Những góc nhìn Văn hoá

Minh quyên và ...(với bài báo của ông Nguyễn Khắc Bảo) [I]

Lời dẫn:Những gì muốn trao đổi trực tiếp và chi tiết với ông Nguyễn Khắc Bảo về bài báo ông trao đổi lại với tôi trên Văn hóa Nghệ An số 84 (10/9/2006) tôi sẽ dành ở phần cuối bài viết này của tôi. Tôi quan niệm rằng viết báo là để phục vụ bạn đọc bởi vậy tôi sẽ trình bày từng vấn đề một đặng giới thiệu trước công chúng một số vấn đề về trước tác của Nguyễn Hành, một trong An Nam ngũ tuyệt cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Còn ông Nguyễn Khắc Bảo là người thế nào về trình độ, tư cách, nhân cách thì bạn đọc sẽ hiểu qua sự so sánh các bài viết trong cuộc trao đổi này. Trong quá trình viết, tiện đâu tôi sẽ nhắc lại ý kiến ở bài báo trước để độc giả tiện theo dõi. Chỉ biết rằng mọi trích dẫn của tôi trong bài báo này hoàn toàn chính xác và có phương pháp khoa học. Những gì tôi nói đến nhưng chưa trích dẫn trực tiếp những tác giả trước là hoàn toàn có sở cứ. Mời bạn đọc phán quyết. Bài viết của tôi có thể sẽ in liên tiếp các kỳ khác nhau.

