Để xác định thể của bài thơ Văn thúc phụ lễ bộ hữu tham tri phó âm cảm tác, tôi phiên lại toàn bài thơ này theo bản sao chép của cụ Hồ Trai Phạm Khắc Khoan để mọi người dễ có ngay để so sánh, theo dõi.Đây là văn bản chữ Hán mang ký hiệu VHv 109 tàng trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (mà tôi đã từng sử dụng ở những bài trước).
Văn thúc phụ lễ bộ hữu tham tri phó âm cảm tác.
Công tự Tố Như, tính hiếu lạp, tự hiệu Hồng Sơn lạp hộ. Nhâm Tuất tuế phệ sĩ. Kim triều lũy quan chí hữu tham tri. Canh Thìn bát nguyệt tốt.
Thập cửu niên tiền Tố Như tử
Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
Tam thu luân lạc thử thành trung
Namvọng phù vân mỗi ức công
Quy khứ gia sơn văn dạ lạp
Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng.
Qua cách chép của văn bản, tôi đã xác định được đây là một bài thơ thất ngôn bát cú cổ thể luân chuyển bốn câu vần trắc tiếp bốn câu vần bằng. Còn ông Nguyễn Khắc Bảo vì lệ thuộc vào văn bản chữ quốc ngữ trên Hợp tuyển (in lần 2-1978) và dựa vào ý kiến của giáo sư Bùi Văn Nguyên mà viết: (trích) “Do vậy ý kiến của giáo sư Bùi Văn Nguyên “Nguyễn Hành làm chùm thơ 2 bài tuyệt cú (chúng tôi thêm “thuộc loại cổ phong”) nhan đề “Văn thúc phụ lễ tham tri phó âm cảm tác” vẫn là hoàn toàn chính xác”.(hết trích). Tôi sẽ bình về câu viết đáng tức cười thể hiện đầu óc mù mờ lẫn lộn này của ông Nguyễn Khắc Bảo sau, còn bây giờ tôi sẽ đi theo cách khác. Thầy tôi, GS Nguyễn Tài Cẩn có lần dạy rằng, khi trình bày một vấn đề cho dễ hiểu, tốt nhất là thay lý luận bằng các thí dụ. Cả hai cách, lý luận và thí dụ, đều dẫn đến kết quả truyền thụ.
Ông Nguyễn Khắc Bảo lại còn viết như sau: (trích ): “Xin các độc giả yêu thơ Đường trong cả nước cùng thẩm định hộ xem bài thơ 8 câu 7 chữ trên có thể xếp vào loại thất ngôn bát cú dược không? (lưu ý xem xét kỹ: vần (bài này 8 câu, 6 vần, 3 vần bằng, 3 vần trắc) luật bằng trắc có đạt nhị tứ lục phân minh, niêm đối có chuẩn không” (hết trích). Tôi lấy ví dụ luôn một bài thất ngôn bát cú cổ thể (cũng gọi là cổ phong) trong thơ Trung Quốc để chúng ta xem. Bài này rút trong Đường thi tam bách thủ (300 bài thơ Đường). Sách này do Hành Đường Thoái Sĩ tuyển chọn, Trần Uyển Tuấn bổ chú (hai ông này người Trung Quốc), Ngô Văn Phú dịch và giới thiệu, nhà xuất bản Hội nhà văn in năm 2000. Bài trích nằm ở trang 151.
Mạnh Hạo Nhiên
46. Dạ qui Lộc Môn ca
Sơn tự minh chung trú dĩ hôn
Ngư lương độ đầu tranh độ huyên
Nhân tùy sa ngạn hướng giang thôn
Dư diệc thừa chu quy Lộc Môn
Lộc Môn nguyệt chiếu khai yên thụ
Hốt đáo Bàng công thê ẩn xứ
Nham nhi tùng kính trường tịch liêu
Duy hữu u nhân tự lai khứ.
( Chùa núi thỉnh chuông ngày đã tối,
Bến đò Ngư Lương, người tranh nhau xuống đò.
Người đi theo bờ cát về thôn bên sông,
Ta cũng cưỡi thuyền về Lộc môn
Trăng soi ở Lộc Môn, mờ mờ như khói cây.
