Những góc nhìn Văn hoá

Sáng tác văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới: Thực trạng và triển vọng

Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội. Như nhận định trong Báo cáo Đề dẫn của PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học: “Sự nghiệp đổi mới đất nước đã diễn ra vài chục năm, nhưng với vài chục năm ấy, ai cũng nhận thấy thành quả đổi mới là hết sức rõ nét. Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng để phát triển, thế và lực được nâng cao, đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước, tinh thần dân chủ được mở rộng… Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, sự nghiệp đổi mới đã tạo nên những luồng cảm hứng mới, niềm say mê mới. Nhìn một cách tổng thể, nhận thức của nhà văn về bản chất sáng tạo nghệ thuật được nâng cao hơn, ý thức cầm bút sâu sắc hơn, những tìm tòi đổi mới về phương thức thể hiện được khuyến khích. Theo đó, văn học thời kì Đổi mới là một thực thể đa dạng, phong phú, thấm đầy tinh thần nhân văn hiện đại. Dòng chính vẫn là dòng văn học gắn bó với sự nghiệp cách mạng, vừa thể hiện nỗ lực hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Tất nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng, văn học từ 1986 đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, và những hạn chế này đã được Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kì mới chỉ rõ”. Tiếp nối sự thành công của Hội thảo Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế (tháng 5/2014); ngày 28/5 vừa qua, tại Hội trường Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (Hà Nội); Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia Sáng tác văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới: thực trạng và triển vọngnhằm tiếp tục đi sâu đánh giá, luận giải, tổng kết một cách toàn diện những thành tựu, hạn chế của thực tiễn sáng tác văn học Việt Nam 30 năm đổi mới. Đến dự có TS. Vũ Ngọc Hoàng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương; lãnh đạo Hội đồng LLPBVHNT Trung ương; đại diện Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, và nhiều nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học trên cả nước.

Hội thảo lần này tập trung chủ yếu vào thực tiễn sáng tác bởi nó là lĩnh vực năng động nhất, đồng thời cũng là lĩnh vực cho phép chúng ta rút ra những kinh nghiệm quý báu để tiếp tục đổi mới và phát triển văn học dân tộc trong không gian văn hóa đương đại. Tổ chức Hội thảo, Viện Văn học mong muốn đưa đến một diễn đàn để các nhà nghiên cứu và phê bình văn học trong cả nước, cùng với các nhà văn với tư cách là chủ thể sáng tạo đánh giá lại thực trạng văn học thời kỳ Đổi mới, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần thúc đẩy nền văn học Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đúng đắn trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đóng góp tích cực hơn nữa vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Các tham luận và ý kiến trao đổi tại Hội thảo trước hết đã đặt ra được những vấn đề lí luận về đổi mới và đổi mới văn nghệ; đồng thời, thực tiễn sáng tác thời kì Đổi mới cũng đã được đánh giá và soi chiếu đa chiều từ điểm nhìn của các nhà lí luận phê bình cũng như của chính lực lượng viết với tư cách là những chủ thể sáng tạo.

1. Đổi mới tư tưởng và quan niệm sáng tạo văn học

Sự trăn trở về vấn đề đổi mới có thể được thấy ngay trong câu hỏi được nêu ra trong báo cáo đề dẫn Sáng tác vì sự phồn vinh của nền văn học mới của PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp: “Từ sau cái mốc của công cuộc Đổi mới năm 1986, văn học Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ văn học thế giới, chúng ta đã góp thêm gì để làm giàu có hơn di sản tinh thần của nhân loại”.

Bài phát biểu Một vài suy nghĩ về đổi mới trong văn nghệ của GS. Hà Minh Đức đã nêu lên những quan điểm then chốt về đổi mới văn nghệ. Với ông, đổi mới vừa là quy luật, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong bối cảnh đương đại, đổi mới trong văn nghệ có những thuận lợi và khó khăn riêng. Tuy nhiên, một khi công cuộc đổi mới đã có được những thành tựu của nó, giá trị bền vững và vượt thời của cái mới sẽ được khẳng định. Trình bày tham luận Hướng tới một môi trường dân chủ và đối thoại trong đời sống văn nghệ, GS. Trần Đình Sử coi tính dân chủ và tính đối thoại trong tiếp nhận phê bình như là điều kiện cần để có thể thúc đẩy văn học không ngừng đổi mới. Theo ông: “Văn học Việt Nam từ 1986 đến nay có nhiều thành tựu, song sự đánh giá nhiều khi rất phân tán, trái chiều, phức tạp nhất là việc vận dụng tiêu chí “định hướng chính trị tư tưởng”. Từ thực tế đó ông đề nghị khi đánh giá văn học nên vận dụng tiêu chí định huớng chính trị trên tinh thần văn hóa, tránh đẩy tác phẩm văn học, do khác biệt về nội dung so với chính trị vào địa vị thù địch, tạo điều kiện cho văn nghệ phát triển”. Phát biểu trao đổi tại Hội thảo, GS.TS. Trần Ngọc Vương đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa văn chương và chính trị. Trước một vấn đề thời sự như vấn đề chủ quyền trên biển và sự xâm lăng của sức mạnh mềm, ông đã đặt ra vấn đề về trách nhiệm của những người cầm bút hôm nay.        