1.     Người thơ phong vận như thơ vậy.

Chúng ta hãy bắt đầu từ câu chuyện văn bản. Đối với thơ ca trung đại, mọi chuyện đều bắt đầu từ văn bản Hán-Nôm, không thể khác đi được. Thấy việc ông Nguyễn Khắc Bảo trao đổi rất oai với nhà thơ Vương Trọng mà xem ra cái bắt đầu đó ông chưa từng mó được tới nên tôi cần phải tìm đến văn bản xem sao. Chúng ta biết rằng, với mọi ý kiến trao đổi về Nguyễn Hành của mình từ trước đến nay ông Nguyễn Khắc Bảo chứng tỏ chưa quan tâm đến một văn bản chữ Hán nào khác, điều này ông thú nhận trong bài báo trao đổi với nhà thơ Vương Trọng và cả trong bài báo trao đổi lại với tôi. Còn đối với chúng tôi, với tư cách là một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, câu chuyện văn bản phải là hàng đầu. Sau khi đã lượng định các khả năng tồn tại của Minh quyên thi tập trên địa bàn Hà Nội, phân tích so sánh sự khó dễ của việc tìm kiếm cũng như tính khả tín của tư liệu Hán-Nôm, tôi đã quyết định con đường ngắn nhất, nhanh nhất và tin cậy nhất là tìm đến Viện nghiên cứu Hán-Nôm theo chỉ dẫn của các loại sách thư mục. Đây là con đường nhà nghiên cứu nào cũng sẽ đi qua nếu muốn tìm đến cội nguồn của vấn đề. Đối với nhà nghiên cứu, họ không bao giờ yên tâm với các bản phiên âm dịch nghĩa của bất cứ một người nào dẫu đó là nhà nghiên cứu có uy tín trong giới Hán học. (Ông Nguyễn Khắc Bảo không có được tư cách này). Tôi thừa biết rằng, trước năm 1945 trong kho tư liệu Viễn Đông bác cổ chưa từng tồn tại sưu tập thơ văn Nguyễn Hành. Tên tuổi Nguyễn Hành đã từng được nhắc đến khi người ta nói đến gia phả họ Nguyễn Tiên Điền nhưng thơ văn của ông thì tuyệt đối không được trích dẫn. Các tạp chí có uy tín thời đó như Đông dương tạp chí, Nam phong tạp chí, Tri tân tạp chí cũng như các chuyên luận của các nhà khảo chứng có uy tín như cụ Nguyễn Văn Tố, GS Đào Duy Anh, GS Hoàng Xuân Hãn, cụ Bùi Kỷ, cụ Lê Thước,… tuyệt không trích câu nào thơ văn Nguyễn Hành. Tại sao vậy?. Chỉ có thể giải thích là thơ văn của cụ chưa sưu tầm được. Nếu ai tìm được một bài báo nào có dịch thơ Nguyễn Hành thì đó là tư liệu cực quý cho giới nghiên cứu trường quy chúng tôi để chúng tôi khỏi sai lầm khi trình bày lịch sử văn bản Nguyễn Hành trước sinh viên. Trước năm 1958, một sự kiện hi hữu xảy ra: Tủ sách nhà họ Cao Xuân (Diễn Châu, Nghệ An) được nhập kho và trở thành tài sản quốc gia. Tủ sách này theo đánh giá của GS Trương Chính là một bộ sách quý. Không quý sao được khi số thơ chữ Hán Nguyễn Du có được như ngày nay chúng ta còn chiêm ngưỡng chủ yếu xuất tự tủ sách này. Và cũng từ đây, theo chúng tôi được biết, Minh quyên thi tập của Nguyễn Hành lần đầu tiên được sưu tầm và lưu trữ. Cũng trong năm 1958, Minh quyên thi tập được cụ Hồ Trai Phạm Khắc Khoan, quê Đức Thọ, Hà Tĩnh sao chép. Cuốn sao chép này có kí hiệu VHv 109 chính là cuốn chúng tôi đã lựa chọn để giới thiệu và khảo sát. Lí do chọn giới thiệu là, trước hết, trình độ của cụ Phạm Khắc Khoan thì giới nghiên cứu văn học trung đại đều biết qua hàng loạt bài dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du đã in và được nhiều giáo trình sử dụng. Các bản dịch của cụ đều đạt chất lượng cao và đúng đẹp. Ở đó, nếu dịch chung, tên cụ thường đứng trước cả tên cụ Lê Thước, cụ Ngô Văn Can. Được xem bút tích cụ thì cũng đã đáng giá ngàn vàng. Chụp và giữ lại bút tích đó cũng bằng trong nhà có vật quý. Tôi đến Viện Nghiên cứu Hán Nôm chụp để giữ và nghiên cứu chứ tôi không sưu tầm. (Ông Nguyễn Khắc Bảo mấy lần nói rằng tôi sưu tầm được, tôi có trong tay một văn bản, có được một văn bản, văn bản của mình … là nói sai, nhằm mục đích đơn lẻ hóa, cá thể hóa văn bản đó, đánh lừa người đọc nhằm hạ bệ giá trị văn bản. Đây là một mẹo vặt trong tranh luận, tìm cách đánh lộn sòng khái niệm văn bản như ông đã từng gọi tên vài quyển Kiều vô giá trị của ông theo kiểu bản này bản nọ như các nhà nghiên cứu định danh các văn bản có giá trị).