Chợt đến chỗ khe ngòi ở ẩn của Bàng Công.
Cửa đá, đường thông đầy vẻ hiu quạnh.
Chỉ có mấy người ở núi lui tới.)
Bài thơ này được chính các tác giả Trung Quốc xếp vào phần Cổ thi, mục thất ngôn cổ thi, nằm ngoài và trước phần luật thi. Ta biết, cổ thi, cổ thể, cổ phong là một. Luật thi, Đường luật, hay cận thể là một. Hai thể đó khác nhau.
Bài thơ trên là 7 chữ (thất ngôn), 8 câu (bát cú) chuyển vận từ bằng sang trắc (cổ thể) có 6 chữ mang vần, 3 vần bằng (hôn - thôn - môn), 3 vần trắc (thụ - xứ - khứ), không theo niêm luật như thất ngôn bát cú Đường luật. Thế sao không gọi nó là hai bài tuyệt cú cổ phong như ông Nguyễn Khắc Bảo đi. Mạnh Hạo Nhiên (689-740) là nhà thơ Trung Quốc thời Đường đấy. Xin các độc giả yêu thơ thẩm định xem: Tôi đã gọi là thất ngôn bát cú cổ thể sao ông Nguyễn Khắc Bảo còn đòi xem luật bằng trắc có đạt nhị tứ lục phân minh, niêm đối có chuẩn không? Trong khi đó các tài liệu nói về cổ phong cả ta và tàu đều nói nó không cần theo luật bằng trắc như thơ Đường luật, có đối hay không đối đều được (tôi sẽ trích dẫn sách sau).
Lại ví dụ nữa chăng? Đây là bài của Cao Bá Quát (1808-1855) sống sau Nguyễn Hành:
Dương phụ hành
Tây dương thiếu phụ y như tuyết
Độc bằng lang kiên tọa minh nguyệt
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì
Dạ hàn vô ná hải phong xuy
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi
Khỉ thức Nam nhân hữu biệt ly.
( Người thiếu phụ tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt ly.)
(Trang 535 - Hợp tuyển in lần I – 1959).
Đây là một bài được tác giả đặt tên là thể loại hành, được viết theo thể thất ngôn bát cú cổ thi (cần phân biệt thể loại với thể trong trường hợp đang nói đây). Bài thơ này thể 7 chữ (thất ngôn) 8 câu (bát cú) luân chuyển vần trắc sang vần bằng (cổ thể), 3 vần trắc (tuyết - nguyệt - thuyết), 3 vần bằng (trì - xuy - ly) giống như bài thơ đang bàn tới của Nguyễn Hành. tại sao không vì việc đổi vần mà “cưa đôi” bài này ra. Thể loại hành có thể viết trên nhiều thể thơ khác nhau.
Đó là thất ngôn bát cú cổ thể, còn ngũ ngôn bát cú cổ thể thì có thể trích ra những 50 bài một lúc cả tàu lẫn ta. Ta sẽ có dịp nhắc đến sau.