Trong diễn biến tiếp theo của Hội thảo, nhà phê bình Lê Thành Nghị cho rằng: để văn học phát triển, ngay từ năm 1986, đã có thể nói đến công thức 3 chữ T: Tiền – Tự do – Tài năng. Ông khẳng định: “sáng tạo là làm nên cái mới. Hay và mới là vấn đề chủ yếu của sáng tạo văn học. Nền văn học của chúng ta có nhiều cái “lạ” rất đáng để ý, khác nhưng đừng làm suy chuyển đến đường lối văn hóa mà Đảng mong muốn, định hướng. Cái đó mới khó. Văn học nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo, phát minh. Nhưng nhà văn phải có tài có bản lĩnh...”.

Tham luận của Nguyễn Văn Hạnh nhấn mạnh vấn đề đổi mới tư tưởng trong văn học, ông cho rằng: Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cần phải nhận thức rõ hơn sức mạnh to lớn của thời đại là dân chủ và tự do có tác động sâu sắc đến sự phát triển xã hội, đặc biệt đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật. Đặt trọng tâm ở bình diện tư tưởng, người làm văn học sẽ luôn chú ý đến cuộc sống, tâm tư nguyện vọng của con người, sớm phát hiện và có ý kiến xác đáng về những vấn đề mới nẩy sinh, chẳng hạn như nạn  suy thoái đạo đức nghiêm trọng trong xã hội hiện nay, hay như nguy cơ khủng bổ man rợ đang lan rộng khắp nơi, tình trạng ô nhiễm môi trường… liên quan ngay đến sự tồn vong của nhân loại…

Phát biểu tại Phiên Khai mạc, TS. Vũ Ngọc Hoàng bày tỏ quan điểm xung quanh vấn đề đổi mới hiện nay và nhấn mạnh: “Chức năng  của văn học phải là khai hoá văn minh, mở đường và chỉ đường, phải làm cho con người tự do, phát triển. Nhà văn phải xác định vấn đề nhạy cảm để xông vào chứ không được né tránh, vì vậy cần có nhưng người  có tư tưởng lớn, tâm huyết thiết tha, và  đừng quy chụp họ”. Theo ông, sự đổi mới rất đáng trân trọng nhưng chưa nhiều, đồng thời nêu ra những lí do của tình trạng này (như hiện thực cuộc sống, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa); chức năng của văn học phải là khai hóa văn minh, mở đường và chỉ đường, phải làm cho con người, vì con người; khai hóa bao giờ cũng là thiểu số và nên ủng hộ.

2. Những vấn đề cơ bản của thực tiễn đổi mới văn học

 Tại Hội thảo lần này, có khá nhiều tham luận đề cập đến sự đổi mới văn học nhìn từ chủ thể sáng tác. Với bài phát biểu Văn học Việt từ đổi mới đến hội nhập, nhìn từ lực lượng viết, GS. Phong Lê cũng hướng đến xác định khái niệm “Đổi mới” và “Văn học đổi mới”. Ông cho rằng một điều đáng lưu ý là Đổi mới và Hội nhập là hai thời kì khác nhau. Khi đánh giá phê bình văn học đương đại, tác giả cũng cho rằng đặt văn học Đổi mới trong tổng thể văn học Việt Nam hiện đại (thế kỉ XX) để thấy tính kế thừa và tính chuyển đổi (hoặc đứt đoạn) của nó. Đồng thời, cần  chú ý đến các mốc lịch sử lớn để phân kỳ lịch sử và phân kỳ văn học. Từ một hiện tượng nổi bật là Các nhà văn viết phê bình thời đổi mới, tham luận của của PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn đã lưu tâm đến một mảng quan trọng trong dòng chảy văn chương nhưng chưa thực sự được quan tâm nhiều. Theo tác giả nhấn mạnh vai trò và vị thế nhà văn trong hoạt động phê bình: “Thực tế đời sống phê bình văn học thời Đổi mới có sự nhập cuộc tích cực của chính giới sáng tác, những người vừa viết văn làm thơ vừa kiêm nhiệm vị thế, chức năng nhà phê bình, viết giới thiệu, tựa dẫn, đọc sách, điểm sách, bình thơ, phác thảo chân dung, hồi ức, kỷ niệm, tổng kết các cuộc thi, các thể loại, các kiểu đề tài, các thế hệ, các giới, các giai đoạn, các dân tộc, các vùng miền…”.

