Những góc nhìn Văn hoá

Trí thức Nam bộ góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng mùa xuân năm 1975

Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ buộc phải rút quân về nước, trên cơ sở công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Theo Hiệp định, miền Nam Việt Nam lúc này có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lược lượng chính trị, tất cả phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh ngừng bắn, đồng thời tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử tự do nhằm kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Đầu năm 1973, dù đã ký vào bản Hiệp định Paris, nhưng Mỹ không hề từ bỏ âm mưu chia cắt vĩnh viễn Việt Nam thành hai miền Nam – Bắc. “Học thuyết Nixon” và “Việt Nam hóa chiến tranh” vẫn được Mỹ sử dụng như công cụ chiến lược để duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Dưới chiêu bài viện trợ quân sự và kinh tế, Mỹ vẫn tiếp tục giúp đỡ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, duy trì quân lực Sài Gòn để chống phá Hiệp định Paris. Do vậy, khi Hiệp định Paris vừa được ký kết, Tổng thống Thiệu đã đưa ra tuyên bố “bốn không”: không liên hiệp; không thương lượng; không cộng sản, trung lập; không để lãnh thổ lọt vào tay cộng sản, đồng thời thực hiện chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, đẩy mạnh “bình định lấn chiếm”, “bình định đặc biệt”, “cộng đồng tái thiết”, “cộng đồng phát triển” và coi “việc ký Hiệp định Paris chỉ là điểm khởi đầu giai đoạn cuối của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”,  nhằm làm cho Việt cộng “lụi tàn” và biến thành một đảng đối lập “nhỏ nhoi” trên trường chính trị. Để thực hiện ý đồ đó, Mỹ - Thiệu “phát xít hóa bộ máy đàn áp”; quân phiệt hóa lực lượng quân đội, cảnh sát; thanh lọc những phần tử “không hợp rơ”; thanh trừng báo chí yêu nước; giải tán 26 phe nhóm, đảng phái chính trị không ăn cánh; thành lập “Ủy ban chỉ đạo đấu tranh chính trị”, “Tổ chức mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình và quyền tự quyết”; khuyến khích các lực lượng đối lập như Tổ chức Công giáo của Trần Hữu Thanh, Tổ chức Phật giáo thuộc phái Ấn Quang… hoạt động nhằm mua chuộc, lôi kéo lực lượng thứ 3, xây dựng lực lượng chính trị để chuẩn bị đấu tranh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam.

Về phía cách mạng, ngay trước khi Hiệp định Paris được ký kết, ngày 17/1/1973, Thường vụ Trung ương Cục đã ra quyết định 04/QĐ về việc thành lập ban đấu tranh chính trị trực diện với địch gồm 2 tiểu ban chuyên môn: Nghiên cứu và Báo chí nhằm chuẩn bị tuyên truyền cho phong trào đấu tranh chính trị đòi “hòa giải và hòa hợp dân tộc”. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, trên cơ sở pháp lý của Hiệp định, Trung ương Cục phát động phong trào đấu tranh chính trị rộng khắp, tố cáo mạnh mẽ tội ác của Mỹ - ngụy, đồng thời kêu gọi quần chúng nhân dân nổi dậy hưởng ứng bản tuyên bố của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Trên cơ sở đó, ở các đô thị Nam Bộ, vùng tạm bị chiếm, phong trào đấu tranh chính trị công khai, bán công khai diễn ra sôi nổi đòi Mỹ - ngụy thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris. Riêng tại Sài Gòn, Chợ Lớn, gần 30 đoàn thể chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo liên kết lại thành một mặt trận đối lập với chính quyền Việt Nam cộng hòa. Mỗi đoàn thể đều ra nội san để phổ biến lập trường chính trị trong việc đòi chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định Paris. Đặc biệt, trong thời gian này, ở Nam bộ, nhiều cá nhân, tổ chức thuộc “lực lượng thứ ba” nổi lên hoạt động sôi nổi, công khai đấu tranh đòi hòa bình, hòa hợp và hòa giải dân tộc…

Lực lượng thứ ba gồm nhiều lực lượng, phe nhóm, đảng phái chính trị cả “cánh tả, lẫn cánh hữu”, đó là những lực lượng đứng giữa các xu hướng yêu nước, trong đó có một bộ phận thân Mỹ nhưng do bất mãn về địa vị, quyền lực, phe nhóm… nên gia nhập lực lượng thứ ba chống lại chính quyền Sài Gòn. Ngoài ra, lực lượng thứ ba còn có cả bọn mật vụ, tình báo của Mỹ – ngụy trà trộn vào, chúng giả vờ giương cao ngọn cờ “hòa bình, hòa hợp, hòa giải dân tộc” nhằm giành quyền lãnh đạo, chi phối lực lượng thứ ba – một trong ba lực lượng chính trị hiện có ở miền Nam Việt Nam. Đứng trước tình hình đó, Trung ương Đảng ta chỉ đạo: phải nắm chắc lực lượng trung gian, lôi kéo lực lượng trung gian, gây ảnh hưởng đến lực lượng trung gian, đồng thời “lựa chọn cán bộ cốt cán ở bên trên và bên dưới để hình thành và nắm vững mặt trận của lực lượng thứ ba”[1], nhưng “cần cảnh giác với những phần tử cánh hữu thân Mỹ”[2].