b, Vậy thất ngôn bát cú cổ thể là gì? Và bài thơ Văn thúc phụ… của Nguyễn Hành theo bản chữ Hán do cụ Phạm Khắc Khoan chép có đúng với nó không? Ta sẽ trích sau đây những gì viết về thơ cổ phong (cũng là cổ thể) của GS Dương Quảng Hàm là đủ. Trong bài viết trước, tôi đã viết: “Để hiểu điều này chỉ cần đọc Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm từ trang 110 đến trang 119 (bản in lần thứ nhất Hà Nội 1943) là quá đủ”. Tại sao tôi lại giới thiệu những ngần ấy trang? Là vì, từ đó đến đó, GS Dương Quảng Hàm trình bày liên tục 2 mục: Thơ Đường luật và Thơ cổ phong, đọc cả để so sánh, phân định. Là vì, tôi lượng định sẽ có sự trao đổi, và người giảo hoạt trao đổi lại sẽ trích cắt xén ý kiến nhằm cãi bừa, đánh lừa người đọc. Quả đúng là ông Nguyễn Khắc Bảo đã làm vậy. Nay tôi trích những gì liên quan đến cổ phong của cả đoạn này. Sách trên viết như sau: (Trích) Trang 110: “Thơ cổ-phong và Thơ Đường-luật – Theo cách làm, chia làm hai thể: 1, Cổ-phong hoặc cổ-thể là thể thơ có trước thời nhà Đường, không theo niêm luật nhất định; 2, Đường-luật hoặc cận-thể là thể thơ đặt ra tự đời nhà Đường (618-907) phải theo niêm luật nhất định”. Trích tiếp từ trang 116; “3, Thơ cổ-phong: Số chữ và số câu trong lối thơ cổ-phong - Lối này chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn, hoặc thất ngôn); ngoài ra, không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối Đường luật, nghĩa là không có niêm, luật, không phải đối (một đôi khi có đối là tùy nhà làm thơ, chứ không bắt buộc). Lối này cũng không hạn số câu: cứ tự 4 câu giở lên muốn dài ngắn bao nhiêu cũng được. Các thi – gia thường cũng hay làm mỗi bài 4 câu (tứ tuyệt) hoặc 8 câu (bát cú). Nhưng cũng có bài làm 6 câu hoặc 12 câu. Những bài thất ngôn dài quá 8 câu và ngũ ngôn dài quá 16 câu gọi là tràng thiên (thiên dài).
Cách gieo vần trong lối cổ-phong - lối thơ cổ-phong có thể cả bài dùng nguyên một vần (độc vận), hoặc dùng nhiều vần (liên vận). Khi dùng liên vận thì hoặc mỗi hai câu đổi vần (lối này phải dùng vần liên châu, mỗi cuối câu mỗi hạ vần), hoặc bốn câu đổi dùng một vần (như lối thơ tứ tuyệt), hoặc tám câu đổi dùng một vần (như lối thơ bát cú). Mỗi khi đổi vần, câu thứ nhất có gieo vần, hoặc không gieo vần cũng được. Trong bài thơ liên vận, có thể dùng vừa vần bằng vừa vần trắc (hết trích).
Sau phần viết này, GS Dương Quảng Hàm nêu bốn ví dụ bốn bài: Ngũ ngôn bát cú (cổ phong) bài này ví dụ đổi vần, Thất ngôn bát cú (cổ phong), bài này ví dụ bất tuân niêm, Ngũ ngôn tràng thiên (cổ phong)hai bài này ví dụ liên vận, bất tuân niêm, luật của Đường luật. Cũng thú vị là, khi tra chữ niêm trong Từ điển Hán-Việt của GS Đào Duy Anh, tôi phát hiện tiếp GS đã giải thích sai về niêm luật ( luật của niêm) thể hiện trong thơ thất ngôn. Lạ thật, từ điển đấy! Đến giời cũng có lúc sai chứ không chỉ các cụ. Ông Nguyễn Khắc Bảo thường hay nói đến chuyện ông sử dụng từ điển này từ điển nọ nhưng nếu sử dụng vào những cái mà từ điển sai thì hậu quả tất yếu sẽ sai theo. Sử dụng từ điển cũng phải có chuyên môn và đặc biệt là phải xét đoán. Trong bài trước tôi nói rằng, từ điển chỉ cung cấp cho chúng ta những nghĩa cơ bản mà thôi là vì vậy.
Bây giờ, qua hai ví dụ thơ Mạnh Hạo Nhiên (Trung Quốc), thơ Cao Bá Quát (Việt Nam), và qua ý kiến về thể thơ của GS Dương Quảng Hàm ta thử áp bài thơ của Nguyễn Hành ở trên vào thì sẽ thấy nó thuộc thể nào:
- Nó là thất ngôn bát cú (khái niệm dùng của Dương Quảng Hàm khi đưa ra các ví dụ).
