Danh sĩ Trúc Đình Lê Hữu Nghiêm, tự Lê Khoan Hoàng, quê tại xã Hữu
Bằng (nay thuộc xã Sơn Bằng), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là tác gỉả thơ văn chữ Nho, chữ Quốc Ngữ đăng tại Nam Phong Tạp Chí; cảm thương cho phận bạc của nàng, bèn làm bài Điếu Văn khóc thương. Ðây là niềm thông cảm sâu xa giữa danh sĩ và giai nhân, nên xin được sao lục để bạn đọc thưởng lãm. (Hồ Bạch Thảo sao lục và giới thiệu)
Ô qua thỏ lại (1), bóng quang âm thúc dục khách má đào,
Ngọc nát vàng phai, cơn dâu bể ngậm ngùi tuổi trẻ.
Nhớ em xưa!
Tính nết hiền lành,
Dung nhan đẹp đẽ.
Xuân xanh xấp xỉ, tuổi Vân Kiều (2) so lại mới thêm hai,
Thanh sắc đôi đường, tài Ban Lý (3) sánh đây chừng có lẻ.
Yểu điệu mày ngài dáng liễu, nét thu ba héo ruột tài hoa,
Nhởn nhơ má phấn môi son, nền xuân tứ say lòng bạn lứa.
Trãi mấy độ vườn xuân khép mở, xôn xao ong bướm lượn tường đông,
Đã bao phen vườn hạnh ra vào, xấp xới yến anh bên cửa vẽ.
Thương em, lúc thẹn hoa đắm nguyệt, rõ ràng giá trong ngọc trắng, thói phỉ phong(4)gìn giữ sạch thanh,
Nhớ em, khi xức phấn xông hương, ước ao lá thắm chỉ hồng, duyên chung đỉnh (5) ăn ngồi vui vẽ.
Chẳng trăm năm là số, cũng còn mong lá tốt cây cao,
Mười bảy tuổi đang xuân, sao đã vội hoa trôi nước rẽ.
Không chi cũng vài mươi tháng nữa, rồi đây thề vàng hẹn ngọc, xuống hoàng tuyền (6) khỏi tiếng gái không chồng,
Phỏng rốn cho mười mấy năm thêm, mai kia tốt quế tươi hòe (7), trước linh tọa cũng có con khóc mẹ.
Vẫn biết má hồng thì mệnh bạc, chữ đoạn trường vẫn để xưa nay,
Tiếc thay mặt phấn buổi xuân xanh, cơn biến cục vội chi dâu bể?
Phận hồng nhan độc địa lắm thay!
Con tạo hóa ghét ghen bấy nhẽ!
Nỡ rẽ đôi đường sống thác, để mưa sầu gió tủi lại cho ai,
Đành rằng phận mỏng cánh chuồn thà lá rụng hoa rơi từ thuở bé.
Hay là bà Vương Mẫu (8) thiếu người hóa sứ (9) , kíp đòi lên mở tiệc quỳnh diên?
Hay ở trên tiên cung hết hạn trích tiên (10), kíp gọi lại nương miền đan quế (11)?
Hay giai nhân tài tử , cõi trần hoàn ít kẻ xứng đôi?
Hay tục khách dung phu, tủi duyên phận về nơi giá rẻ?
Ôi!
Núi Quyết (12) mịt mù!
Sông Lam (12) lặng lẽ!
Sau nhà buồng không lạnh ngắt, đội quảng Hàn thêm một chị Hằng Nga,
Trước sân rêu phủ xanh rì, nền xuân sắc bớt vài phân thanh đế.
Xót xa thay vật còn người vắng! lược em dắt, trâm em cài, quạt em cầm, gương em chiếu, nét phong lưu tưởng đến mà đau!
Mơ màng khi xúc cảnh sinh tình! Hoa ai cười, trăng ai cợt, gió ai hứng, tuyết ai in, thú ngâm vịnh nghĩ càng thêm tẻ!
Trong, những thân bằng cố hữu, xót em chữ tình, chữ phận, chén tiêu sầu lệ nhạn rơi châu,
Ngoài, những mặc khách thi hào, thương em cân sắc, cân tài , câu đề vịnh bút hoa rạng vẽ.
Ôi!
Sống thác đôi đường số phận, buồn cho em lại tiếc cho em!
Nôm na ba chữ khóc than, người như thế, sao duyên như thế!
Hởi ơi! Thương thay!
CHÚ THÍCH
1.Ô qua thỏ lại: Kim ô chỉ mặt trời, ngọc thỏ chỉ mặt trăng. “Ô qua thỏ lại” cùng nghĩa với “ngày tháng thoi đưa”.
2.Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nói về tuổi Thúy Vân, Thúy Kiều như sau: “ Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. Theo Kinh Lễ cập kê tức tuổi kẹp tóc lúc 15 tuổi; riêng nàng Mộng Duyên “thêm 2 ” tức 17 tuổi.
3.Ban Lý chỉ Ban Chiêu và Lý Ký, 2 người con gái nỗi tiếng tại Trung Quốc. Ban Chiêu đời Hán nỗi tiếng hay chữ góp phần với anh là Ban Cố soạn Hán Thư, Lý Ký đời Đường giết được thần rắn.
4.Phỉ phong: điển từ Kinh Thi nói về hai thứ rau phong và phỉ do người nghèo dùng; tại đây chỉ nàng Mộng Duyên tuy nghèo nhưng trong sạch.
5.Chung đỉnh: Chung là chuông, đỉnh là vạc; chỉ cảnh giàu sang.
6.Hoàng tuyền: tức suối vàng, chỉ lúc chết.
7.Tốt quế tươi hòe: chỉ con cái đông đúc.
8.Vương Mẫu: tức Tây Vương Mẫu, vị tiên nữ trong thần thoại Trung Hoa.
9.Sứ: tức sứ giả, người được sai phái.
10.Trích tiên: tiên bị đày xuống cõi phàm.
11. Ðan quế: chốn thần tiên ở.
12.Núi Quyết tức núi Dũng Quyết tại thành phố Vinh; sông Lam cũng chảy qua thành phố Vinh.