Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Quân giải phóng miền Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, hòa nhập chung vào tổ chức quân đội nhân dân cả nước, chuyển sang thực hiện nhiệm vụ xây dựng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Miền còn tiếp tục tồn tại 14 tháng 7 ngày nữa. Trong thời gian hơn 14 tháng ấy, Bộ Tư lệnh Miền đã làm tham mưu, chỉ đạo các lực lượng vũ trang Nam bộ và cực Nam Trung bộ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng, tổ chức lại quân đội cho phù hợp với điều kiện thời bình.
1. Tiếp quản, quân quản
Sau khi giải phóng thành phố Sài Gòn, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và hải đảo, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các đơn vị vũ trang khẩn trương tiếp quản căn cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn để lại. Bộ Tư lệnh Miền chuyển sở chỉ huy về căn cứ Sóng Thần, sau đó chuyển tiếp về căn cứ Trần Hưng Đạo trong nội thành Sài Gòn (căn cứ Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa). Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần - kỹ thuật, các đơn vị thông tin, pháo binh, phòng không, tăng - thiết giáp, công binh… thuộc Bộ Tư lệnh Miền tiếp quản các căn cứ tương ứng của quân đội Sài Gòn để lại. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 chuyển sở chỉ huy vào căn cứ Lê Văn Duyệt (Biệt khu thủ đô của chính quyền Sài Gòn), sau đó chuyển về căn cứ Sóng Thần ở Thủ Đức. Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản căn cứ Quân khu 3 - Quân đoàn 3 tại thành phố Biên Hòa, sau đó chuyền về căn cứ Trần Hưng Đạo. Bộ Tư lệnh Quân khu 8 tiếp quản căn cứ Đồng Tâm tại Mỹ Tho (căn cứ Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn). Bộ Tư lệnh Quân khu 9 tiếp quản căn cứ Quân khu 4 - Quân đoàn 4 tại thành phố Cần Thơ. Bộ Tư lệnh Sài Gòn - Gia Định tiếp quản căn cứ Biệt khu thủ đô. Tỉnh đội các tỉnh tiếp quản căn cứ tiểu khu của địch tại từng địa phương.
Trong lúc chỉ đạo các lực lượng vũ trang B2 tham gia cuộc tổng tiến công và nổi dậy, tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định, Bộ Tư lệnh Miền khẩn trương triển khai Chỉ thị 06/TWC ngày 10-4-1975 của Trung ương Cục miền Nam về việc chuẩn bị công tác tiếp quản các tỉnh thành còn lại trên địa bàn Nam bộ và cực Nam Trung bộ, đặc biệt là thành phố Sài Gòn - Gia Định. Theo đó, “khi đánh đổ chính quyền trung ương địch, cần thực hiện chế độ quân quản trong một thời gian nhất định… Nhiệm vụ của ủy ban quân quản là: 1. Tiêu diệt các ổ đề kháng, thanh toán triệt để các lực lượng phản động của địch; 2. Nhanh chóng ổn định tình hình và thiết lập trật tự trị an của thành phố, xây dựng lực lượng tự vệ của quần chúng; 3. Từng bước khôi phục những cơ sở bảo đảm cho cuộc sống của nhân dân; 4. Chuẩn bị những điều kiện để chuyển sang chính quyền cách mạng”[3]. Hàng loạt cán bộ quân sự, chính trị các cấp được Bộ Tư lệnh Miền cử tham gia ủy ban quân quản và chính quyền cách mạng các địa phương. Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định[4] và các tỉnh được thành lập chuẩn bị đảm nhiệm chức năng chính quyền sau ngày giải phóng. Sau khi tiếp quản các căn cứ quân sự địch, Ủy ban quân quản các địa phương lần lượt ra mắt và bắt tay thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng lâm thời: ban bố mệnh lệnh kêu gọi tất cả đồng bào, cán bộ, chiến sĩ tích cực cùng chính quyền cách mạng nhanh chóng thiết lập trật tự, duy trì các hoạt động dân sinh trở lại bình thường; kêu gọi nhân viên chính quyền, các binh sĩ quân đội Sài Gòn ra trình diện, các công nhân viên chức cũ trở lại nhiệm sở và ban bố lệnh giới nghiêm ban đêm. Các lực lượng tiếp quản đã tịch thu, quản lý toàn bộ tài liệu quân sự, chính trị, kỹ thuật, thiết bị doanh trại của bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; các cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự của địch từ trung ương tới địa phương.
Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ bị sụp đổ đã để lại những di hại nặng nề cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Ngoài một số tướng lĩnh, nhân viên chính quyền cao cấp chạy ra nước ngoài, đại đa số vẫn còn ở lại (riêng tại miền Đông Nam bộ đã có khoảng nửa triệu quân lính, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở các địa phương tan rã tại chỗ), trong đó có không ít phần tử ngoan cố tìm cách chống lại cách mạng, phần đông sĩ quan binh lính mặc cảm với chế độ mới. Nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, phát triển thiếu cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ nước ngoài. Các tệ nạn xã hội như ma túy, lưu manh, đĩ điếm, cờ bạc nhan nhản. Riêng địa bàn Sài Gòn - Gia Định, thành phố có dân số đông nhất nước (gần 3,5 triệu người), đã có trên 2 vạn địch đang lẩn trốn và tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng, cộng thêm một gánh nặng xã hội với 27 vạn người mù chữ, trên 1 triệu người thất nghiệp, 20 vạn trẻ mồ côi, 23 vạn quả phụ bơ vơ, 1vạn người ăn xin, 30 vạn người mắc bệnh da liễu, 15 ngàn trẻ bụi đời, trên 10 vạn người nghiện xì ke, ma túy[5].
Phối hợp với ủy ban quân quản các địa phương, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo mỗi sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực và địa phương phụ trách một số quận, huyện, xã. Riêng Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định cử 5.500 cán bộ chiến sĩ, tổ chức 4 đoàn, 34 đội công tác. Các đơn vị vũ trang chia nhỏ lực lượng trên khu vực hành chính được phân công, thành lập từng đội công tác thực hiện nhiệm vụcứu trợ[6], tổ chức đưa đồng bào chạy nạn về quê cũ sinh sống, khôi phục sản xuất[7], rà phá tháo gỡ bom mìn vật nổ, thu dọn phế liệu chiến tranh và văn hóa phẩm độc hại, khám chữa bệnh cho nhân dân.Các đội công tác vũ trang tổ chức tuyên truyền về các chính sách của cách mạng, vạch rõ những luận điệu xuyên tạc của chế độ cũ, vận động nhân dân tham gia các hoạt động xây dựng xã hội mới. Trong năm 1975, lực lượng vũ trang B2 đã tuyên truyền phát động cho hàng triệu lượt quần chúng, phát triển hàng trăm chi đoàn, hàng nghìn đoàn viên, hàng trăm nghìn hội viên công đoàn giải phóng, nông hội thanh niên giải phóng và phụ nữ giải phóng . Trên cơ sở lực lượng chính trị mới xây dựng, các địa phương lựa chọn cán bộ xây dựng bộ máy chính quyền ở cơ sở. Trong hai tháng 5 và 6 - 1975, riêng miền Đông Nam bộ đã thành lập 104 ủy ban xã và 404 ủy ban ấp với hơn 3.000 ủy viên[8].
Vừa thực hiện các nhiệm vụ tiếp quản, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ gìn anh ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, ổn định đời sống nhân dân, các lực lượng vũ trang B2 triển khai công tác tiếp nhận trình diện và cải huấn sĩ quan, binh lính quân đội Sài Gòn. Không kể đối tượng hạ sĩ quan, binh lính không phải là ác ôn ra trình diện được học tập ngắn ngày rồi trở về địa phương, số người phải tập trung cải huấn lên đến 64.395 (trong đó có 33 cấp tướng, 414 đại tá, 2.500 trung tá, 4.567 thiếu tá và một số cấp úy, xã trưởng)[9]. Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo thành lập 5 đoàn quản giáo làm nhiệm vụ quản lý, tổ chức học tập, điều trị cho số sĩ quan nói trên, (gồm Đoàn 500: tại các địa điểm Hóc Bà Thức, thị xã Long Khánh, Suối Râm - Đồng Nai, Trảng Lớn - Tây Ninh; Đoàn 600: tại Cát Tiên - Lâm Đồng; Đoàn 700: tại Phú Quốc; Đoàn 775: Tại Tân Hiệp - thị xã Biên Hòa; Đoàn 875: tại Tây Ninh). Ngoài ra còn tổ chức một số liên trại quản giáo các đối tượng thuộc diện tệ nạm xã hội như gái điếm, trộm cướp, xì ke ma túy[10].