- Nó không tuân thủ luật và niêm của thơ Đường luật (trong thơ Đường luật yêu cầu niêm về thanh bằng thanh trắc dính nhau dọc bài qua các câu trong một bài thơ thường bắt đầu từ thanh của chữ thứ hai mỗi câu: chữ thứ hai câu I và chữ thứ hai câu VIII phải cùng thanh, chữ thứ hai câu II phải khác thanh chữ thứ hai câu I và cùng thanh chữ thứ hai câu III, chữ thứ hai câu IV khác thanh chữ thứ hai câu III và cùng thanh chữ thứ hai câu V, chữ thứ hai câu VI khác thanh chữ thứ hai câu V và cùng thanh chữ thứ hai câu VII. Từ chữ thứ hai đó đọc theo thứ tự chữ trong câu mà suy ra sự dính nhau dọc bài của các vị trí khác). Trường hợp bài thơ Nguyễn Hành mà ta đang bàn theo dõi các chữ cửu - thế - môn - lệ - thu - vọng - khứ - linh, chúng ta thấy nó hoàn toàn thất niêm theo chuẩn tắc thơ Đường luật. Vì nó là cổ phong. (theo Dương Quảng Hàm).
- Giữa các liên hai và ba hoàn toàn không đối vì đã là thơ cổ phong thì không yêu cầu bắt buộc phải đối như thất ngôn bát cú Đường luật. (theo Dương Quảng Hàm).
- Bài thơ chuyển vần dùng từ trắc sang bằng: bài này có sáu chữ mang vần, ba chữ vần trắc (tử - hĩ - tử) chuyển sang ba chữ vần bằng (trung - công - đồng). Sự chuyển vần này giống bài thơ thất ngôn bát cú của Cao Bá Quát ở trên và đảo ngược cách chuyển vần (bằng sang trắc) so với bài thất ngôn bát cú của Mạnh Hạo Nhiên. (theo Dương Quảng Hàm).
Cái sự thất ngôn bát cú cổ phong của bài thơ là quá rõ, không thể phủ định. Chúng ta thấy ông Nguyễn Khắc Bảo cứ khăng khăng dùng ý kiến về thất ngôn bát cú Đường luật của Trần Trọng Kim mà buộc vào nó thì hiểu sao nổi. Mở Việt nam văn phạm của cụ Trần Trọng Kim ra xem, thấy quả đúng phần viết về thất ngôn bát cú của cụ là nằm trong phần Đường luật chứ không phải ở phần cổ phong. Cụ còn nói rằng sách cụ tham khảo ý kiến của cụ Ưu Thiên Bùi Kỉ qua cuốn Quốc văn cụ thể. Mở tiếp Quốc văn cụ thể (1931) thì cũng thấy như vậy. Ở đây, ông Nguyễn Khắc Bảo đã có sự đánh tráo phần viết để đưa thông tin lừa gạt bạn đọc bởi vì ta biết rằng không phải bạn đọc nào cũng có sẵn các tài liệu đó ở trong nhà. Chúng ta biết rằng, hai thể cổ phong và Đường luật đều có cả ngũ ngôn và thất ngôn, tứ tuyệt và bát cú. Lấy qui cách của thể này làm chuẩn mực cho thể khác thì đó chỉ là người không hiểu biết gì về thể thơ trong văn học trung đại. Gọi bài thơ của Nguyễn Hành ở trên là thất ngôn bát cú như anh Vương Trọng là không có gì sai cả như bài báo trước tôi đã nói. Còn trong cổ thi bốn câu ba vần là sự thường không chỉ Đường luật mới có. Tôi lấy ngay một ví dụ về thơ cổ thi bốn câu ba vần trong Quốc văn cụ thể:
Qui tiều
Rừng lau gió lác đác
Chim hôm bay xáo xác
Gánh củi lững thững về
Đường quen không sợ lạc.
(Vô danh – Trang 38)
Đây là thí dụ về ngũ ngôn tứ tuyệt độc vận mà cụ Bùi Kỉ đưa ra đầu tiên khi viết về mục cổ phong cùng trang sách. Bài thơ trên là cổ phong, có bốn câu và ba chữ mang vần là: đác - xác - lạc. Nó không phải là Đường luật vì lau - hôm - củi – quen bất tuân niêm của luật thi. Ông Nguyễn Khắc Bảo hỏi rằng có bốn câu ba vần trong cổ thi không thì câu trả lời đã rõ. Đó là câu hỏi của một người thiếu hiểu biết định dùng để bắt bẻ người khác.