Về công tác vận động thành lập lực lượng thứ ba, từ tháng 2/1969, Bộ chính trị đã chỉ đạo “thúc đẩy lực lượng thứ ba đấu tranh, nhằm “khoét sâu mâu thuẫn nội bộ địch, làm cho lực lượng chống Thiệu ngày càng tăng lên”[3]. Đến tháng 8/1972, đồng chí Lê Duẩn lại nhắc nhở “phải kịp thời tập hợp các phe nhóm tán thành hòa bình, độc lập, dân chủ, hòa hợp dân tộc, hình thành lực lượng thứ ba để phân hóa hơn nữa các thế lực phản động”, “muốn thế phải lập nhiều hình thức mặt trận trong các tôn giáo, trí thức, giáo giới, viên chức, báo chí…”[4]Do được chuẩn bị chu đáo, nên tại các đô thị và vùng tạm bị chiếm, lực lượng trí thức cách mạng hoạt động công khai trong các tổ chức trung lập, hệ thống báo chí, Phong trào dân tộc tự quyết… tuyên truyền, vận động lực lượng thứ ba đấu tranh đòi Mỹ – ngụy thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris. Trên cơ sở đó, từ năm 1969, các tổ chức chính trị, xã hội thuộc lực lượng thứ ba lần lượt ra đời mà điển hình là Ủy ban cải thiện chế độ lao tù của linh mục Chân Tín (1969);Mặt trận nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris của luật sư Trần Ngọc Liễng (14/2/1974); Mặt trận cứu đói của Đại đức Thích Hiến Pháp (22/9/1974); Cộng đồng tin mừng của các linh mục trẻ Huỳnh Khắc Từ, Nguyễn Ngọc Lan, Huỳnh Văn Nghi…(1974); Tổ chức chống tham nhũng của 301 vị linh mục (8/1974); Lực lượng trung lập dân tộc Việt Nam (1974); Ủy ban Hành động cho công bằng xã hội của thanh niên sinh viên Thiên chúa giáo (4/12/1974)…. Đặc biệt khối Phật giáo Ấn Quang sau một thời gian dài im ắng nay cũng tuyên bố thành lập Lực lượng hòa giải dân tộc (8/1974) và sau đó triển khai rộng rãi ra các tỉnh thành Nam Bộ, với ý đồ tập hợp lực lượng thứ ba dưới ngọn cờ của Phật giáo Ấn Quang.

Hoạt động sôi nổi của lực lượng thứ ba từ sau Hiệp định Paris làm cho nội bộ chính quyền Việt Nam cộng hòa vốn đã bất ổn do việc tranh giành quyền lực giữa các tướng lĩnh và các phe phái chính trị nay lại càng bất ổn hơn. Do vậy, sau khi “phù phép” để được trúng cử Tổng thống nhiệm kỳ ba, Nguyễn Văn Thiệu tiến hành cải tổ nội các, bầu cử Hội đồng các cấp, nhằm loại bỏ những người không ăn cánh và lực lượng thứ 3 còn nằm trong hội đồng[5]. Hành động của Mỹ - Thiệu không những vi phạm nghiên trọng Hiệp định Paris đã ký kết mà còn làm tăng thêm sự bất mãn và phân hóa sâu sắc ngay trong hệ thống chính quyền các cấp. Trước tình hình đó, Trung ương chỉ đạo giương cao ngọn cờ “hòa bình, hòa hợp dân tộc” nhằm tập hợp lực lượng thứ ba tham gia đấu tranh chống Mỹ - Thiệu thi hành Hiệp định Paris, đồng thời “làm phân hóa mạnh mẽ nội bộ chính quyền Sài Gòn”. Ngày 23/2/1974, Phong trào dân tộc tự quyết nổ phát súng đầu tiên bằng bản Tuyên ngôn kêu gọi nhân loại tiến bộ trên thế giới cùng các đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước ủng hộ lập trường đấu tranh vì hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc tại miền Nam Việt Nam. Bản Tuyên ngôn nhấn mạnh:“cực lực lên án và tố cáo trước dư luận quốc tế và quốc nội âm mưu tiêu diệt thành phần thứ 3” và “âm mưu phá hoại Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn”[6].  Tiếp sau tuyên bố của Phong trào dân tộc tự quyết, Lực lượng trung lập dân tộc Việt Nam ra lời hiệu triệu với nội dung: “quyết tâm tranh thủ thống nhất đất nước trong hòa bình và thịnh vượng; thực hiện một nước Việt Nam độc lập và trung lập thật sự; thành lập một chính phủ liên hiệp với  thành phần rộng rãi; thực hiện một nền dân chủ thật sự; thành lập một quân đội hùng mạnh để tự bảo vệ đất nước; xây dựng một nền kinh tế quốc gia trong sự sung túc, tự cường, không lệ thuộc ngoại bang”[7]. Cuối bản hiệu triệu, Bộ tư lệnh lực lượng trung lập dân tộc Việt Nam kêu gọi: “vận mệnh quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam định đoạt; giờ lịch sử đã đến! Toàn dân, toàn quân hãy cầm vũ khí sẵn sàng cùng đứng lên với lực lượng trung lập dân tộc Việt Nam để đấu tranh cho hòa bình xứ sở với bất cứ hình thức nào với giải pháp chính trị hay quân sự”[8].