Đến bây giờ, có thể nói tài liệu đầu tiên giới thiệu Nguyễn Hành với thơ của ông là cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam quyển III (thế kỉ thứ XVIII) do Văn Tân - Nguyễn Hồng Phong - Nguyễn Đổng Chi làm, in lần I, nộp lưu chiểu tháng 2 năm 1959 (từ đây có thể gọi tắt là Sơ thảo). Trong cuốn này các tác giả dành cho Nguyễn Hành một mục riêng hai trang, giới thiệu vắn tắt tiểu sử ông cũng như tên các tác phẩm gồm có: Quan hải thi tập, Minh quyên thi phả (hoặc thi tập), Thiên địa nhân vật sự thi. Sách cũng trích 5 đoạn thơ của Nguyễn Hành để bình luận (trang 291-292). Cũng trong năm 1959 khi làm Hợp tuyển Văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - giữa thế kỉ XIX (từ đây có thể gọi tắt là Hợp tuyển)các cụ Huỳnh Lý, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Văn Phú, Lê Thước, Hoàng Hữu Yên với sự cộng tác của các cụ Phạm Hữu Chính, Nguyễn Khắc Hanh, Lê Tư Thực, Phan Võ đã giới thiệu Nguyễn Hành thành một tác giả riêng, trích dịch 12 bài thơ kèm theo phần đầu giới thiệu ngắn gọn thân thế sự nghiệp. Trong đó viết rõ: Ông có để lại hai tập thơ Quan hải thi tập hay Quan Đông hải Minh quyên phả với một quyển sách nhan đề là Thiên địa nhân vật (quyển này hiện chưa tìm thấy). Quyển Hợp tuyển này nộp lưu chiểu tháng 3 năm 1959. Vậy có thể cho rằng hai quyển trên các cụ tiến hành cùng một lúc, thời gian so le tính bằng một tháng. Cũng trong năm 1959 nhóm các cụ Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh giới thiệu và dịch tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành. Tài liệu các cụ sử dụng là bộ sách của tủ sách họ Cao Xuân. Có nghĩa là các cụ có trong tay văn bản được gọi là Minh quyên thi tập của Nguyễn Hành. Vấn đề tại sao các cụ gọi Minh quyên thi tập là “tập thơ” Minh quyên phả ta sẽ bàn sau. Cũng trong lời giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du này, các cụ lần đầu tiên trích ý bốn câu thơ đầu trong bài Văn thúc phụ lễ bộ hữu tham tri phó âm cảm tác (tên này tôi dùng theo bản chép Phạm Khắc Khoan mà tôi cho là đúng). Tuy nhiên các cụ đã hiểu sai hoàn toàn ý thơ bốn câu này, thành thử đến năm 1962, cụ Trương Chính, lúc đó mới 44 tuổi, thua tuổi các cụ nhiều đã phải đính chính một cách thẳng thắn. Cũng lạ là, nhóm làm Thơ chữ Hán Nguyễn Du nằm lọt thỏm trong nhóm làm Hợp tuyển thế mà dịch một đằng, chuyển ý một nẻo. Chuyện tranh luận về bài thơ này bắt đầu từ đó vậy. Năm 1978, khi in lại lần thứ II cuốn Hợp tuyển (có thêm tác giả Đặng Thanh Lê), thơ Nguyễn Hành được giới thiệu thêm hai bài mới và bỏ đi một bài cũ, nên tổng số là 13 bài. Năm 2000, Tổng tập văn học Việt Nam tập XIV (từ đây có thể gọi tắt là Tổng tập) do GS Đặng Đức Siêu sưu tầm và biên soạn ta thấy thơ cụ được phiên dịch nhiều hơn với 73 bài kèm theo việc dịch một lời dẫn xuất tự Minh quyên phả dẫn trong bản chép VHv 109 mà tôi đã giới thiệu.  Rõ ràng, như lời giới thiệu, GS Đặng Đức Siêu có tham khảo những bản của Hợp tuyển, đồng thời đọc các văn bản cụ phiên dịch ta thấy rõ là tài liệu chính cụ sử dụng chính là văn bản VHv 109 đó.

Một điều cũng nói ở đây là, khi chép văn bản thơ Nguyễn Hành (1958), khi làm Sơ thảoHợp tuyển (1959) các cụ không mô tả văn bản cũng như địa chỉ văn bản các cụ sử dụng. Thành thử chúng ta hiện nay lại bỏ công lặn lội tìm tòi. Cái sự này thì các cụ trước năm 1945 cẩn trọng hơn nhiều. Tại sao vậy nhỉ, theo tôi có hai lí do: thứ nhất, tư tưởng tập thể hóa lúc đó thấm sâu vào cung cách làm việc, tài sản của nhân dân nghĩa là không của riêng ai. Cứ xem như việc tái bản Hợp tuyển vào năm 1978 mới có lời xin lỗi và đưa thêm được một số tên tác giả dịch thơ vào thì biết. Cái thời mà Ngày mai tất cả sẽ là chung. Tất cả sẽ là vui.Và ánh sáng (Tố Hữu) ấy thật là đẹp, các cụ trong giới Hán học còn lại sống với nhau còn đẹp hơn (như các thầy tôi dạy). Tuy nhiên, cái đẹp của lý tưởng chung đôi lúc đã làm mờ đi cái cụ thể của khoa học mà giờ đây khiến ta phải lặn lội kiếm tìm để sửa chữa bổ khuyết. Đó mới là điều đáng mừng và là điều chính thế hệ đó mong đợi, các thế hệ sau cũng mong đợi. Thứ hai, có thể lúc các cụ làm và chép, số thơ văn Nguyễn Du, Nguyễn Hành trên chưa lên xong kí hiệu lưu trữ vì mới được nhập. Sự lên kí hiệu này thường kéo dài. Tỉ như Viện nghiên cứu Hán-Nôm hiện nay có nhiều ngàn cuốn sách vẫn chưa có kí hiệu. Còn phải sửa sang, tu bồi, vệ sinh lâu lắm mới vào mã được. Cuốn sách chưa có mã số cũng như trẻ vị thành niên chưa có chứng minh thư nhân dân, biết giới thiệu ra sao cho lọn.