Tham luận Văn học đổi mới hay là sự thức tỉnh nửa vời của một lớp nhà văn của nhà phê bình Lại Nguyên Ân, nhấn mạnh “văn học đổi mới” như là một sự thức tỉnh, bước đầu, đầy tính chất nửa vời, của một lớp nhà văn Việt Nam. Theo tác giả “Chính những nội dung đổi mới mà Đảng CSVN nêu ra (tại Đại hội VI của Đảng) như “đổi mới tư duy”, “nhìn thẳng vào sự thật” – đã khích lệ giới nhà văn thay đổi”. Bên cạnh đó, các tham luận như Hai thế hệ văn chương thời kì Đổi mới của nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha, Đội ngũ tác giả và các khuynh hướng phê bình văn học từ thời kì Đổi mới của PGS.TS. Nguyễn Văn Long, Những nhận thức và trải nghiệm mới của nhà văn Việt Nam thời Đổi mới (1986-2000) của ThS. Đoàn Ánh Dương, Nhà văn Việt Nam đương đại – những tương tác của TS. Lê Hương Thuỷ,... cũng góp phần đi sâu tìm hiểu những đổi mới trong văn học nhìn từ phương diện chủ thể sáng tạo. Qua các tham luận, có thể thấy rất rõ, thời Đổi mới, với “những yếu tố đặc thù về đời sống, không gian văn hóa, tinh thần cũng như nhiều nhân tố xã hội khác” đã có sự tác động như thế nào tới nhà văn cũng như các sáng tác văn học với tính chất là những đứa con tinh thần của họ.

Một trong những vấn đề gây nhiều tranh luận nhất, và đồng thời cũng bám sát dòng chảy văn chương trẻ đương đại nhất, đó là vấn đề văn học thị trường. Tham luận Văn học thị trường ở Thành phố Hồ Chí Minh của PGS. TS. Võ Văn Nhơn – Ths. Nguyễn Phương Thúy đã nêu lên một thực tiễn đáng lưu ý: “Có rất nhiều người lo ngại về dòng “văn học thị trường” với mỗi cuốn bán vài chục vạn bản, có thống kê cho biết, từ năm 1995-2009, ba nhà xuất bản chuyên dòng sách này đã xuất bản khoảng 60% số lượng sách tại TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều người e ngại, phân vân và cho rằng đó là sự xuống cấp của văn hóa đọc”. Chủ yếu dành cho những người trẻ, người viết trẻ, người đọc trẻ, đặc điểm của “văn học thị trường” hiện nay là “nội dung khá sáo mòn” và “đơn giản về nghệ thuật”, với “đề tài tình yêu là chủ đạo, lãng mạn, bay bổng, xa rời thực tế”. Từ góc nhìn của giới trẻ, Ths. Quách Thị Thu Hiền nêu lên một ý kiến mang tính phản biện: “Không nên đánh giá thấp văn học thị trường... Khi nhà văn viết tác phẩm thì nhu cầu lớn nhất là đối thoại với độc giả, muốn bán sách. Được công chúng đón nhận thì thành công, không đón nhận thì thất bại... Theo tôi, đó là nhu cầu của độc giả, không phải là chuyện của các nhà quản lí”. Sự phủ nhận tất cả các tác phẩm được xếp vào hạng mục “văn học thị trường”, không gì khác, chính là sự phủ nhận và quay lưng với thế hệ trẻ, với những đòi hỏi, nhu cầu cũng như tâm tư tình cảm của một bộ phận công chúng đầy tiềm năng trong bối cảnh văn hóa – xã hội đương đại. Cũng vậy, TS. Nguyễn Thanh Tâm cho rằng văn học là sản phẩm của văn hóa, vì thế, điều tất yếu là văn học thời đại này cũng phải tuân theo quy luật cung - cầu của thị trường. Không chỉ thế, “việc đánh giá thấp văn học thị trường cũng đồng nghĩa với việc đang đứng ở một hệ giá trị khác để đánh giá, vì thế mà không thực sự có được một cái nhìn khách quan”. Trao đổi tại Hội thảo, nhà văn Thiên Sơn đánh giá cao công chúng và tính đại chúng. Anh chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân của chính mình trong nghệ thuật viết để có thể lôi cuốn và thu hút công chúng. Nhà văn cho rằng, thực chất, một trong những thành tựu đáng kể của văn học hôm nay là ngày càng đi về phía thị trường. Vi Thùy Linh hết sức thẳng thắn khi xác định rõ ràng thách thức lớn đối mà chính mình cũng như của các đồng nghiệp của mình phải đối mặt: đó là cơ chế kinh tế thị trường thời đổi mới. Với cô, bất cứ một người viết nào cũng không thể tồn tại bên ngoài công chúng của mình. Tác giả không ngại ngần khẳng định: “Tôi tìm kiếm thị trường, tôi phải cạnh tranh nhưng tôi không viết thị trường, tôi tìm kiếm độc giả tinh hoa trí thức”. Cô cũng cho rằng, các nhà văn, nhà thơ đương đại cần phải “xung kích, náo động, quyến rũ và bớt hèn nhát hơn” để đủ khả năng thích nghi và tồn tại trong một bối cảnh xã hội - văn hóa mới.