Trong khi chính phủ Việt Nam cộng hòa đang phải vật lộn với phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris đang dâng lên mạnh mẽ trên khắp cả Nam Bộ, thì ở Mỹ, Nixon buộc phải từ chức giữa nhiệm kỳ. Điều đặc biệt là quốc hội Mỹ tuyên bố lại cắt giảm số viện trợ cho Việt Nam cộng hòa từ 2.270 triệu USD năm 1973 xuống còn 1.026 triệu USD năm 1974 và 1.450 triệu USD năm 1975[9]. Mỹ rút quân về nước, trao gánh nặng chiến tranh cho chính quyền Sài Gòn, và bây giờ, Mỹ lại cắt bớt viện trợ làm cho nền kinh tế vốn phụ thuộc vào Mỹ, nay lâm vào khủng khoảng nghiêm trọng. Do có một nền kinh tế vốn “sống bám vào lưng người khác”[10], nên lúc này, Thiệu phải hô hào “cải cách hành chính”, “chống tham nhũng”, “lành mạnh hóa xã hội”, “thắt lưng buộc bụng”, “tham gia sản xuất”, đánh “Việt cộng” “theo kiểu nhà nghèo”… Dù vậy, ngân sách “quốc gia” của Thiệu vẫn bị thiếu hụt nghiêm trọng, năm 1973 thiếu hụt 168 tỉ[11], năm 1974 thiếu hụt trên 96 tỉ và lạm phát hàng năm lên tới 60%[12].

Những năm 1974 - 1975, tình hình kinh tế Nam Bộ trở nên ảm đạm hơn bao giờ hết, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống của binh sĩ, công chức và nhân dân trở nên đói kém. Bên cạnh đó, thiên tai, mất mùa diễn ra liên tiếp, đặc biệt khi cơn lũ đổ vào miền Trung làm cho nhân dân trở nên túng quẫn, nạn đói de dọa nghiệm trọng. Đứng trước thực trạng đó, một số cá nhân, tổ chức thuộc lực lượng thứ ba thành lập Mặt trận cứu đói, kêu gọi nhân dân tham gia đóng góp, ủng hộ đồng bào bị thiên tai. Với sự hoạt động tích cực của một số cá nhân, tổ chức thuộc lực lượng thứ ba trong đó có cả giáo chức phật giáo, công giáo, dân biểu, giáo sư, nhà báo, luật sư, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh… tiêu biểu như dân biểu Nguyễn Văn Hàm, Ngô Công Đức, Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Thuận, nhà sư Thích Quảng Long, Thích Hiến Pháp, linh mục Phan Khắc Từ, giáo sư Lý Chánh Trung, luật gia Ngô Bá Thành, nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga…[13], công tác gây quỹ cứu đói ngày một phát triển rộng khắp và tập hợp được đông đảo các thành phần xã hội tham gia. Bên cạnh việc kêu gọi gây quỹ cứu đói, xuất bản tờ báo Cứu đói, lực lượng trí thức, sinh viên, học sinh còn tổ chức nhiều “Buổi biểu diễn văn nghệ từ thiện”, “Đêm văn nghệ giúp đồng bào miền Trung”, kêu gọi “lá lành dùm lá rách” hướng về đồng bào miền Trung ruột thịt.