Những văn bản sau này nếu có về thơ Nguyễn Hành chủ yếu trích từ hai lần Hợp tuyển và một lần Tổng tập. Tôi chưa thấy ai tự giới thiệu là mình làm việc trên văn bản chữ Hán. (Ông Nguyễn Khắc Bảo lại càng như vậy khi ông hoàn toàn không biết gì về nghiên cứu văn học trung đại cũng như khả năng xử lí văn bản Hán-Nôm. Điều này sẽ lộ ra trên từng trang viết của ông trong bài ông trao đổi với tôi và tôi sẽ có dịp nhắc đến trong phần sau của bài viết này).

Người thơ phong vận như thơ vậy. Cụ Nguyễn Hành khi xưa trung với nhà Lê đến “gàn rỡ”, sống lang bạt và túng kiết. Thơ cụ cũng long đong lận đận, còn sót được lại là thật may mắn, chưa phải chịu cái cảnh lụy phần dư như bao nhà thơ khác kể cả sau này. Sự tồn tại thật là hi hữu. Thơ cụ riêng tư và cô độc, biết được có mấy người cảm thông mà ghi chép lại ngoài con cháu trong nhà cũng đang rất túng bấn. Chưa kể với tinh thần phê phán và phủ định thực tại Triều Nguyễn mà ta gặp thấp thoáng trong tập thơ thì việc lưu trữ thơ cụ trong nhà cầm bằng giữ một mầm họa văn tự. Cụ không giàu có, không làm quan thì lấy đâu tiền mà in. Trong khi truyện Kiều với bao nhiêu lần in, có hàng vạn bản lưu hành tại thế mà việc sưu tầm còn khó khăn nhường vậy. Với những người tàng trữ cổ thư, ai cũng biết rằng cái sự quý bao giờ cũng đi kèm cái sự hiếm. Liệu có quá vài ba bản chăng còn chép thơ văn Nguyễn Hành! Lấy cái chuyện văn bản truyện Kiều ra mà so sánh với văn bản chép văn thơ chữ Hán Nguyễn Hành (như ông Nguyễn Khắc Bảo nói bừa trong bài viết) thì so sao được mà so. Ta cứ nghĩ tủ sách họ Cao Xuân nếu một lần mất đi trong binh lửa thì liệu ta biết thơ chữ Hán Nguyễn Du được bao nhiêu. Chỉ riêng điều này thôi thì nhà thờ dòng họ này đã đáng được vinh danh vì họ giữ lại và hiến cho Nhà nước những viên ngọc đáng giá hơn nhiều lần ngọc để có một diện mạo thơ chữ Hán Nguyễn Du tạm đầy đủ như hôm nay ta thấy. Tôi lựa chọn văn bản Nguyễn Hành (bản VHv 109) để giới thiệu và phân tích ở bài báo trước là nằm trong phạm vi hiểu biết và đánh giá văn bản như đã trình bày ở trên. Quá trình theo dõi văn bản học mách cho tôi rằng không ai có thể cả quyết rằng một văn bản là đủ đại diện cho các văn bản khác dưới gầm trời này. Trong bài báo trên của mình, tôi dùng một văn bản khả tin, có sớm, được chép bởi một bậc lão nho, được lưu trữ tại một cơ quan hàng đầu có trách nhiệm về văn bản Hán-Nôm để phản bác ý kiến của ông Nguyễn Khắc Bảo mà rõ ràng là ông đạo thính đồ thuyết (nghe trộm nói leo) người khác mà chưa hẳn đã đúng đắn. Điều đáng lẽ ra là ông sử dụng văn bản chữ Hán khác để phản bác lại tôi thì ông lại mượn chính uy tín của những người mà tôi muốn sửa chữa cho họ để vu vạ tôi thì làm sao mà đi đến chân lí được. Tôi mong ý kiến của các bậc thức giả. Còn ý kiến của ông Nguyễn Khắc Bảo tôi không thèm chấp vì ông chả biết gì về chuyện này.