Tháng 2-1976, ủy ban quân quản các cấp hoàn thành nhiệm vụ, ủy ban nhân dân cách mạng được thành lập thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Sau khi chuyển một số cán bộ quân sự sang cơ quan dân chính đảng các địa phương, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo lực lượng vũ trang B2 kết thúc nhiệm vụ quân quản, chuyển sang hoạt động thường xuyên, xây dựng lực lượng, truy quét tàn quân địch, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trong điều kiện thời bình.
2. Truy quét tàn quân địch,thu hồi cơ sở vật chất do quân đội Sài Gòn để lại
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, phần lớn sĩ quan, binh lính quân đội Sài Gòn ra trình diện, học tập và trở lại địa phương làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, vẫn còn không ít tên ngoan cố không ra trình diện, sống lẩn lút, móc nối tìm cách chống phá cách mạng bằng nhiều thủ đoạn hoặc ngấm ngầm hoặc công khai. Nhiều nơi tàn quân tập hợp đến cấp đại đội, rải truyền đơn, khẩu hiệu xuyên tạc chính sách của cách mạng, sát hại các cán bộ, tổ chức vượt biên, phá hoại tài sản công cộng. Nhiều đảng phái, tổ chức phản động vẫn tiếp tục tồn tại, lén lút hoạt động. Một bộ phận dân cư bị ảnh hưởng tuyên truyền, xuyên tạc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, sống bất hợp tác với chính quyền cách mạng hoặc che giấu các phần tử phản động.
Triển khai nghị quyết hội nghị Quân ủy Miền ngày 3-5-1975 về “tiếp tục truy lùng, truy quét địch, trấn áp các lực lượng phản động để bảo vệ thành quả của cách mạng; đồng thời, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu đánh địch còn phá rối, bất luận lúc nào, ở đâu, trong phạm vi mình phụ trách để bảo vệ chính quyền, bảo vệ tài sản, cơ sở vật chất, quốc phòng, kỹ thuật, kho tàng,... nói chung”[11], Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các lực lượng vũ trang vừa kiên trì kêu gọi trình diện vừa kiên quyết truy quét các nhen nhóm tàn quân, đập tan những đảng phái phản động. Tại Quân khu 7, trong hai tháng 5 và 6-1975 lực lượng vũ trang diệt và bắt 15.094 tàn quân, 331 tên trong các tổ chức phản động, thu 32.575 súng, đưa đi học tập cải tạo ngắn hạn 31.112 binh sĩ, đưa đi học tập dài hạn 6.000 sĩ quan, nhân viên cao cấp ngụy[12].Tại Quân khu 8, tính đến 12-5-1975, lực lượng vũ trang bắt giam gần 300 tên (trong đó có 1 sĩ quan cấp tướng), thu 1.900 xe, 135.000 súng, có 218 pháo (30 đến 155 mm), 136 tàu, 11 máy bay, 3 triệu lít xăng. Tại Quân khu 9, tính đến 11-5-1975, lực lượng vũ trang bắt giam 2.040 sĩ quan (trong đó có 2 sĩ quan cấp tướng), thu 231 tàu, 284 xe cơ giới các loại (có 72 thiết giáp), 176 máy bay, 68.748 súng (188 pháo), 1.391 máy vô tuyến điện, 7.880.000 lít xăng[13]. Bên cạnh việc truy quét tàn quân, lực lượng vũ trang B2 còn trấn áp, phá nhiều vụ án chống phá cách mạng của các đảng phái phản động, lùng bắt các băng cướp đang hoành hành và nhiều đối tượng tệ nạn xã hội khác. Riêng tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, từ tháng 5 đến tháng 11-1975, lực lượng vũ trang đã triệt phá 850 vụ phá hoại chính trị của 288 đối tượng, bắt giam 737 tên lưu manh trộm cướp và 2.437 đốì tượng tệ nạn xã hội.