Cùng với hoạt động mạnh mẽ của mặt trận cứu đói, một bộ phận trí thức trung lập còn thành lập Phong trào chống tham nhũng, tiến hành việc truy tìm nguyên nhân gây ra nạn đói và nguyên nhân làm cho Việt Nam cộng hòa “vốn thịnh vượng” nay rơi vào cuộc khủng khoảng nghiêm trọng. Về vấn đề này, trong buổi ra mắt Mặt trận cứu đói, trước gần 500 người đại diện cho các đảng phái, tôn giáo, phe nhóm chính, cùng đông đảo ký giả trong và ngoài nước, dân biểu Kiều Mộng Thu cho rằng: nguyên nhân gây ra nạn đói và tệ trạng khác hiện nay là bởi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu hiếu chiến, tham nhũng và bất lực…Để biểu thịtinh thần đấu tranhcủa mình, dân biểu Kiều Mộng Thu còn viết một bức thư bằng máu đòi Tổng thống Thiệu từ chức. Tiếp theo “bức thư máu” là Tuyên ngôn chống tham nhũng của 301 vị linh mục[14]thuộc các tổ chức công giáo, các dòng tu, giảng viên chủng viện và các trường tư thục ở Nam Bộ tố cáo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng và bất tài đã làm cho “đất nước” Việt Nam cộng hòa “rơi vào tình trạng hoang tàn như hiện nay”; và Bản cáo trạng số 1 của Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hòa bình” được đăng nguyên văn trên các báo Đại dân tộc, Điện tín, Sóng thần. Tiếp theo là cuộc họp báo của các dân biểu Hồ Ngọc Thuận, Kiều Mộng Thu nhằm công bố tài liệu của sinh viên và Việt kiều tại Mỹ tố cáo tố trạng của tổng thống, kết án tổng thống Thiệu là kẻ “bất chính”, “bất nhân”, “bất nghĩa”, “bất tín” (1/1975)[15]. Riêng Linh mục Trần Hữu Thanh thì tuyên bố: “Nguyễn Văn Thiệu cần phải tống ra khỏi chính quyền thì miền Nam mới có hòa bình, dân chủ”[16]. Phong trào chống tham nhũng ngày một lan rộng, nhiều cuộc hội thảo, biểu tình, đêm không ngủ “đốt nến cầu nguyện” được tổ chức đấu tranh vạch rõ tội trạng của tổng thống, đòi Tổng thống Thiệu từ chức, đòi cải tổ chính phủ, vãn hồi hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc theo tinh thần Hiệp định Paris…

Sự ra đời của Mặt trận chống tham nhũng và phong trào đấu tranh đòi Thiệu từ chức của lực lượng cánh hữu mà điển hình là Trần Hữu Thanh, Chân Tín Nguyễn Văn Trung, Hồ Ngọc Thuận, Kiều Mộng Thu… diễn ra trong bối cảnh Mỹ – Thiệu liên tiếp thất bại trên tất cả các mặt trận và sự lớn mạnh như vũ bão của quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự lún sâu vào khủng hoảng của chính thể Việt Nam cộng hòa minh chứng sự bất lực của Thiệu, đồng thời báo hiệu “ngày tận thế” của thể chế Việt Nam cộng hòa. Giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng nhận định: “chế độ này đang ngồi trên nghế 3 chân và đang lung lay sắp đổ vì nền kinh tế và nhất là âm mưu triệt hạ những người yêu nước”[17]. Do vậy, một mặt phong trào chống tham nhũng có âm mưu thay thế Tổng thống Thiệu bằng một Nguyễn Văn Thiệu khác trong sạch hơn, có năng lực hơn, đồng thời họ tránh khỏi bị tiêu diệt, loại bỏ vì trong nội các có đến 70%[18]là tay chân của Tổng thống Thiệu. Dù với màu sắc chính trị nào của người khởi xướng, nhưng phong trào đấu tranh đã thực sự lôi kéo được đông đảo tín đồ công giáo cùng các tầng lớp nhân dân yêu nước tham gia, và đó cũng chính là ý chí, khát vọng của người dân yêu nước trong việc đập tan chế độ phản động thối nát Việt Nam cộng hòa.

Từ sau Hiệp định Paris, cùng với phong trào đấu tranh của lực lượng thứ ba, ký giả yêu nước và hệ thống báo chí ở nội thành nội thị hoạt động sôi nổi trong việc đăng tải về phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đòi vãn hồi hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc, chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Với 3.048[19]báo chí bị chính quyền Sài Gòn đình bản, bắt bớ, tra hỏi chỉ trong tháng 9/1974 đã minh chứng cho sự sôi động của báo chí yêu nước từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết. Đặc biệt, ngày 24/9/1974, Hội chủ báo, Hội ký giả Việt Nam, Hội ký giả Nam Việt, và Hội ái hữu ký kết hợp thành lập Ủy ban đấu tranh đòi quyền tự do báo chí đánh dấu bước phát triển mới trong phong trào đấu tranh đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris. Các sự kiện chính trị nổi bật và phong trào đấu tranh chống chính quyền Sài Gòn đều được các báo đăng tải và phân tích cặn kẽ, điển hình là: Ủy ban Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình ra lời kêu gọi chống Thiệu, phát động phong trào đấu tranh đòi hòa bình, tự do, dân chủ (25/9/1974); Ủy ban đấu tranh tự do báo chí và xuất bản ra kháng thư  về “lời phản kháng quyết liệt hành động phản dân chủ của chánh quyền khi tịch thu 3 nhật báo Đại Dân Tộc, Điện Tín, Sóng Thần vì đã đăng bản cáo trạng số 1 của phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hòa bình”(21/9/1974)[20]; Lời kêu gọi của Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù của linh mục Chân Tín (9/1974); linh mục Chân Tín phát tán truyền đơn đòi chính quyền Sài Gòn chấm dứt ngay việc bắt bớ, tra tấn tù nhân, đòi bảo đảm quyền tự do cho lực lượng thứ 3, đòi thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, bảo đảm các quyền tự do dân chủ theo điều 11 của Hiệp định Paris (9/1974)[21]