Tóm lại qua những điều trình bày như trên, có thể rút ra những ghi nhận ban đầu như sau:

- Có sự trùng hợp về mặt thời gian giữa việc Minh quyên thi tập của Nguyễn Hành từ tủ sách họ Cao Xuân hiến cho Nhà nước với việc cụ Phạm Khắc Khoan chép văn bản VHv 109 và với việc nhóm các cụ viết Sơ thảo, làm Hợp tuyểnThơ chữ Hán Nguyễn Du.

- Rõ ràng là nhóm các cụ làm Hợp tuyển Thơ chữ Hán Nguyễn Du sử dụng nguồn tài liệu từ tập sách họ Cao Xuân để lại. Trong lúc đó cụ Phạm Khắc Khoan không cho ta biết cụ sao chép từ nguồn nào.

- Công việc sẽ đơn giản nếu tài liệu họ Cao Xuân hãy còn, ta có thể đem so sánh với bản VHv 109. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay chúng tôi biết, nếu còn, cũng phải hơn sáu tháng nữa mới có thể mượn sách khỏi kho để nghiên cứu.

- Tuy nhiên tất cả những điều đó đều nói lên rằng, nếu có hai đến ba tư liệu thơ Nguyễn Hành chép tay đi nữa thì tất cả tư liệu đó đều cực kì quý hiếm, không thể có một thái độ bất kính trước nó.

2.     Minh Quyên phảMinh quyên thi tập: chính danh định phận.

Về tập thơ này của Nguyễn Hành, có nhiều người chủ trương những tên gọi khác nhau. Tôi gọi một cách nhất quán là Minh quyên thi tập. Ông Nguyễn Khắc Bảo đưa dẫn chứng từ Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (bản in lần hai có bổ sung và sửa chữa-1978) của “10 giáo sư biên soạn” có tên là Minh quyên phả để cho rằng bản chép của cụ Hồ Trai Phạm Khắc Khoan chép lại “có nhiều sai lệch với văn bản mà các vị tiền bối đã dùng” dù ông không chứng minh được các cụ đã dùng bản nào. Công việc của ông giống như người thợ vụng đo bóng để may áo vậy: dựa vào bản phiên để ức đoán bản chữ Hán trong khi các cụ chẳng hề mô tả cũng như nêu xuất xứ. Đó là chuyện  ngược đời, bất đắc dĩ mới phải làm, mà người làm phải là một người lão luyện may ra mới đưa ra giả thuyết công tác được. Tôi hiểu chuyện này như sau:

Kể bắt đầu từ 1958, tập thơ này được gọi bằng các tên:

- 1958: bản chữ Hán do cụ Phạm Khắc Khoan chép (VHv 109, bản mà tôi dùng và giới thiệu) tên là Minh quyên thi tập. Ba chữ Minh quyên phả xuất hiện trong bài dẫn không chỉ là trỏ tên tập thơ (ta sẽ bàn sau đây).

- 1959: Các giáo sư Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam gọi là Minh quyên thi phả (hoặc thi tập): các cụ nếu chủ trương có chữ phả thì phải có chữ thi, đồng thời còn có tênMinh quyên thi tập.

- 1959: Các tác giả Hợp tuyển ngay từ bản in lần 1 đã gọi nó là tập thơ Minh quyên phả.