Trong lúc lực lượng vũ trang B2 đang truy quét tàn quân địch thì ở bên kia biên giới, chính quyền Khmer đỏ ở Campuchia ngày càng bộc lộ chính sách thù địch với Việt Nam. Từ ngày 3 đến ngày 10-5-1975, chúng bất ngờ tiến công Việt Nam tại nhiều điểm thuộc huyện Châu Thành, Bến Cầu, Tân Biên tỉnh Tây Ninh, đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, giết hại và bắt đi hàng trăm dân thường vô tội. Chính sách thù địch của Khmer đỏ gây nhiều căng thẳng ở vùng biên giới, làm khó khăn thêm quá trình ổn định tình hình ở miền Nam. Bộ Tư lệnh Miền một mặt báo cáo, làm tham mưu cho cấp trên đấu tranh bằng con đường hòa bình, mặt khác chỉ đạo lực lượng vũ trang các địa phương tổ chức chiến đấu chống hành động tiến công xâm lược của quân đội Polpot. Lực lượng vũ trang Quân khu 7, Quân khu 9 phối hợp với bộ đội Biên phòng, bội đội quân chủng Hải quân đã kiên quyết chặn đánh quân địch, giải phóng hoàn toàn các đảo, đẩy địch về bên kia biên giới, giữ vững lãnh thổ và chủ quyền vùng biên giới.
Đồng thời với việc truy quét tàn quân và chiến đấu chống hành động xâm lấn biên giới, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các lực lượng vũ trang B2 khẩn trương tiếp quản, thu hồi, bảo quản cơ sở vật chất của địch để lại. Quân đội Sài Gòn tan rã nhanh chóng, để lại một khối lượng vũ khí trang bị, cơ sở vật chất rất lớn. Thực hiện Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục về “nhận rõ tài sản đó là do địch vơ vét mồ hôi nước mắt của nhân dân, là xương máu của nhiều cán bộ đồng chí đồng đội, đó là những tài sản của nhà nước”[14], Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các quân khu, quân đoàn, đơn vị binh chủng nhanh chóng bảo vệ, phân loại, quản lý. Các đơn vị vũ trang nhanh chóng tiếp quản các căn cứ, kho tàng quân sự của địch để lại, theo nguyên tắc ngành nào tiếp quản cơ sở ngành đó, cấp nào tiếp quản cấp đó, tiếp quản tới đâu quản lý sử dụng ngay tới đó đồng thời phối hợp với chính quyền cách mạng và nhân dân thu gom tất cả các loại vũ khí đạn và mìn còn vương vãi đưa ra khỏi thành phố, thị xã. Tính đến cuối tháng 8-1975, toàn B2 đã thu hồi khoảng 27.000 tấn vũ khí, đạn dược, gồm 3.777 tấn súng, 22.128 tấn đạn, 962 tấn thuốc nổ (chưa kể khoảng 40.0 tấn còn tồn trong các kho lớn)[15]. Riêng tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, chỉ trong 7 ngày sau ngày 30-4, lực lượng vũ trang đã thu gom được khoảng 10.000 tấn súng đạn, quân cụ các loại[16]. Ngày 19-8-1975, Bộ Tư lệnh Miền ra chỉ thị số 27/CT về việc mở chiến dịch thu hồi bảo quản tranh thiết bị địch để lại. Chiến dịch chia làm 2 bước. Bước 1 (1-9 đến 31-10) thu gom vũ khí, xe máy, máy bay, tàu chiến, trang thiết bị công binh thông tin. Đến cuối năm 1975, công tác kiểm kê, phân loại, bàn giao cơ sở vật chất doanh trại, kho tàng, trang bị, vũ khí đạn dược hoàn tất. Một bộ phận được đưa vào sử dụng phục vụ cho nhiệm vụ trước măt của lực lượng vũ trang toàn Miền, bộ phận khác được chuyển giao cho các đơn vị của Bộ đứng chân trên địa bàn.
3. Thực hiện công tác chính sách quân đội, tổ chức lại lực lượng vũ trang
Để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong mùa xuân 1975, lực lượng vũ trang B2 được phát triển lên mức cao chưa từng thấy. Tính đến thời điểm tháng 4-1975, bộ đội có 277.659 người (tháng 12-1972 là 185.372 người), dân quân du kích là 112.981 người (tháng 12-1972 là 70.699 người)[17]. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhu cầu giải quyết công tác chính sách, hậu phương quân đội đặt ra không kém phần cấp bách.Thực hiện Chỉ thị số 223/CT-TV ngày 8-7-1975 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác thương binh và xã hội sau chiến tranh, Bộ Tư lệnh Miền ban hành Chỉ thị số 06/CT-75 yêu cầu các đơn vị vũ trang: 1. Nhanh chóng chuyển tin tức của các quân nhân tại ngũ về gia đình; 2. Khẩn trương xác định liệt sĩ, quân nhân từ trần hoặc mất tích, báo tử, an ủi động viên và giải quyết chu đáo quyền lợi gia đình, con cái liệt sĩ; 3. Phát hiện, tu sửa, giữ gìn quy tập mộ liệt sĩ; 4. Thống kê, lập hồ sơ khen thưởng thành tích trong chiến tranh; 5. Từng bước bồi hoàn mất mát và những đóng góp của các gia đình có công trong kháng chiến[18].