Không thể ngăn chặn được giới ký giả đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris, đòi vãn hồi hòa bình, hòa giải dân tộc, điều nguy hại hơn là hệ thống báo chí yêu nước cứ lan tràn khắp trong các tầng lớp nhân dân, làm “rối loạn an ninh quốc gia”. “Phải làm điều gì đó để ngăn chặn báo chí yêu nước” và tổng Thống Thiệu ban hành Sắc Luật 007/TT/SLU(4/8/1972). Sắc lệnh nêu rõ: ra báo mới phải đóng ký quỹ 50 triệu đồng; các nhật báo đang hoạt động phải đóng 20 triệu đồng; tạp chí đóng 10 triệu đồng (tương đương 5.000 lượng, 1.000 lượng và 500 lượng vàng lúc bấy giờ), đồng thời cấm báo chí tuyên truyền theo “lối cộng sản”, trung lập và đòi thi hành Hiệp định Paris làm nguy hại đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục, phỉ báng tổng thống, quốc trưởng, đại sứ…

Sắc luật 007/TT/SLU ra đời giống như  “đại bác 130 ly” “nổ tung cả làng báo”,  làm cho báo chí đồng loạt đình bản, “85% ký giả lâm vào cảnh thất nghiệp”[22], “gây ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng chưa từng có trong lịch sử báo chí từ trước tới nay”[23]. Tổng thống Thiệu chủ tâm “khai tử báo chí miền Nam Việt Nam”[24], “nhưng nước ta còn đó, tiếng nước ta còn đó, tiếng dân tộc ta còn đó, không ai ngăn cản nổi, không gì ngăn cấm nổi”[25]. “Đã tới lúc những người cầm bút miền Nam lựa chọn tự do hay là chết, đã đến lúc giới trí thức miền Nam đứng lên quyết tâm đấu tranh đòi các quyền tự do căn bản của nhân dân”[26]. Và ngày 20/91974, trên 20 đoàn thể hiệp hội nhân dân tôn giáo cùng dân biểu, nghị sĩ, nhân sĩ, trí thức ồ ạt xuống đường biểu tình chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đàn áp báo chí. Các tòa báo, xưởng in tưới đẫm xăng để “tự thủ”; các ký giả, dân biểu cũng tẩm xăng theo để sẵn sàng tử chiến chống lại nhà cầm quyền; báo chí tự đốt để chống lại chính sách “bịt miệng” những người yêu nước của nhà cầm quyền. Dân biểu Hồ Ngọc Thuận cho phát tán rộng rãi tác phẩm “Tiếng nói trong kẽm gai” để kêu nhân dân đấu tranh đòi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Giới trí thức, dân biểu, nghị sĩ  thì tổ chức hội thảo để vạch trần sự vi hiến của sắc luật 007/TT/SLU. Lực lượng ký giả tổ chức xuống đường “đi ăn mày”, với các biểu ngữ, khẩu hiệu “yêu cầu Tổng thống Thiệu từ chức”, “tự do ngôn luận, tự do báo chí”, “đả đảo Luật 007”, “luật 007 làm báo chí phải đi ăn mày”, “còn Thiệu còn chiến tranh” (10/10/1974)... Lực lượng nhân sĩ, trí thức, sinh viên, học sinh, cùng các tổ chức đoàn thể xã hội và các tầng lớp nhân dân với hàng vạn người cũng hưởng ứng xuống đường “đi ăn mày” với giới ký giả. Toàn thể giới ký giả làm việc tại các tờ báo tiếng Việt, Hoa, Anh, Pháp đồng loạt đình bản phản đối chính quyền Sài Gòn (12/10/1974). Đại diện của 17 tờ báo tiếng Việt ra bản tuyên ngôn lên án Nguyễn Văn Thiệu cố tình bóp nghẹt báo chí, bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận (23/10/1974). Tiếp đó, lực lương ký giả tổ chức “ngày công lý và báo chí thọ nạn”, “ngày ký giả thọ ơn đồng bào ruột thịt” với các biểu ngữ, “tự do báo chí, tự do ngôn luận”, “Việt Nam độc lập, hòa bình và thống nhất”…

Được sự định hướng và chỉ đạo bí mật của khoảng 60 cán bộ cách mạng nòng cốt[27], nên phong trào đấu tranh của lực lượng trí thức, ký giả Nam Bộ đã thành công và “vượt xa sự mong đợi của người tổ chức”[28]. Đặc biệt, được sự ủng hộ của hàng vạn đồng bào, nên ngày “ký giả đi ăn mày” đã biến thành một cuộc biểu tình chính trị khổng lồ làm lung lay tận gốc rễ chế độ độc tài thối nát của Nguyễn Văn Thiệu, đồng thời minh chứng cho khát vọng mạnh mẽ của nhân dân Nam Bộ về một nước Việt Nam độc lập, hòa bình và thống nhất.