- 1962: Giáo sư Trương Chính trongNghiên cứu văn học dứt khoát gọi tên nó là Minh quyên thi tập.

- 1962: Giáo sư Hoàng Hữu Yên và giáo sư Nguyễn Lộc trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII gọi đó là Minh quyên thi tập.

- 1969, thư mục Viện Hán Nôm (bản in ronéo) dứt khoát gọi tên tra cứu là Minh quyên thi tập.

- 2000: Giáo sư Đặng Đức Siêu trong Tổng tập gọi tên tập thơMinh quyên phả.

- Các từ điển văn học có nhắc đến Nguyễn Hành nhất quán gọi tên nó là Minh quyên thi tập.

 Đối với người làm khoa học, số nhiều cũng chỉ là một tham số thôi. Tôi trích dẫn những tài liệu cơ bản nhất nhưng sẽ không dùng nó cho nhận định của mình, ở đây, tôi chưa cần đến tiếng nói của định lượng. Nhiều khi số nhiều chưa chắc đã là chân lí. Tuy nhiên nó sẽ gợi ý cho ta những lối suy nghĩ.

Tôi cho rằng tên gọi tập thơMinh quyên phả là chưa chính xác. Chữ phả không thường dùng để tác giả đặt tên tập thơ, mà thường dùng để đặt tên các tập ghi chép tự sự hoặc đó chỉ ra là tập sách ghi chép nhiều loại  khác nhau theo một trật tự nào đó. Có một sự nhầm lẫn quan trọng ở đây bắt đầu từ Hợp tuyển 1959 của các tác giả và theo đó Tổng tập văn học Việt Nam  cụ Đặng Đức Siêu gọi theo. Sự nhầm lẫn này chắc chắn là bắt đầu từ bài dẫn sách do Nguyễn Hành viết mà bản VHv 109 chép lại ngay đầu tập. Bài dẫn có tên là Minh quyên phả dẫn ( Nghĩa là: Lời dẫn cho tập sách có tên gọi là Minh quyên). Đây là một bài dẫn có giá trị về văn chương cả nội dung cũng như nghệ  thuật, ít người được chiêm ngưỡng nó để hiểu thêm tâm sự của Nguyễn Hành, vả lại, nó liên quan đến tên sách nên tôi phiên âm đầy đủ và dịch nó để phục vụ bạn đọc. Bài này cũng đã từng được giáo sư Đặng Đức Siêu dịch trong Tổng tập nhưng do tiên thiên đã quan niệm tên tập thơ là Minh quyên phả nên ông dịch vu khoát, nhiều chỗ dịch chưa sát đúng.

Minh quyên phả dẫn

Điểu chi khổ minh giả, mạc đỗ quyên nhược dã. Đỗ quyên nam phương chi điểu dã, dĩ hạ nguyệt minh, trú dạ bất chỉ. Kì minh tất hướng bắc, kì cảm nhược viết: “Bất như qui khứ”. Thị phả ngẫu nhiên loại chi, cố dĩ vi danh.

Tích giả, Trang Chu mộng vi hồ điệp, vô quái hồ dư chi minh vi đỗ quyên dã. Phù minh điểu khả dĩ dã. Hữu đạo chi triều, quần hiền hòa tập, kì phụng hoàng minh chi ung ung giả hồ! Ai loạn chi thế, hạ dân li oán, kì hồng nhạn minh chi ngao ngao hồ. Cố sở cảm chi cơ bất đồng, tắc sở minh chi cảm diệc dị, nhi chí ư đỗ quyên chi minh, minh hà khổ hĩ! Dư hựu hà khổ, nhi vi đỗ quyên minh? Bỉ hạc minh vu Cửu Cao, tác cảm văn vu thiên hĩ. Hạc minh tại âm, tắc kì tử họa chi hĩ. Nhược minh chi vi đỗ quyên dã, kì thục văn chi, nhi thục họa chi da! Ức đỗ quyên chi minh dã, tiên văn kì cảm giả, chủ li biệt; học kì cảm giả, chủ ẩu huyết. Y nhược thị kì thậm dã. Dư chi minh ninh hữu thị da! Đỗ quyên chi khổ minh dã, cực tắc đảo huyền vu thụ nhi dĩ hĩ. Dư chi dĩ văn tự minh dã. Chí thị phả nãi khổ cực hĩ. Thứ cơ hồ khả dĩ dĩ hồ. Kì tương hữu biệt cảm, khả văn nhi khả họa giả, dĩ kế phả minh nhi nhi minh dã, dư tắc dĩ kì minh, thính chư thiên.

