc bền vững, giàu bản sắc. Hạt nhân rắn chắc của nền văn hoá ấy là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất, sớm biết dựa vào sức mạnh đoàn kết để giữ gìn đất nước, bảo vệ bờ cõi; dũng cảm, thông minh trong chiến đấu và lao động.
Trải qua hàng ngàn năm trui rèn trong đấu tranh chống ngoại xâm để giành, giữ nền độc lập, thống nhất, vẹn toàn lãnh thổ, dân tộc Việt Nam đã tích luỹ được nhiều tri thức và kinh nghiệm quân sự phong phú, hình thành và phát triển những tư tưởng, nghệ thuật quân sự rất độc đáo, sáng tạo, mang đậm dấu ấn văn hóa, tư chất, trí tuệ Việt Nam. Tuy mỗi thời mỗi khác, nhưng nhìn chung ông cha ta đều biết vận dụng phương pháp biện chứng đổi yếu thành mạnh, kết hợp lực - thế - thời - mưu, thiên thời, địa lợi, nhân hoà... tạo nên sức mạnh tổng hợp để đạt đến đích cuối cùng là giành lại độc lập tự do, giữ vững chủ quyền dân tộc. Cách mạng Tháng Tám 1945, toàn dân tộc vùng dậy giành lại nền độc lập tự do, độc lập và tiếp đó, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp, suy cho cùng là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước, của nền văn hoá Việt Nam.
Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống yêu nước, ý chí quật cường của toàn dân tộc, của mọi người Việt Nam yêu nước lại được phát huy lên một tầm cao mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, thành sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và nhân dân ta không mảy may ảo tưởng về kẻ thù, cũng không hề choáng ngợp trước tiềm lực kinh tế, quân sự khổng lồ của đế quốc Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Mỹ không mạnh”. Đây là một kết luận rất khoa học, vừa thể hiện ý chí quyết tâm, vừa thể hiện phương pháp so sánh lực lượng theo quan điểm biện chứng - vừa có căn cứ thực tiễn, vừa dự báo xu hướng vận động của tình hình trong nước, trong khu vực và trên thế giới liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam
Trên cơ sở phương pháp xem xét cách mạng, khoa học về so sách lực lượng, thấy được sức mạnh lớn lao của toàn dân, toàn quân ta, của ý chí và tình cảm thống nhất Bắc – Nam, của khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao nhất tinh thần “quyết chiến quyết thắng”, “Không có gì quí hơn độc lập tư do”, “31 triệu đồng bào nam bắc là 31 triệu dũng sĩ diệt Mỹ”, khơi dậy tinh thần yêu nước, nghị lực sáng tạo của mỗi người và của toàn dân tộc để đánh Mỹ, thắng Mỹ. “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã trở thành ý chí quyết tâm và hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thời đánh Mỹ.
Đế quốc Mỹ đã sử dụng những loại vũ khí hiện đại nhất để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhưng chúng vẫn thất bại. Bom đạn quân thù không thể nào dập tắt ý chí chiến đấu của quân và dân ta, không thể nào phá được thế trận lòng dân và làm nguôi đi chí căm hờn của hàng triệu trái tim, khối óc chiến đấu hy sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc, cho khát vọng hoà bình, thống nhất non sông. Đó chính là cội nguồn sức mạnh bảo đảm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Trong thử thách ác liệt, dài ngày của chiến tranh, đồng bào, chiến sĩ miền Nam vẫn giữ vững niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, sáng tạo ra những thứ vũ khí, những phương thức và cách đánh rất đa dạng, phong phú, lần lượt đánh bại các chiến lược của địch. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, quân và dân miền Bắc vừa anh dũng chiến đấu, đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa lao động sản xuất, dốc sức chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn đánh giặc.
Đế quốc Mỹ dựa vào bộ máy chiến tranh khổng lồ với những loại vũ khí công nghệ hiện đại nhất để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đảng ta có một chiến lược đúng đắn, sáng suốt mà cốt lõi là dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn; có “hàng triệu bộ óc không bao giờ ngừng tìm tòi cách tốt nhất để đánh bại chúng trong mọi tình huống, đánh chúng bằng mọi phương tiện, theo muôn hình vạn trạng”[2]. Truyền thống toàn dân đánh giặc, nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy đoản binh chế trường trận”… của ông cha đã được quân và dân ta phát triển lên một tầm cao mới với muôn vàn phương thức đánh giặc độc đáo, sáng tạo.