Từ sau sự kiện “ký giả đi ăn này”, làm chấn động cả thế giới, Thiệu cho cảnh sát vây bắt nhiều ký giả yêu nước ngay tại trung tâm câu lạc bộ báo chí (31/10/1974). Đưa các tờ báo Sóng thần, Điện tín, Đại dân tộc ra tòa xét xử về tội đã “mạ lỵ và phỉ báng Tổng thống” (28/11/1974). Truy bắt 18 ký giả[29]làm việc tại các nhật báo Đông phương, Sóng thần, Bút thép, Điện tín, Tia sáng (2/1/1975) mà chúng cho là cán bộ “cộng sản nằm vùng”. Rồi ra lệnh đóng cửa 5 nhật báo Tia Sáng (Nguyễn Trung Thành), Đông Phương (Lê Thị Quí); Sóng Thần (Nguyễn Thị Thái); Điện Tín (Hồng Sơn Đông), Bút thép (Cao Minh Hựu) ra tòa vì tội “chứa chấp cán bộ cộng sản”, “tiếp tay cho cộng sản”, hoặc là cộng sản “núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, đối lập chính trị” để “vận dụng những sách lược ly gián, chia rẽ hàng ngũ quốc gia” (3/2/1975)[30].

Trước hành động ngang ngược của Thiệu, “Lực lượng tranh đấu đòi tự do báo chí và hòa bình” trong đó có dân biểu Hồ Ngọc Thuận, Kiều Mộng Thu, giáo sư Lê Văn Trinh… ra bản Tuyên ngôn “lên án  đương kim Tổng thống Việt Nam cộng hòa phá hoại Hiệp định Balê, làm giàu trên xương máu đồng bào”[31], đồng thời yêu cầu “chính phủ phải trả tự do cho 18 ký giả, 120 sinh viên học sinh yêu nước bị chính quyền bắt giam. Đòi chánh quyền thu hồi lệnh đình bản 5 nhật báo, đòi thành lập một chánh phủ chấp nhận thi hành hiệp định Balê để chấm dứt chiến tranh, kiến tạo hòa bình, đòi chánh phủ Hoa Kỳ ngưng tiếp tay cho chánh phủ hiện hữu tại Việt Nam cộng hòa”[32]. Ngày 25/1/1975, 18 đoàn thể xã hội thuộc nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau ở Nam bộ cùng ký vào bản kiến nghị đòi Mỹ chấm dứt viện trợ cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi Thiệu từ chức. Ngày 1/2/1975, trên 23 tổ chức chính trị xã hội ở Nam Bộ lại cùng nhau ra bản cáo trạng tố cáo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, trong tuyên bố còn nêu rõ “Thiệu là sản phẩm của chiến tranh, còn Thiệu là còn chiến tranh”[33].       

Những năm 1973-1975, tại các đô thị và vùng tạm chiếm, phong trào đấu tranh của lực lượng nhân sĩ trí thức dâng cao, lực lượng thứ ba phân hóa sâu sắc và ngày một ngả về phía cách mạng, làm cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn bị cô lập. Hơn nữa, bị thất bại liên tiếp trên khắp chiến trường, vùng giải phóng ngày một mở rộng, ngụy quân ngụy quyền trở nên suy yếu, hèn nhát, phân hóa và bỏ ngũ, làm cho lực lượng ngụy quân thiếu hụt nghiệm trọng. Để bổ sung lực lượng, Thiệu ra sức bắt lính, đôn quân, nhằm bổ sung cho các mặt trận. Đứng trước thực trạng đó, phong trào đấu tranh chống bắt lính, chống lệnh quân dịch dấy lên sôi nổi ở các đô thị Nam Bộ, vùng tạm bị chiếm. Điển hình là phong trào hòa bình của sinh viên, học sinh Bến Tre (1973); phong trào sinh viên, trí thức Bến Tre “viết cho quê hương hòa bình” (1973-1974); phong trào chống bắt sinh viên học sinh đưa vào lính, đưa vào tổ chức phòng vệ dân sự ở Cần Thơ, Bến Tre (1973-1974); phong trào sinh viên học sinh An Giang đấu tranh chống bắt lính, bảo vệ quyền lợi sinh viên (21/1/1974); sinh viên đại học Hòa Hảo đấu tranh đòi Thượng, Hạ viện loại bỏ những nhân viên mật vụ, CIA đội lốt giáo chức trong trường học (23/9/1974); phong trào đấu tranh chống bắt lính của thanh niên sinh viên tại nhà thờ Dòng Chúa cứu thế, tại nhà thờ Vườn Xoài ((24/12/1974); sinh viên Nguyễn Cam dùng lưỡi lam rạch vào cách tay trái của mình để phản đối chính quyền bắt học sinh thi hành quân dịch (9/1974); phong trào đòi hoãn quân dịch đối với sinh viên của trường đại học Minh Đức (16/3/1975); phong trào phản đối lệnh tổng động viện của chính phủ Thiệu (23/3/1975); cuộc xuống đường rầm rộ của hàng vạn thanh niên, sinh viên và đồng bào “vì tương lai của tuổi trẻ hãy chống lệnh bắt lính, hãy lật đổ Thiệu” (29/3/1975)…