Thêm một vấn đề quan trọng không kém khi nhìn nhận đánh giá văn học sau Đổi mới, đó là vấn đề về tính trò chơi của văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung. Tham luận Xu hướng trò chơi hóa đời sống và kiểu tác giả - người chơi trong thơ Việt Nam đương đại của TS. Trần Ngọc Hiếu hướng đến nhận diện một xu hướng nổi bật của đời sống đương đại: xu hướng trò chơi hóa trên mọi bình diện của đời sống xã hội, trong đó có văn chương. Căn cứ vào thực tiễn sáng tác thơ đương đại, tác giả tham luận đã khái quát hóa ba kiểu tác giả - người chơi trong thơ Việt Nam đương đại. Đó là: kiểu nhà thơ - tài tử, kiểu nhà thơ-trẻ thơ và kiểu nhà thơ luyện chữ và nghịch chữ. Tác giả kết luận: xu hướng trò chơi hóa đời sống với những kiểu hình tượng tác giả trên đây đã “cho thấy tiến trình vận động của thơ đương đại hướng đến cái cá nhân, sự duy cảm, duy mỹ và cả tính giải trí”...       

 Vừa song song vừa đối nghịch với xu hướng trò chơi hoá, phạm trù sự thật và việc kiến tạo về sự thật trong văn học thiên về khuynh hướng đẩy văn học vào địa hạt của cái nghiêm túc. Quan tâm đến vấn đề này, tham luận Diễn ngôn về sự thật trong văn học Việt Nam thời kì Đổi mới của ThS. Trần Thiện Khanh trước hết, đã lí giải vấn đề kiến tạo sự thật, kiến tạo chân lí như một nỗ lực tất yếu và thường xuyên trong văn học các thời kì. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là bài viết đã hướng đến phân tích và lí giải việc chính sự đổi mới trong quan niệm về sự thật cũng như trong cách thức tạo dựng sự thật đã cho thấy tính vận động và đổi mới của văn học trong tương quan với thiết chế quyền lực chính trị: “Văn học từ 1986 trở về sau, dưới một thiết chế xã hội mới, cho thấy trong nó chứa đựng một ý chí vươn tới hình thái tri thức mới, một sự thật mới, đây cũng là một quyền lực mới của người viết, của thời đại mới”.

Văn học nữ và khuynh hướng nữ quyền trong văn học Việt Nam thời Đổi mới cũng là một vấn đề quan trọng được nhiều tham luận gửi đến Hội thảo lần này quan tâm phân tích và lí giải như trong các tham luận: Khuynh hướng hiện sinh trong thơ nữ Việt Nam thời kì Đổi mới của TS. Trần Hoài Anh, Tiểu thuyết nữ giới 15 năm đầu thế kỉ XXI – diện mạo và triển vọngcủa TS. Thái Phan Vàng Anh, Thơ nữ trẻ đương đại – Quá trình hình thành và chặng đường phát triển của Trần Hoàng Thiên Kim, Văn xuôi nữ - nỗ lực làm mới hay tự đánh mất đặc sản tâm hồn của ThS. Hoàng Đăng Khoa,... Ngôn ngữ thân thể và bản năng tính dục như một đặc trưng của văn học nữ giới hướng đến giải nam quyền hoá, lí tính hoá cũng được các tham luận đặc biệt quan tâm khi đánh giá phê bình văn chương nữ. Điều này được thể hiện rõ nét qua các tham luận như: Vấn đề tính dục trong truyện ngắn các nhà văn nữ đương đại Việt Nam của ThS. Nguyễn Trọng Hiếu, Diễn ngôn chấn thương về phạm trù trinh tiết và phẩm tiết trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại của TS Trần Huyền Sâm…