Trong điều kiện công việc hết sức bề bộn, đời sống khó khăn, các đơn vị vũ trang đã tập trung thực hiện tốt chỉ thị của Bộ Tư lệnh Miền. Mỗi đơn vị đều cử 1 phó chính ủy, 1 chính trị viên phó trực tiếp phụ trách công tác chính sách. Cơ quan chính sách các cấp tổ chức tập huấn cán bộ chuyên trách, liên hệ với chính quyền địa phương để cùng phối hợp thực hiện: lập danh sách, xác minh các trường hợp mất tích, báo tử, quy tập mồ mả; giám định sức khỏe, xếp hạng thương tật, cấp sổ; khen thưởng các trường hợp tồn đọng sau chiến tranh (trong thời kỳ kháng chiến, riêng trong chiến dịch Hồ Chí Minh) gồm các loại thi đua quyết thắng và đề nghị huân huy chương, danh hiệu đơn vị và cá nhân anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiệm vụ hết sức khó khăn phức tạp, mặc dù vậy, trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang B2 đã hoàn thành khối lượng công việc đồ sộ. Tính đến tháng 12-1977 (khi Bộ Tư lệnh Miền đã giải thể), riêng Quân khu 7 đã lập danh sách, quản lý hồ sơ 68.566 liệt sĩ; quy tập về nghĩa trang, kiểm tra đánh dấu cắm bia 23.360 mộ liệt sĩ; thống kê giám định 18.593 (trên 36 đầu đơn vị) thương binh các hạng, cấp sổ 6.342 người; khen thưởng hàng chục nghìn huân chương các loại, xét đề nghị tuyên dương 11 đơn vị và 21 cá nhân anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân[19].
Song song, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các lực lượng vũ trang B2 sắp xếp lại lực lượng và tổ chức quân sự vùng lãnh thổ theo tinh thần Nghị quyết 24 Trung ương Đảng (tháng 9-1975) về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó có nội dung xây dựng lực lượng vũ trang cho phù hợp với điều kiện thời bình. Theo đó, về tổ chức quân sự theo lãnh thổ, Quân khu 6 (T6) nhập về Quân khu 5, Quân khu 8 (T2) nhập về Quân khu 9, Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh nhập về Quân khu 7. Trên địa bàn Nam bộ chỉ còn 2 quân khu: 7 và 9. Quân khu 7 có thành phố Hồ Chí Minh (thành phố Sài Gòn - Gia Định cũ) và các tỉnh Đồng Nai (gồm 3 tỉnh cũ: Biên Hòa, Tân Phú, Bà Rịa - Long Khánh, kể cả Vũng Tàu); Sông Bé (gồm 2 tỉnh cũ: Bình Dương, Bình Phước); Tây Ninh. Bộ Tư lệnh Quân khu do Trần Văn Trà làm Tư lệnh kiêm chính ủy[20]. Quân khu 9 có cáctỉnh Long An (gồm 2 tỉnh cũ: Long An, Kiến Tường); Tiền Giang (gồm 2 tỉnh cũ: Mỹ Tho, Gò Công); Cửu Long (gồm 2 tỉnh cũ: Vĩnh Long, Trà Vinh); Hậu Giang (gồm 2 tỉnh cũ: Cần Thơ, Sóc Trăng); Đồng Tháp (gồm 2 tỉnh cũ: Sa Đéc, KIến Phong); An Giang (gồm tỉnh An Giang cũ và một số huyện của Long Châu Hà, Long Châu Tiền, Sa Đéc); Kiên Giang (gồm tỉnh Rạch Giá cũ và 3 huyện của Long Châu Hà); Minh Hải (gồm 2 tỉnh cũ: Cà Mau, Bạc Liêu); Bến Tre. Bộ Tư lệnh do Lê Đức Anh làm Tư lệnh, Lê Văn Tưởng làm Chính ủy[21]. Về lực lượng chủ lực, Quân đoàn 4 được kiện toàn gồm 3 sư đoàn bộ binh (7, 9, 341) và một số đơn vị bộ binh trực thuộc, các đơn vị binh chủng. Một số đơn vị khác được điều chuyển trực thuộc Bộ Quốc phòng hoặc bổ sung về các quân khu. Sư đoàn bộ binh 5 chuyển về Quân khu 7. Bộ Tư lênh Quân đoàn do Hoàng Cầm làm Tư lệnh, Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy[22].