Phong trào đấu tranh chính trị cuối năm 1974, đầu năm 1975 dấy lên sôi nổi trên khắp các tỉnh thành Nam bộ làm cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bị cô lập, suy yếu hơn bao giờ hết. Lực lượng trí thức vừa phát động hiệu triệu quần chúng tham gia các phong trào đấu tranh chính trị vừa theo dõi Đài Phát thanh Hà Nội, Đài Phát thanh Giải phóng để kịp thời nắm bắt các tin tức thời sự rồi tiến hành viết bài in đăng trên các tờ báo tiến bộ nhằm tạo không khí hoảng loạn trong đội ngũ địch, gây rối ren về mặt chính trị, góp phần làm suy yếu nội các chính quyền Sài Gòn. Nhiều tờ báo yêu nước còn tiến hành in đăng công khai những tin tức chiến sự, tin thắng trận của quân giải phóng và hoạt động của các phe, nhóm đối lập chống chính quyền Sài Gòn. “Đặc biệt, tất cả các báo ở Sài Gòn đều đăng trên trang nhất về chiến thắng Ban Mê Thuột, Đà Nẵng, Phước Long, Xuân Lộc…, “quân cách mạng đã đánh một đòn mạnh vào ý định chủ chiến của Nguyễn Văn Thiệu và làm suy sụp ý chí  chiến đấu của quân đội Sài Gòn”[34].

*

Những ngày cuối tháng 4/1975, tình hình Sài Gòn và các vùng xung quanh ngày một hỗn loạn. Hàng vạn tàn binh và dân ở các tỉnh miền Trung và các tỉnh vùng ven kéo về tràn ngập đường dẫn vào Sài gòn. Các tướng lĩnh cầm đầu ngụy quân Sài Gòn như Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm… hoang mang, dao động đến cực độ. Chúng ráo riết vận động một số nhân vật nòng cốt khác của chế độ Sài Gòn, cùng nhau thúc ép Thiệu từ chức với hi vọng chính phủ mới sẽ nhờ “lực lượng thứ ba” thương lượng với quân giải phóng nhằm tìm kiếm một giải pháp “chính trị danh dự”. Và ngày 21/4/ 1975, Thiệu từ chức, Trần Văn Hương lên thay, nhưng chỉ 5 ngày sau, Hương phải từ chức và giao quyền lại cho Dương Văn Minh. Nhưng với ưu thế áp đảo về quân sự, chính trị, cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân đồng bằng sông Cửu Long, của quân dân miền Đông Nam bộ, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã tiêu diệt hơn một triệu quân ngụy và đập tan bộ máy ngụy quyền Sài Gòn. Sáng ngày 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyến bố đầu hàng vô điều kiện quân giải phóng và chỉ trước đó khoảng 30 phút, đại sứ Martin cùng bộ tham mưu của y vội vã lên trực thăng rời khỏi Sài Gòn về nước thừa nhận sự sụp đổ hoàn toàn chế độ thực dân mới mà Mỹ đã dốc sức xây dựng trong 21 năm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.    Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học kinh nghiệm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

2.    Nguyễn Việt Chước (Hồng Hà) (1974), Lược sử báo chí Việt Nam, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn.

3.    Lý Quí Chung, Chánh Trinh (2004), Hồi ký không tên, Nxb Trẻ.

4.    Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5.    Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

6.    Trần Trọng Đăng Đàn (1993), Văn hóa Văn nghệ Nam Việt Nam 1954 – 1975, Nxb Thông tin.

7.    Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Lịch sử Đảng bộ cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

8.    Trần Văn Giàu (chủ biên) (1988), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh,  tập I - Lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

9.    Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II –Văn học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

10.                       Phong Hiền (1984), Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở Miền Nam Việt Nam (khía cạnh về tư tưởng văn hóa 1954-1975), Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội.

11.                       Lữ Phương (1985), Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

12.                        Bút Thần, ngày 6/8/1972

13.                        Đại Dân Tộc, ngày 22/9/1974.

14.                        Điện Tín, ngày 10/10/1974.