Long tập Kỉ Mão Thanh minh hậu nhị nhật Nhật Nam Nguyễn Hành Nam Phủ Bắc thành Đồng Xuân chi ngụ.

Lời dẫn cho Minh quyên phả

Loài chim kêu nghe đến đắng ruột thắt lòng, không gì bằng đỗ quyên. Đỗ quyên là loài chim phương Nam, vào hè thì kêu, đêm ngày không nghỉ. Khi kêu tất hướng về Bắc, bằng quá như nói “Bất như qui khứ” (chẳng bằng về đi). Sách này (thị phả) ngẫu nhiên mà giống thế, do đó mà đặt thành tên.

 Ngày xưa Trang Chu còn mơ thành bướm, thì tôi kêu như đỗ quyên chắc cũng chả lạ gì. Đến như tiếng chim kêu cũng có nguyên do của nó. Triều chính có đạo, quần hiền quy tụ hòa hợp, thì chim phượng hoàng kêu thánh thót. Thời buổi loạn li, hạ dân li oán thì chim hồng chim nhạn kêu ngao ngao. Do đó, cảm cái thời thế không giống nhau, tiếng kêu của loài chim tất cũng khác. Mà đến như đỗ quyên kêu, kêu sao thắt lòng đắng ruột vậy ? Ta cay đắng lắm sao mà làm con đỗ quyên kêu?

Chim hạc kêu nơi đầm vắng, tiếng kêu nghe thấu trời. Chim hạc kêu trong bóng mát, có con nó hòa theo. Bằng như tiếng kêu của đỗ quyên, thì có ai dám nghe vậy?, ai dám hòa theo vậy? Phải chăng là vì tiếng kêu của đỗ quyên , khi mới nghe thì thấy biệt lìa, học theo nó thì thấy như khạc ra máu. Thật là qúa lắm vậy. Tôi kêu lên cũng như vậy chăng?! Cái đắng ruột của đỗ quyên là ở tiếng kêu của nó, kêu đến cùng thì treo ngược trên cành cây mà chết. Tôi dùng chữ nghĩa mà kêu đấy. Đến sách này cũng là cực cùng khổ đau như thế. Theo đó vậy rồi thành đó vậy. Rồi đây liệu có cố làm cho khác đi nữa, có thể nghe thấu, có thể hòa theo, rồi nối tiếp sách này mà kêu, tôi tất vẫn kêu tiếng kêu ấy, cho thấu đến trời (thính chư thiên)

Năm Kỷ Mão (1819), sau tiết thanh minh hai ngày, Nhật Nam Nguyễn Hành tự Nam Phủ ngụ ở Đồng Xuân thuộc Bắc thành.