Các tổ chức vũ trang nói trên khẩn trương sắp xếp lại lực lượng theo biên chế thời bình đủ các khối: thường trực sẵn sàng chiến đấu (bộ binh và binh chủng); cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần - kỹ thuật); nhà trường (quân chính, hạ sĩ quan, quân y, văn hóa, thiếu sinh quân); hậu cần, kỹ thuật (bệnh viện quân y, xưởng sửa chữa, kho trạm); và đơn vị trực thuộc khác (đối ngoại, pháp chế, tổng kết chiến tranh, trạm khách, điều dưỡng…). Đặc biệt, các quân khu đều tổ chức một lực lượng lớn làm nhiệm vụ sản xuất. Riêng Quân khu 7 có 3 đoàn kinh tế: Đoàn Phước Long (Sư đoàn 3, gồm 7 trung đoàn), Đoàn 600 (gồm 4 trung đoàn), Đoàn La Ngà (gồm 4 trung đoàn)[23].
Việc sắp xếp lại tổ chức quân sự và lực lượng vũ trang đến giữa năm 1976 mới cơ bản hoàn thành. Tuy nhiên, từ tháng 2-1976, khi ủy ban quân quản kết thúc nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh Miền cũng giảm dần hoạt động chỉ đạo đối với lực lượng vũ trang trên địa bàn B2. Các quân khu, quân đoàn từng bước chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp từ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Và, ngày 7-7-1976, Bộ Tư lệnh Miền chính thức giải thể, hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang sau 15 năm hoạt động.
*
Như thế, mặc dù sau ngày miền Nam giải phóng, tính chất cuộc cách mạng ở Nam bộ và cực Nam Trung bộ đã hoàn toàn thay đổi, nhưng Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn tiếp tục tồn tại và hoạt động. Sẽ có những công trình riêng phân tích khách quan về nhiều nội dung trong các hoạt động ấy, ví dụ như việc giải quyết cho ra quân một số lượng khá lớn cán bộ chiến sĩ, đặc biệt là số hạ sĩ quan dày dạn chiến đấu trên chiến trường B2 sau ngày giải phóng. Ở đây, chúng ta thấy rằng, Bộ Tư lệnh Miền đã có những đóng góp quan trọng trong việc làm tham mưu cho cấp trên và trực tiếp chỉ đạo lực lượng vũ trang B2 thực hiện một khối lượng công việc đồ sộ sau chiến tranh. Đó là tiếp quản vùng mới giải phóng, nhất là các thành phố, thị xã, căn cứ quân sự, chính trị và hệ thống kho tàng dự trữ vật chất kỹ thuật của địch; truy quét tàn quân địch, trấn áp lực lượng phản cách mạng, thu dung và cải huấn sĩ quan, binh lính quân đội Sài Gòn, bảo vệ an toàn các mục tiêu quan trọng, các địa bàn chiến lược, toàn bộ khu vực biên giới, bờ biển và hải đảo; tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, tháo gỡ bom mìn và các chướng ngại quân sự, giúp đỡ nhân dân xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định cuộc sống, xây dựng quan hệ sản xuất mới, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; giải quyết chính sách hậu phương quân đội và sắp xếp lại tổ chức quân sự và lực lượng cho phù hợp với điều kiện thời bình. Kết quả của những hoạt động ấy đã góp phần quan trọng vào thành công của cách mạng Việt Nam trong những năm 1975-1976, đặt tiền đề để lực lượng vũ trang tiến lên con đường xây dựng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại!
H.S.Đ
[1] Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, chiến trường miền Nam (từ nam vĩ truyến 17 trở vào, gọi là chiến trường B) được tổ chức thành 4 khu vực với các mật danh B1, B2, B3, B4. B1 gồm khu vực duyên hải trung Trung bộ (các tỉnh từ Đà Nẵng vào đến Khánh Hòa).B2 gồm khu vưc Nam bộ và cực nam Trung bộ (các tỉnh từ Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng vào đến Cà Mau).B3 gồm khu vực Tây Nguyên (các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk). B4 gồm khu vực nam vĩ tuyến 17 đến bắc đèo Hải Vân (các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế).