Đề tài chiến tranh là nội dung được khá nhiều tham luận đề cập đến  với những cái nhìn mới, cách tiếp cận mới. Trong tham luận Văn xuôi viết về chiến tranh Cách mạng sau năm 1975 – một hướng tiếp cận mới hiện thực, nhà văn Đỗ Kim Cuông ghi nhận: “Hiện thực cuộc sống đã đổi thay, nhiều giá trị chuẩn mực của tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, quan hệ xã hội…đã biến động. Một không khí dân chủ, cởi mở hơn trong tranh luận”. Tham luận Mấy suy nghĩ nhỏ về đề tài chiến tranh (Nhân đọc Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 và một số tiểu thuyết khác) của PGS. TS. Tôn Phương Lan đã làm rõ hơn những quan điểm mới ấy về chiến tranh qua cái nhìn so sánh. Cùng với đó, trong tham luận Viết về chiến tranh tức là viết về hoà bình, về tình yêu thương,…Bảo Ninh cũng bàn đến việc viết về đề tài chiến tranh xuất phát từ sự quy chiếu đến tác phẩm và trải nghiệm sáng tác của riêng mình. Với Bảo Ninh, đề tài chiến tranh đi vào các sáng tác của ông một cách hết sức tự nhiên: “Có vẻ như trái khoáy, song đúng là thế, nếu không trải qua chiến tranh, không từng cầm súng, tôi sẽ không nghĩ tới chuyện một ngày nào đấy cầm bút viết văn”. Tuy nhiên, điều tác giả muốn nhấn mạnh là sự gắn kết của văn học với đời sống và số phận con người mà trong đó, chiến tranh hay hoà bình đều chỉ là “ngoại cảnh”. Đây cũng chính là những gì Bảo Ninh được nhà văn Kim Lân nhắn nhủ: “Anh là cựu chiến binh từng trực tiếp đánh trận, vậy hãy dồn tâm sức viết về quãng đời đó, nhưng phải viết sao cho hay, và cần phải nhớ, viết về chiến tranh tức là viết về hoà bình, về tình yêu thương, về lòng nhân đạo, đức khoan dung”.

Cùng với tính thời sự của cuộc khủng hoảng sinh thái trên quy mô toàn cầu, phê bình sinh thái đang là một hướng đi được các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đặc biệt quan tâm. Các tham luận gửi đến Hội thảo lần này đã đặt ra không chỉ đặt vấn đề điểm nhìn sinh thái như một hướng phê bình cấp thiết và tất yếu khi nhìn nhận văn học thời Đổi mới, đồng thời, đã cung cấp những thực hành phê bình đối với các tác phẩm cụ thể trong văn chương đương đại. Về mảng này, có thể kể đến tham luận tiêu biểu như: Khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975 của ThS. Trần Thị Ánh Nguyệt, Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần Duy Phiêncủa TS. Nguyễn Thị Tịnh Thy, Vấn đề sinh thái - đô thị trong văn xuôi Việt Nam thời kì Đổi mới của ThS. Đặng Thị Thái Hà,…

Bên cạnh đó, rất nhiều tham luận tập trung đánh giá những thành tựu của văn học thời Đổi mới trên phương diện thể loại. Về tiểu thuyết, có thể kể đến các tham luận như: Đổi mới tổ chức cấu trúc trần thuật tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới của PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp, Khả năng hư cấu và hành trình của tiểu thuyết Việt Nam đương đạicủa TS. Đỗ Hải Ninh, Để tiểu thuyết Việt Nam vươn ra thế giới – nỗ lực từ nhiều phíacủa TS. Trần Thị Mai Nhân. Về kịch, có thể kể đến tham luận Sân khấu Việt Nam thời kì đầu Đổi mới nhìn từ hiện tượng Lưu Quang Vũ của PGS.TS. Lưu Khánh Thơ. Về truyện ngắn, có thể kể đến bài viết Sự mở rộng đường biên thể loại của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1986của PGS.TS. Đinh Trí Dũng. Sự phát triển đáng kể của thể tản văn cũng được giới nghiên cứu phê bình ghi nhận và quan tâm lí giải, trong đó có thể kể đến các tham luận như: Sự nở rộ của thể tản văn trong thời đổi mới và hội nhập của PGS.TS. Nguyễn Bích Thu, Tản văn – thể loại nhỏ của một thời kì lớn của nhà phê bình Nguyễn Hoài Nam,… Đặc biệt, sự đổi mới trong thơ cũng là vấn đề đặc biệt đáng quan tâm, với những tham luận đáng chú ý như: 30 năm Đổi mới, các trào lưu thơ Việt ở đâu, về đâu?của nhà thơ Inrasara, Thơ Việt Nam 30 năm cách tân và đổi mớicủa nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, Bước chuyển hệ hình thơ Việt từ tiền hiện đại sang hiện đại của PGS.TS. Đỗ Lai Thuý,Truyền thống và cách tân – bài học của thơ Việt trên đường đổi mớicủa TS. Đặng Thu Thuỷ,… Có thể thấy, dưới con mắt của chủ thể sáng tạo cũng như dưới cái nhìn lí luận phê bình, thể loại không còn được xác định như một bộ khung bất biến và cố định mang tính quy phạm và đóng khung sáng tạo trung những cái khuôn cố định. Ngược lại, đó là một phạm trù mang tính động rất cao, không ngừng được làm mới và những bước đổi mới của một nền văn học cũng được biểu hiện rất rõ nét qua sự vận động của từng thể loại.