 Thời điểm mà Nguyễn Hành viết lời dẫn và làm sách (tập hợp những gì mình đã viết, ghi chép lại và sẽ viết tiếp đến trọn đời ) là một thời điểm đặc biệt của đời ông: tuổi 49. Đó là thời điểm mà mọi nhà Nho đều muốn duyệt lại cuộc đời mình, đề phòng những bất trắc xảy ra trong năm đại hạn. Sau tiết thanh minh hai ngày khi người ta hiểu là tiết tảo mộ, đối diện với cõi người thiên cổ, không ai không nghĩ lại đời mình. Đó là thời điểm mới trong năm thôi, người bạn thân một thời trai trẻ, người cháu họ hơn ông một tuổi, người đã từng thư đi từ lại với ông nhiều, từng cùng ông tiếp đãi và thù tạc thơ ca ở Đông Thành, người mà ông đã từng mượn sách vở khi ông ẩn cư năm 1789 ở Đan Nhai, người ông từng đàm đạo về Truyện tiên sinh Ao thôn, người từng viết lời tựa cho Quan hải thi tập mà ông sáng tác những ngày ở vùng cửa Hội, đối diện trực tiếp với biển cả bao la, người cùng chí hướng với ông, cư sĩ Nguyễn Huy Vinh (1770- 1818) vừa mất (xem Chung sơn di thảo của Nguyễn Huy Vinh, bản mới phát hiện năm 1995 của tiến sĩ Lại Văn Hùng, Viện Văn học). Đó là thời điểm Nguyễn Hành rơi vào cơn bĩ cực, nhà tám chín miệng ăn, bạn bè hàng xóm phải cho gạo, cho quần áo bút mực, có lúc ông bệnh tật đến khạc ra máu (ẩu huyết) như chim đỗ quyên. Không chỉ là tiếng kêu đắng lòng, trong bài dẫn ông còn nghĩ đến cái chết treo cành của đỗ quyên. Truyền ngôn vùng xứ Nghệ kể rằng, con quốc kêu sầu đến đứt ruột, nó chết bám cành treo ngược trên cây. Ngày tết Đoan ngọ, ai tìm chặt được cành cây ấy đem về nhà làm bùa, trỏ vào người nào thì người ấy sẽ theo mình, tương tư đến cùng. Đảo huyền vu thụ là vậy. Trong chữ Hán, đảo huyền là một ẩn tự chỉ cái chết lộn cổ treo ngược (GS Đặng Đức Siêu khi dịch không chú ý ẩn ngữ này. Tôi mong ông cho ý kiến phản biện). Bài dẫn cuốn sách ngoài việc nêu lí do đặt tên còn là tiếng kêu thương của một thân phận, là ý thức về tiếng nói văn chương trước số phận đau khổ của con người.

 Điều đáng chú ý là, trong bài dẫn này, Nguyễn Hành hoàn toàn không gọi Minh quyên phảthi tập, ông chỉ dùng chữphả mà thôi. Dịch và hiểu nó là tập thơ chắc vì sơ ý, chắc vì đã định kiến về tên sách. Ngay trang sau bài dẫn, ta thấy tên tập thơ được ghi rất rõ ràng: Minh quyên thi tập- Nhật Nam Nguyễn Hành Nam Phủ trứ. Đây mới là tên tập thơ cũng như tác giả của nó. Điều này giải thích lí do tại sao đa số ý kiến không bị và không chịu nhầm lẫn theo Hợp tuyển. Ta thấy Minh quyên phả ngoài việc chép thơ Minh quyên thi tập (242 bài), còn chép 40 bài văn, một số bài tụng và một số bài ký. Cái sự Phả nó là như vậy mới đúng. Cũng như trong Ức Trai di tập do Dương Bá Cung làm có Ức Trai thi tập vậy. Có ai gọi Ức Trai di tập là tập thơ đầu. Tôi vẫn viết “người trước sai rồi ông Nguyễn Khắc Bảo sai theo mà thôi” là vì như vậy. Nói ông có tư cách nghe trộm nói leo trong học thuật là vì như vậy. Mà còn lắm chứng nữa, chưa hết đâu!

Cũng phải nói cho kín nhẽ, nếu quan niệm trên đây của tôi là đúng, nếu lấy chữ phả đặt tên cho tập thơ là điều kỳ dị, thì từ việc khác tên gọi mà nói rằng bản VHv 109 và bản mà các cụ làm Hợp tuyển sử dụng xuất tự hai bản có trước khác nhau là chưa đủ sở cứ. Ngay chỗ này, ý kiến của ông Nguyễn Khắc Bảo là vứt đi. Rồi tôi sẽ nói tiếp các chứng khác nữa.

(Kỳ sau in tiếp)   

Bài đã in trên VHNA

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578366

Hôm nay

2184

Hôm qua

2352

Tuần này

21565

Tháng này

225423

Tháng qua

130677

Tất cả

114578366