Những góc nhìn Văn hoá

Nỗi buồn lịch sử

BUỒN vui là chuyện của muôn đời, nhưng có lẽ, nỗi buồn của hàng triệu triệu người trong nhiều nhiều năm trời về cái sự không đáng lại là chuyện bất công, vô lý: Đó là việc hàng bao nhiêu năm nay, hàng ngàn bài viết cứ than mãi hoài về việc học sinh chán sử nước nhà mà vẫn không thể nào đổi thay, chẳng hề thấy bất kỳ bóng dáng nào của niềm hy vọng nhỏ nhoi... TRÁCH thì có không ít lẽ để bàn nhưng làm thế nào để mai này, bớt buồn đi và cái sự nhiếc móc lẫn nhau ít hơn, lại là điều không mấy dễ dàng. Viết để tìm một “giải pháp” đôi khi chỉ là một cách khác của an ủi và làm dịu hơn những tiếng thở dài...

SỰ PHI THƯỜNG CỦA LỊCH SỬ DÂN TỘC

Trong hơn 5.000 năm có lẻ của lịch sử loài người từ khi có chữ viết, với nhiều ngàn dân tộc, hàng ngàn nhà nước, qua biết bao tai ương, thử thách – cho đến nay chỉ còn lại 193 quốc gia, tính theo số thành viên hiện có trong Liên Hợp Quốc. Như thế để thấy rằng, vượt qua được những hiểm họa ngặt nghèo để ngày nay có quyền là một trong 193 ấy chẳng hề dễ chút nào.
Sâu và cận cảnh thêm một chút, sẽ thấy hầu như chẳng có dân tộc hay quốc gia nào như Việt Nam: Thời gian, công sức giữ nước nhiều hơn cả những tháng ngày chỉ chăm lo dựng nước, xây nước.
Làm sao có thể tình thấy một mẫu hình tương tự trong truyền thuyết của loài người: Thành Gióng phải đánh giặc khi mới tròn 3 tuổi? Ông cha xưa thật thâm thúy và tinh tế khi hàm ý, ngầm định rằng, dân tộc VN vừa MỞ Nước đã phải đương đầu ngay với họa ngoại xâm!
Cũng không thể tìm thấy bất kỳ đâu một dân tộc phải chịu ánh thống trị suốt 1.117 năm (tính từ khi Triệu Đà thôn tính Giao Chỉ, 179 B.C. đến năm 938, với sự kiện Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, lập nên nước Đại Việt tự chủ, tự cường), nhưng không thể bị đồng hóa – không biến mất trên bản đồ thế giới. Chỉ cần nhìn vào “bức tranh” chẳng hề xa xôi lắm: Dân tộc Mãn Châu với hàng triệu người, từng thống trị người Hán suốt gần 300 năm (1644-12.2.1912) với triều đại Mãn Thanh, nhưng giờ đây chỉ còn chưa đến 1.000 người nói tiếng Mãn, mới thấy được cái “khả năng” đồng hóa của văn hóa Hán – buộc dân tộc khác phải tự Hán hóa, khủng khiếp đến mức nào!
Nhìn lên bản đồ, chỉ xét về địa – chiến lược (Geo-strategy), sẽ thấy hình thể của láng giềng phương Bắc như một tảng đá khổng lồ với điểm giữa của “tảng đá” đó đè lên phần cao nhất của đất nước hình chữ S. Chính vì thế, sau mỗi lần đánh bại kẻ thù, ông cha ta lại phải tiếp tục “gồng” mình lên để sao cho chiến tranh “rửa hận” của kẻ thua trận không xảy ra – hoặc giả, nhún nhường chịu đựng để cái nền thắc thỏm của hòa bình, yên ổn ấy, càng lâu càng tốt sao cho nội lực có đủ thời gian để phục hồi, sự chịu đựng có đủ cơ hội để tiếp tục thích nghi để đương đầu với thử thách mới mà, ai cũng hiểu, chẳng chóng thì chầy, lại đến, như là định mệnh...
Giặc phong kiến phương Bắc còn đó lại thêm giặc từ phương Tây, giặc của “xun đột hệ tư tưởng” chiến tranh lạnh...
Thế nhưng, giống cách nói của truyền thuyết, dường như Đấng Tạo Hóa càng yêu quý người Việt thì càng muốn thử thách bản lĩnh dân tộc bằng những tai ương. Dân tộc Việt Nam đã trở thành dân tộc thuộc địa đầu tiên đánh bại một đế quốc phương Tây bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lẫy lừng. Tiếp đó, lại một lần nữa, đánh bại cường quốc số một thế giới – Hoa Kỳ (dĩ nhiên, cách thắng – thua cũng còn lắm chuyện phải bàn), cho đến nay và, nhiều năm nữa, vẫn chỉ chịu thất bại một lần, duy nhất, ở Việt Nam!...
Trong khuôn khổ một bài viết không thể nói nhiều hơn về những nhọc nhằn, đau đớn, mất mát, chịu đựng, hy sinh mà các thế hệ cha ông đã VIẾT bằng máu của mình thành lịch sử. Nhưng chừng đó có thể là đã đủ để nhấn mạnh rằng lịch sử dân tộc Việt Nam thật đáng tự hào; vậy, tại sao lớp trẻ lại thờ ơ – nếu không muốn dùng các từ như chán, không thích?...