Cùng với đó, cần phải kể đến các tham luận mang tính nghiên cứu trường hợp, đi sâu phân tích sự đổi mới trong nội dung biểu hiện và hình thức kết cấu tác phẩm văn học qua những hiện tượng cá thể sáng tạo hay các thực hành sáng tác cụ thể, chẳng hạn như:Hiện tượng Lê Minh Khuêcủa nhà phê bình Bùi Việt Thắng, Ai đọc Nguyễn Huy Thiệpcủa TS. Phùng Ngọc Kiên, Tiểu thuyết thế sự Việt Nam đầu thế kỉ XXI qua Biển và chim bói cácủa Bùi Ngọc Tấn củaPGS.TS. Lê Dục Tú và CN. Mai Thị Thanh Hằng,Nhân vật biến đổi qua ba tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hàcủa nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan, Đau ốm, bệnh tật, cái chết: Một tự sự thân thể trong văn chương Nguyễn Huy Thiệpcủa ThS. Mai Anh Tuấn, Miền hoangcủa Sương Nguyệt Minh trong dòng chảy văn xuôi đương đại Việt Nam của PGS.TS. La Khắc Hoà, Những thực hành mới trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 15 năm đầu thế kỉ XXIcủa nhà văn Đặng Thân. Các tham luận đã đi sâu phân tích, đánh giánhững đổi mới phong phú và đa dạng  cũng như những thành tựu và hạn chế của từng trường hợp cụ thể trong văn học Việt Nam đương đại.

Ngoài ra, Hội thảo cũng  hướng tới những không gian văn học khác nhau  như văn học các dân tộc thiểu số, văn học hải ngoại, văn học thiếu nhi… Về mảng này, có thể điểm lại một số tham luận đáng chú ý: Lời kẻ khác và phẩm chất mới của sự thể hiện trong truyện ngắn dân tộc thiểu số đương đạicủa PGS.TS. Hà Công Tài, Vấn đề tha hương và di dân trong tiểu thuyết hải ngoại đương đại của PGS.TS. Lý Hoài Thu,… Sự quan tâm đến những không gian văn học như văn học hải ngoại hay văn học các dân tộc thiểu số cho thấy đó là những bộ phận không nhỏ đã đóng góp và làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam trong tính tổng thể và đa dạng của nó.

3. Kinh nghiệm thẩm mỹ và bài học của văn chương thời Đổi mới

Mục tiêu đánh giá, tổng kết kinh nghiệm cũng như những thành tựuvà hạn chế của văn học thời Đổi mới cũng được Hội thảo đặt ra. Bản tham luận Văn xuôi Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI – một vài ghi nhận của PGS. Trần Hữu Tá có ý nghĩa tổng kết đánh giá một cách toàn diện sự đổi mới về văn xuôi trong những năm đầu thế kỉ. Đúng như khẳng định của PGS. TS.Nguyễn Đăng Điệp – Viện trưởng Viện Văn học trong lời đề dẫn hội thảo: “cuộc hội thảo lần này đặc biệt coi trọng và muốn lắng nghe ý kiến của các nhà văn, về quan niệm cầm bút cũng như những trăn trở, khát vọng sáng tạo của họ”, rất nhiều tiếng nói của những người cầm bút trong tư cách  những chủ thể sáng tạo,đã cất lên trong hội thảo như sự chia sẻ, trao đổi về những trải nghiệm sáng tác của chính bản thân mình trong bối cảnh đổi mới và hội nhập.