Trên chiến trường miền Nam, ta vừa đánh du kích của dân quân tự vệ ở thôn xã kết hợp với bộ đội địa phương; đánh bằng cả vũ khí hiện đại và thô sơ, tự tạo; mỗi làng là một “pháo đài”, nhiều làng liên kết thành những “Vành đai diệt Mỹ”, thường xuyên bao vây, tiến công địch ngay tại căn cứ xuất phát hành quân của chúng; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trên ba vùng chiến lược; kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị và binh vận; kết hợp tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ... Chiến tranh nhân dân của ta đã khiến cho quân địch thường xuyên trong tình trạng căng thẳng đối phó, phải đánh theo cách đánh của ta, làm cho chúng tuy đông nhưng không mạnh, tuy nhiều vũ khí tối tân nhưng không phát huy được hiệu quả. Khi đã tạo được thế và lực hơn địch thì chớp thời cơ, tổ chức những đòn tiến công qui mô lớn đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đối phương. Ở miền Bắc là nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, đánh giặc trên không, trên biển với mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí, kể cả súng bộ binh; đánh địch từ xa, ở mọi tầng, mọi hướng một cách chủ động, linh hoạt, đập tan sức mạnh của không lực Hoa Kỳ, góp phần cùng chiến trường miền Nam đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.
Thắng lợi của nhân dân ta đã chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam, của bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc, sức mạnh của tiền tuyến và hậu phương, vật chất và tinh thần, hiện đại và truyền thống, trong nước và thời đại, cả thế, lực và thời cơ, cả lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng... đã được huy động, phát huy lên tầm cao mới trong thời đại mới. Bằng bản lĩnh và sức mạnh đó, ta đã từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng, từ yếu hoá mạnh, ít thành nhiều, tạo nên sức mạnh áp đảo để giành thắng lợi cuối cùng.
Một trong những nhân tố góp phần cho thành công vĩ đại đó là Đảng ta đã kết tinh, nâng cao và phát triển những phẩm chất, những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam, biết khơi dậy nguồn sức mạnh dồi dào vô tận của trí tuệ sáng tạo Việt Nam để dám đánh Mỹ và biết thắng Mỹ. Chính kẻ thù xâm lược đã phải thừa nhận, nếu Việt Nam chỉ có lòng dũng cảm thôi, thì vũ khí hiện đại của họ đủ khả năng đè bẹp, nhưng Việt Nam còn có sức mạnh phi thường của trí thông minh, sáng tạo trong chế tạo, phát huy, làm chủ khoa học kỹ thuật quân sự, linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức thế trận và cách đánh… Điều đó đã khiến đế quốc Mỹ không thể nào phát huy tối đa uy lực của các loại vũ khí, trang bị hiện đại khi phải đối mặt với chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả của sự hy sinh, nỗ lực to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt, lâu dài giữa ta và địch, trong đó Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và các cơ quan chiến lược giữ vai trò bộ não kháng chiến đặc biệt quan trọng. Trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta, Bộ thống soái tối cao đã tỏ rõ tài năng mưu lược, hiểu địch, hiểu mình, điều hành toàn diện cuộc chiến tranh trên phạm vi cả nước. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã triển khai cả lực lượng chính trị, quân sự, cả ba thứ quân vào một thế trận chiến lược và cơ động trên toàn chiến trường. Nòng cốt của thế trận này là ba khối chủ lực được bố trí ở Tây Nguyên, Huế và Đông Nam Bộ có khả năng giáng những đòn tiêu diệt lớn về chiến dịch trên từng khu vực và khi cần thiết có thể tập trung nhanh chóng tạo được thế áp đảo trên chiến trường quyết định. Với cách triển khai lực lượng như vậy, ta đã căng địch ra cả ba chiến trường trọng yếu; gìm chặt quân chủ lực địch ở hai đầu chiến tuyến là Thừa Thiên và Miền đông Nam Bộ, tạo điều kiện để mở đòn tiến công ở chiến trường Tây Nguyên, phá vỡ thế trận chiến lược của địch, mở ra bước ngoặt quyết định kết thúc chiến tranh. Nhờ chủ động tạo ra thời cơ, thúc đẩy thời cơ và biết chớp lấy thời cơ, giải quyết một loạt vấn đề thuộc về chỉ đạo chiến lược và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, ta đã giáng cho địch những đòn sấm sét, thần tốc, làm rối loạn và rung chuyển toàn bộ lực lượng và thế trận của địch, đập tan bộ máy chiến tranh khổng lồ do Mỹ dày công xây dựng .
Thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, người Mỹ đã rút ra một bài học, một sai lầm lớn nhất như họ đã thừa nhận, đó là thiếu hiểu biết căn bản về sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, lịch sử văn hoá, chính trị... Việt Nam đã được lịch sử chứng minh qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Từ bài học của thế hệ đi trước, khi sang thăm Việt Nam, trong một cuộc tiếp xúc với sinh viên Hà Nội, Tổng thống Mỹ B.Clinton đã nói: “nước Mỹ không nên và không thể áp đặt văn hoá đối với Việt Nam. Ý chí độc lập của người Việt Nam là chất thép được tôi luyện hàng ngàn năm mà công nghệ chiến tranh của Mỹ không thể làm nóng chảy được”[3].
[1]Robert S.Mc Namara, Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb CTQG, H, 1995,tr316.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, tập 24, H, 2003, tr.859.
[3] Theo: Bộ Quốc phòng,- Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương- Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Đại thắng mùa Xuân 1975 bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2006, tr.924.