[2] Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Nxb Chính trị quốc gia, 2004, tr. 7.
[3]Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954 – 1975), Nxb Chính trị quốc gia, 2003, tr.1083.
[4]Gồm 11 thành viêndo Trần Văn Trà làm Chủ tịch. Các Phó chủ tịch: Võ Văn Kiệt, Hoàng Cầm ,Trần Văn Danh, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm. Các ủy viên: Bùi Thanh Khiết, Bảy Thư, Lương Kỳ Hiệp, Nguyễn Võ Danh và Phan Minh Tánh. Đảng ủy Quân quản (còn gọi là Đảng ủy đặc biệt) gồm 11 thành viên do Võ Văn Kiệt làm Bí thư, Trần Văn Trà và Mai Chí Thọ làm Phó bí thư.
[5] Bộ tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2010), Nxb Quân đội nhân dân, 2010, tr. 177-178.
[6] Chỉ tính riêng ở miền Đông Nam Bộ, trong 2 tháng 5 và 6 - 1975, bộ đội bót khẩu phần ăn và thu gom từ các kho tàng cứu đói cho dân 661 tấn gạo, 27 tấn và 475 giạ lúa, 8 triệu đồng.
[7] Tính riêng các đồn điền cao su ở miền Đông Nam Bộ, đến cuối tháng 6 – 1975, đã khôi phục hoạt động sản xuất tại 11 đồn điền cao su ,cho vay vốn: 53.200.000 đồng; cứu tế, cứu đói cho công nhân: 450.000 đồng, 42.000kg gạo.
[8] Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Nxb Chính trị quốc gia, 2004, tr. 635-636.
[9] Cục Hậu cần Miền: Báo cáo công táchậu cần 9 tháng đầu năm 1975, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, tài liệu BC-214, tr. 4.
[10] Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử hậu cần Quân khu 7 (1945-2000), Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr. 663-664.
[11]Biên bản Hội nghị thường trực Quân ủy Miền mở rộng (ngày 8- 5- 1975), lưu trữ Ban Tổng kết chiến tranh B2, tài liệu số 2050/BM, tr.6-7.
[12]Báo cáoTổng hợp số liệu các mặt hai tháng 5 và 6 - 1975 của khu vực miền Đông Nam Bộ, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, tài liệu số 23.
[13]Báo cáo tình hình kết quả tấn công và tiếp quản của các Quân khu 7, 8, 9, Lưu trữ tại Phòng Khoa học quân sự Quân khu 9, tài liệu số 46/1975/TWC.
[14]Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954 – 1975), Nxb Chính trị quốc gia, 2003, tr.1084.
[15]Báo cáo kết quả thu hồi vũ khí, phương tiện, binh khí kỹ thuật của địch (từ 1 - 5 - 1975 đến 30 - 10 - 1975), Lưu trữ Ban Tổng kết chiến tranh B2, số MI 1736.
[16] Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử hậu cần Quân khu 7 (1945-2000), Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr. 655.
[17]Đề cương tỷ mỷ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên chiến trường Nam bộ và cực nam Trung bộ, Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1979, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, tr. 7/KN.
[18] Đảng ủy-Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1975-2000), Nxb Quân đội nhân dân, 2006, tr.90-91.
[20] Các thành viên khác: Nguyễn Thới Bưng (Phó tư kệnh kiêm tham mưu trưởng); Phó tư lệnh: Nguyễn Minh Châu, Đồng Văn Cống, Nguyễn Văn Bứa, Lương Văn Nho; Phó chính ủy: Đào Sơn Tây, Võ Văn Thạnh, Nguyễn Văn Quảng.
[21] Các thành viên khác: Nguyễn Vă Sỹ (Phó tư kệnh kiêm tham mưu trưởng); Phó tư lệnh: Nguyễn Hữu Xuyến, Lê Quốc Sản, Phạm Ngọc Hưng; Phó chính ủy: Nguyễn Văn Tòng.
[22] Các thành viên khác: Phó Tư lệnh: Bùi Cát Vũ, Nguyễn Huỳnh Ngân; Phó chính ủy: Vương Thế Hiệp.
[23] Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử hậu cần Quân khu 7 (1945-2000), Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr. 682.