Sự chia sẻ về trải nghiệm cuộc đời cũng như kinh nghiệm văn chương của một nhà văn có thể được thấy hết sức rõ nét qua tham luận Tôi viết truyện Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp. Qua việc giải thích cụ thể về một tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã đưa đến cái nhìn khái quát hơn về các tác phẩm văn học thời Đổi mới; đồng thời làm rõ vấn đề “Đổi mới” trên cả hai phương diện nội dung và hình thức: “Một là về hình thức: Đây là tác phẩm đặc sắc có tính chất bạo động về ngôn ngữ. Hai là về nội dung: “Đạo” là con đường tự nhiên, con đường thoát hiểm, con đường sống sót, con đường hy vọng của văn chương. Dấu hiệu nhận biết đầu tiên của “đạo” là nụ cười, sau đó là những biểu hiện của tình yêu thương với lòng chẳng nỡ, tính nhân văn, v.v… ”. Tại diễn đàn Hội thảo, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chính thức lên tiếng bác bỏ những suy diễn, bịa đặt, vu khống và qui kết chính trị ác ý của nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu khi cho rằng ông đã phủ nhận cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Trên thực tế, tôi chỉ nói khái quát rằng tôi ghét chiến tranh… Năm trước cũng tại một hội thảo, anh Lưu có đến xin lỗi tôi. Nhưng đó là chuyện cá nhân, chuyện nhỏ. Còn đây là câu chuyện đạo đức nghề nghiệp. Người viết phê bình trước hết phải có cái tâm trung thực...

Nhà thơ Y Phương, với tham luận Đi tìm thể tản văn đã chia sẻ những trăn trở của mình trong quá trình sáng tạo, từ việc sáng tác một tác phẩm, đến việc làm mới chính mình qua việc theo đuổi một thể tài văn học.  Đôi lời về tìm thấy và đánh mất của Nguyễn Bình Phương lại là những trải nghiệm về chính sự viết trên phương diện tổ chức thế giới nghệ thuật cũng như trên phương diện kết cấu văn bản: “Khi nhà văn viết ra, là đã tiết lộ với mọi người cái thế giới thầm kín kia, cũng đồng nghĩa vừa tìm thấy vừa đánh mất. Anh ta tìm thấy một khoảnh khắc, cố định được nó, nhưng đánh mất những sinh trưởng của chính cái được cố định. Nhà văn có nhiều phương án cho cuộc đời của các nhân vật, có rất nhiều, nhưng khi viết ra anh ta chỉ chọn một và đánh mất đi sự biến hóa, sự phong phú của các nhân vật ấy, anh ta đánh mất những phương án mà có thể lúc nào đó sẽ là tối ưu chứ không phải phương án đã viết ra. Nhà văn nhận ra mình tìm thấy sự mạch lạc trong mớ hỗn mang, nhưng cũng đồng thời đánh mất một thế giới bát nháo, sống động của những cảm tính”…

Cũng từ điểm nhìn của một nhà văn, Võ Thị Xuân Hà trong tham luận Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đã đề cập đến thực tiễn đời sống sáng tác nói chung của văn chương Việt Nam đương đại, từ vị thế của một người viết, nhà văn đã bàn đến tầm quan trọng của chủ thể sáng tạo. Đồng thời, được viết với quan điểm của một người trong cuộc, tham luậnđãđưa ranhữnggiải pháp và kiến nghị nhằm phát triển tiểu thuyết Việt Nam phù hợp với bối cảnh đất nước và thời đại.

Tham luận Quá trình học hỏi và thu nạp trong việc viết văn của tôicủa nhà văn Nguyễn Danh Lam cũng được viết từ những kinh nghiệm cá nhân, được đúc rút từ đời văn của chính tác giả. Ông chia sẻ, khởi đầu sự nghiệp văn chương của ông là công việc dịch thuật, và chính quá trình dịch thuật ấy đã giúp nhà văn trau dồi thêm được những tinh hoa văn hoá văn chương thế giới, mở rộng tri thức của chính mình. Chính những điều ấy đã hỗ trợ nhà văn rất nhiều trong quá trình cầm bút với tư cách một chủ thể sáng tạo.

Về thơ đổi mới, không thể không nhắc đến bài phát biểu Đổi mới và đổi mới thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Theo nhà thơ, trong thế kỉ XXI – kỉ nguyên kinh tế tri thức, “thơ đóng vai trò tiên phong trong đổi mới văn học”. Ông cũng cho rằng đổi mới thơ là tự thân của sáng tạo thơ ca, và các nhà thơ thế hệ trẻ hôm nay cần phải được đánh giá cao vì sự táo bạo của họ trong việc “đưa đến một tư duy thơ khác hẳn với những con sóng đồng ca triền miên một thời”. Ông cũng cho rằng để khuyến khích những người cầm bút, để thực sự có được một nền văn học năng động không ngừng tự làm mới, đòi hỏi phải có một sự đa chiều về quanđiểm, về thẩm mĩ, và một sự phối hợp hài hòa giữa nhà nước – văn nghệ.