NHỮNG CÁI SAI CỦA "NGƯỜI LỚN"

Năm 1981-1982, tôi được vinh dự tham gia viết Lịch sử xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Nói là “tham gia” nhưng thực chất tôi viết từ đầu đến gần... hết cuốn sử dày trên 200 trang, cố TS Lê Đình Phúc chỉ viết 15 trang.
Chỉ đến khi đó, tôi mới biết rằng không phải chỉ có Nghệ Tĩnh quê hương tôi là anh hùng mà hình như(!) người Quảng Nam còn anh hùng, dũng cảm hơn. Bằng chứng rõ nhất là sau nhiều chuyến đi điền dã, tôi tự thấm rằng, Điện Bàn là một trong hai huyện (cùng với Củ Chi) có nhiều liệt sĩ nhất trong cả nước; Điện Thắng là quê hương của anh hùng – liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi – thần tượng của biết bao thế hệ trẻ trai; Mẹ Thứ là người phụ nữ vĩ đại nhất (theo cách đánh giá của riêng tôi) trong thời chống Mỹ...
Ngoài chuyện anh dũng trong chiến tranh, người Quảng Nam còn ý vị và sắc sâu vô cùng về văn hóa. Chẳng hạn, có một câu đố: “Ôm cục thịt nạc/ Đút vô cục thịt lỗ/ Tay thì bợ cổ/ Tay lại vỗ trôn/ Lỗ mũi hụm tròn/ Sướng ơi là sướng!”/ Đố là cái gì?
Bạn hãy khoan vội phát huy trí tưởng bở mà nghĩ lung tung. Đó là người ta nói chuyện lấy đũa tre đâm thủng trái dừa rồi ôm quả dừa bằng cả hai tay mà thưởng thức đó…
Trở lại chuyện chiến tranh.
Thử hình dung là chỉ một xã Điện Thắng thôi mà đã sinh ra đến hai biểu tượng kỳ vĩ trong số không nhiều những tên tuổi lớn nhất của thời đại!
Thế nhưng, điều đáng ngạc nhiên là cả học sinh lẫn các thầy cô giáo (mà tôi đã tiếp xúc trong những năm đó) đều dường như không quan tâm lắm đến các nhân vật anh hùng cũng như lịch sử?
Cái đầu óc dẫu khờ dại của một thầy giáo mới 25 tuổi nhưng cũng đủ cho tôi cảm nhận lờ mờ rằng, lỗi đầu tiên thuộc về những người viết sử trong SGK, sau đó là người dạy sử, hệ thống truyền thông...
Hãy thử điểm qua vài nét chính về các lỗi lầm.
1. SGK lịch sử từ lớp 4 đến 12 hiện nay trình bày lịch sử không giống như những gì đã diễn ra mà giống với lịch sử chính trị - nghĩa là chỉ ca ngợi một chiều mà không thấy, không chịu nhận ra rằng lịch sử vĩ đại, đáng nhớ là bởi nó luôn có những sai lầm, những nỗi đau. Chẳng một ai chấp nhận nổi cái sự “thật” ta thắng, không sai, không thua suốt 30 năm chiến tranh với Pháp, Mỹ.
2. “Người ta” không chịu hiểu rằng, trong lịch sử, không phải càng nhiều con số địch chết, địch mất là tốt mà phải là những con số điển hình mang đủ “trọng trách” gánh vác ý nghĩa của sự kiện. Việc bắt học sinh tụng niệm các con số khô khan chỉ là sự đày ải trí nhớ phi sáng tạo, gián tiếp gieo rắc ảo ảnh của cách tìm đến với lối mòn nhàm chán, tẻ ngắt.
3. Bắt học sinh nhai đi, lặp lại bao nhiêu con số nhưng đến khi thi (như đề thi THPT 2015 vừa qua), đáp án chẳng cần bất kỳ số liệu nào là can cớ làm sao? Dạy một đằng, học một nẻo rồi thi theo cách vô lý như thế thì làm sao bảo lớp trẻ YÊU cho được “người tình” lịch sử quay quắt, khó lường?
4. SGK chỉ trình bày lịch sử chiến tranh – cách mạng mà QUÊN mất rằng lịch sử văn hóa – mới là phần chính, cái NÔI để hình thành nhân cách, tình cảm của con người. Những số liệu ta thắng địch thua, ta tài địch kém chỉ là sự ảo tưởng nông cạn của tri thức: Tính một chiều của lịch sử luôn đồng nghĩa với điều không thật – không phải như thế. Sao có thể yêu và tin vào cái có vẻ là thật?
5. Môn học luôn bị coi thường trong cái thang bậc mà sự mặc định hóa của “cuộc đời” luôn cho rằng giả dối là sống thoát, tiền là trên hết đã đẩy thế hệ trẻ vào những toan tính thực bởi lịch sử là quá khứ nên luôn ảo, quá xa với đời thực, nên ít cần – thậm chí, khỏi cần!