15.                        Điện Tín, tháng 2/1975.

16.                        Đối Diện, số 39 tháng 9/1972

17.                        Tài liệu Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, phông Phủ thủ tướng (PTT) chính phủ Việt Nam cộng hòa.

18.                        Tài liệu Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, phông Ủy ban Thống nhất Chính phủ (BTNCP)



[1]. Ban chỉ đạo nghiên cứu biên soạn Lịch sử biên niên Trung ương Cục miền Nam (1999), Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ -  Trung ương Cục miền Nam, tập II, Hà Nội, tr 530.

[2] . Ban chỉ đạo nghiên cứu biên soạn Lịch sử biên niên Trung ương Cục miền Nam (1999), Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ -  Trung ương Cục miền Nam, tập II, Hà Nội, tr 530.

[3] . Ban chỉ đạo nghiên cứu biên soạn Lịch sử biên niên Trung ương Cục miền Nam (1999), Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ -  Trung ương Cục miền Nam, tập II, Hà Nội, tr 530.

[4]. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1985, tr 325.

[5]. Trong hai năm 1973, 1974, thiệu loại bỏ 2 phụ tá tổng thống, cách chức 20 bộ trưởng, 35 tỉnh tưởng, 60 quận trưởng, 35 tướng, 450 tá, 1000 đại úy và sa thải 54.000 công chức chính phủ[5];  thuyên chuyển 14 tướng, thăng cấp 39 tướng, thay 14 đại sứ; đưa 30% công chức, 6.000 sĩ quan xuống tận các ấp xã

[6]. Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, tập tài liệu về tình trạng can phạm chính trị luật sư nguyễn long, Ptt, HS 18524, 33, 34.

[7]. Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, tập tài liệu của phủ thủ tướng, bộ nội vụ về hoạt động của các mặt trận 64-1974, P. PTT, HS 31518. tr 62.

[8].Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, tập tài liệu của phủ thủ tướng, bộ nội vụ về hoạt động của các mặt trận 64-1974, P. Ptt, HS 31518. tr 62.

[9]. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học kinh nghiệm,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 501.

[10]. Báo chính luận – Sài Gòn ngày 30/01/1969.

[11].  Đồng bạc Việt Nam cộng hòa

[12]. Phong Hiền (1984), Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở Miền Nam Việt Nam (khía cạnh về tư tưởng văn hóa 1954-1975), Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội,tr 265.

[13]. Giáo sư Trần Văn Giàu (chủ biên) Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1987, t1, tr 408.

[14]. Trung tâm Lưu trữ Trung ương III, Báo cáo tình hình miền Nam tháng 8 năm 1974, P. UBTNCP, HS 119, tr 11.

[15]. Trung tâm Lưu trữ Trung ương III, Báo cáo tình hình miền Nam, phong PTTĐIICH. HS 1333, tr 12

[16]Giáo sư Trần Văn Giàu (chủ biên) Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1987,t 1 lich sử, tr 502.

[17]. Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, công chức hoạt động chính trị chống chính phủ PTT, HS 31517, tr 2

[18]Phong Hiền (1984), Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở Miền Nam Việt Nam (khía cạnh về tư tưởng văn hóa 1954-1975), Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội,tr 263.

[19]. Giáo sư Trần Văn Giàu (chủ biên) Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, t1 lich sử, tr 617.

[20].  Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, PTT. HS 31563.               

[21]Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, công chức hoạt động chính trị chống chính phủ PTT, HS 31517, tr 31.

[22] .Đại dân tộc ngày 11/10/1972.

[23].Đối diện số 39, tháng 9/1972.

[24]. Bút thần ngày 6/8/1972.

[25]. Đối diện số 39 tháng 9/1972, tr 113.

[26]. Đại dân tộc 22/9/1974.

[27] .Đảng cộng sản Việt Nam,Lịch sử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, tập 2, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr 344-345.

[28]. Điện tín ngày 10/10/1974.

[29].Trong số ký giả bị bắt có Ký Ninh,  Kiên Giang, Tam Vũ, Trần Kim Uẩn, Lê Hiền, Phương Thảo, Sơn Nam, Việt Quang, Liên Anh, Quốc Vượng, Sơn Tùng, Cao Trần, Đoàn Hùng, Quang Thịnh, Trường Sơn, Trần Quân…

[30]. Nghị sĩ Hoàng Xuân Hào phổ biến bản nhận định về việc đóng cửa 5 tờ báo PTT, HS 31565, tr 58.

[31].Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, phong PTT. 31563.

[32].  Trung tâm Lưu trữ Trung ương II, phong PTT. 31563.

[33].Điện Tín tháng 2/1975.

[34].TS. Hồ Hữu Nhựt (chủ biên), Trí thức Sài Gòn - Gia Định 1945 – 1954, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001, tr 411.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578047

Hôm nay

2217

Hôm qua

2361

Tuần này

21246

Tháng này

225104

Tháng qua

130677

Tất cả

114578047