Tuy nhiên, việc đánh giá thực tiễn sáng tác văn học ngay trong dòng chảy không ngừng biến chuyển của nó không hề là một điều dễ dàng. Trong tham thuận Đổi mới như mở cửa, nhà thơ Vũ Quần Phương bày tỏ nỗi lo ngại của chính mình về nền văn học đương đại: “Chúng ta có văn chương và có cả rác rưởi, rác văn chương đang hơi nhiều, rác phá nhà văn, phá độc giả, tấn công ban giám khảo nhưng chưa thấy ai dọn rác”. Đó là nỗi trăn trở đầy trách nhiệm của một người viết, vừa với cái nhìn trong cuộc của một người trực tiếp sáng tác, vừa tự gián cách mình ra để có được sự đánh giá xác đáng và khách quan về thực tiễn văn chương đương đại. Nhà văn Văn Chinh cho rằng: “Tinh thần nửa vời của đổi mới trên tất cả các lĩnh vực khiến cho mọi thứ của chúng ta luôn trung bình, chủ nghĩa bình quân”. Ông cũng nhấn mạnh: Tinh thần đổi mới luôn thường trực trong các nhà văn.

Trên tinh thần đổi mới và từ điểm nhìn thời đại mới, phát biểu tại Hội thảo, PGS. TS.Đào Duy Quát đặt ra những yêu cầu của việc đánh giá văn học Đổi mới, đó là: Quản lý đội ngũ sáng tác, thời gian qua chúng ta đã đào tạo đội ngũ văn nghệ sĩ như thế nào, việc quảng bá văn học ra sao, bao nhiêu tác phẩm đến được với công chúng và văn học Đổi mới đã đóng góp như thế nào vào hình thành phong cách tinh thần con người Việt Nam. Ông cũng nhấn mạnh, phát triển văn học gắn liền với tự do văn hóa, tự do ngôn luận.

Khép lại Hội thảo, tham luận Đổi mới chính là hơi thở của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều một lần nữa nhấn mạnh lẽ tất nhiên của sự đổi mới trong văn học, đồng thời cũng đưa đến một cái nhìn rộng về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa. Theo quan sát của bản thân nhà thơ, trong hiện thực của đời sống thơ ca Việt Nam đương đại có ba nhóm nhà thơ: “Nhóm thứ nhất: yêu văn hoá dân tộc nhưng phần lớn chỉ hiểu văn hoá dân tộc trên bề mặt hình thức chứ không phải là bản chất; Nhóm thứ hai: không có nền tảng văn hoá dân tộc như là “máy cái” hoặc nhìn nhận sai lầm về văn hoá dân tộc; và Nhóm thứ ba: Hiểu đúng bản chất của văn hoá dân tộc và bản chất thời đại và đang từng bước làm ra những sản phẩm mang tính thời đại trên nền tảng văn hoá dân tộc”. Gắn với đổi mới, tác giả tham luận cho rằng những sáng tác của những người viết thuộc nhóm thứ ba là đặc biệt đáng coi trọng, bởi ở những tác phẩm của họ: “vẫn thiên nhiên Việt, vẫn con người Việt, vẫn phong tục Việt, vẫn nhân nghĩa Việt, vẫn xã hội Việt, nhưng được hiện ra trong một ngôn ngữ mới, hình tượng mới, biểu tượng mới,... Họ đã và đang khám phá ra những vẻ đẹp Việt còn ẩn giấu để làm giàu thêm văn hoá dân tộc”.

Tổng kết Hội thảo, PGS. TS Vũ Thanh cho biết: sau một ngày làm việc, Hội thảo đã thành công tốt đẹp; thành công của Hội thảo thể hiện cả trong số lượng tham luận cũng như tính vấn đề đã đặt ra; tinh thần chung của Hội thảo là khẳng định văn học Việt Nam là nền văn học nhân văn, mang tư tư tưởng tiến bộ của thời đại, có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời luôn hướng đến tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm mới chính mình và hội nhập quốc tế. 

 

 

 

         

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578249

Hôm nay

267

Hôm qua

2352

Tuần này

21448

Tháng này

225306

Tháng qua

130677

Tất cả

114578249