GIẢI PHÁP Ở ĐÂU?

Viết lại, viết đúng toàn bộ SGK là yêu cầu bắt buộc. Hãy thử đọc một cuốn sử của người Mỹ hay học giả phương Tây thì sẽ thấy vì sao sử ta ít ai thích đọc: Sử của người ta sống động, gay cấn, phức tạp như chính cuộc đời, còn sử ta thì nhàm nản, khô cứng, đơn điệu biết chừng nào.
Hãy mạnh dạn thay đổi ngay từ mục đích viết sử: Chúng ta muốn thổi hồn dân tộc vào trái tim những đứa trẻ hay muốn chính trị hóa, đóng cái khung vô hình về nhận thức để cho lũ trẻ chỉ nghe Đảng nói, tin Đảng, cho dẫu “cuộc đời đâu biết thế” (Trịnh Công Sơn)?
Phải mạnh dạn thừa nhận rằng các nhà nước Văn Lang, Âu Lạc chỉ là những nhà nước sơ khai vì CHƯA tìm thấy chữ viết thì không thể có luật pháp. Nếu ngay từ đầu mà học sinh tiếp xúc với những điều nói dzậy mà không phải vậy thì chẳng khác gì làm cho lũ trẻ chán ngay: Mở đầu lịch sử có vẻ không đúng thì làm sao tin những chương sử sách sau này là thật?
Những “bài học” sai thì dứt khoát phải bỏ. Ví dụ, GS Phan Huy Lê đã thừa nhận Lê Văn Tám là không thật sao vẫn còn đó sự ngợi ca? Tại sao vẫn cứ say sưa kể chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh trong khi biết chắc chắn rằng đề thi của vua ra chẳng khác gì thi công chức thời nay? “Voi chín ngà”... lấy đâu ra dưới biển? Nếu đề thi là “mực chín ngà, ba ba chín cựa, cá ngựa chín hồng mao” thì ai là người thắng?...
Tại sao không mạnh dạn coi môn sử là môn bắt buộc – chính trong các chương trình để học sinh tôn trọng ngay từ trong vô thức? Tại sao không làm MỀM lịch sử, uyển chuyển hóa nó thành những bài học nhẹ nhàng – kết cấu phức hợp với văn hóa – văn học để dễ đi vào lòng người? Lịch sử - Văn hóa là môn học để hun đức tinh thần yêu nước, tình cảm uống nước nhớ nguồn, cái nôi về văn hóa mà “suốt đời” – cả xã hội chỉ nghĩ là học cho vui thì không chán mới là chuyện lạ...

Năm nay, thi THPT – ĐH có một chuyện cười ra nước mắt: Cả Hội đồng thi chỉ duy nhất một thí sinh đăng ký thi môn sử! Một phần mấy ngàn thế hệ trẻ coi lịch sử là điều đáng quên, cũng đồng nghĩa rằng nguồn cội, giống nòi, dựng nước, giữ nước..., chẳng có chút giá trị gì so với nhu cầu mà cuộc đời này đòi, xã hội này… muốn? 
Một nhà hiền triết có nói rằng một trong những điều làm cho người khác con vật là ý thức về cội nguồn, truyền thống, quá khứ của giống nòi, tiên tổ... Có lẽ là ông ấy đã sai?...

Huế, 27.7.2015.

  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578325

Hôm nay

2143

Hôm qua

2352

Tuần này

21524

Tháng này

225382

Tháng qua

130677

Tất cả

114578325