Chưa hết, khi trích ý kiến của GS. Dương Quảng Hàm, ông đã cố tình quên đoạn giáo sư so sánh giữa cổ phong vàĐường luật, giả vờ không hiểu đoạn nói về niêm luật và cắt luôn cả đoạn nói về cách gieo vần trong lối cổ-phong cũng như các thông tin ví dụ mà giáo sư đã đưa ra. Ông cắt xén thông tin với mục đích gì vậy. Vì thiếu hiểu biết hay để đánh lừa người đọc.
Đến việc ông xác định thể của “hai bài thơ” thì quả thật để cười cho thiên hạ. GS. Bùi Văn Nguyên do ảnh hưởng ý kiến GS. Trương Chính (1962) và của Hợp tuyển (1959) mà xác định đó là hai bài tuyệt cú. Nếu chia làm hai bài như sự nhầm lẫn đó thì gọi nó là hai bài tuyệt cú là đủ và đủ thận trọng. Đằng này ông Nguyễn Khắc Bảo vẽ rắn thêm chân vào văn người trước mà thêm vào mấy chữ “thuộc loại cổ-phong” thì đúng là thiểu năng trí tuệ. Xin nói rằng, nếu quan niệm là hai bài thì chỉ bốn câu đầu là tuyệt cú cổ-phong thôi còn bốn câu sau là tuyệt cú Đường luật đấy.Vì đó là một bài tuyệt cú Đường luật có cấu trúc sử dụng hai câu đầu và hai câu cuối của một bài thất ngôn bát cú Đường luật kể cả niêm và luật. Trong một cơn xúc cảm, viết liền một chùm hai bài mà ngay bài trên là cổ phong, bài dưới đã là Đường luật thì đó mới là điều dị thường. Còn coi nó là một bài thất ngôn bát cú cổ phong mới là điều tất yếu. Từ đầu mục a này tôi nói rằng ông Nguyễn Khắc Bảo hoàn toàn không biết gì về thể thơ trung đại, khi trích dẫn thì cắt cụt ý, giấu thông tin là vì vậy. Dùng một tri thức thiểu năng như ông mà tranh luận khoa học thì làm gì đi đến kết quả. Còn nhiều ngớ ngẩn nữa tôi sẽ nói sau. Lấy quy tắc của niêm luật thơ Đường luật (có sau) để xác định thể của thơ cổ phong (có trước) thì có khác nào lấy quy tắc của tám câu lục bát (dấu tích sớm nhất cũng cuối thế kỉ XV) để áp vào xem xét thể của thơ nôm Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập. Việc tôi nói rằng ông Nguyễn Khắc Bảo dùng thước tây (có sau) để lấy số đo bàn thờ (theo quy chuẩn có trước) là thế đấy. Có thế mà ông Bảo cũng không hiểu lại còn vặn vẹo.
c. Bây giờ ta sẽ điểm qua ý kiến về bài thơ trên của Nguyễn Hành là hai bài hay một bài:
- Ý kiến cho là một bài gồm: 1958, Phạm Khắc Khoan trình bày bài thơ khi sao chép làm một bài. 2006, nhà thơ Vương Trọng cho là một bài. 2006, Nguyễn Hùng Vĩ dựa trên bản sao chép chữ Hán mà xác định nó là một bài và coi ý kiến của những người cho đó là hai bài là một sự nhầm lẫn cần sửa chữa.
- Ý kiến quan niệm là hai bài: 1959, các tác giả làm Hợp tuyển… khi phiên âm sang chữ quốc ngữ dùng kí hiệu I đặt trên bốn câu đầu và kí hiệu II đặt trên bốn câu cuối. Có thể hiểu ý các cụ là hai bài. (Tuy nhiên trên văn bản này hoàn toàn không có dấu hiệu các cụ phân thành hai kỳ như ông Nguyễn Khắc Bảo cố tình mô tả sai để đánh lừa người đọc trong bài tranh luận với tôi. Đây là một tiểu xảo mập mờ trong mô tả. Tôi dám cá rằng ông Nguyễn Khắc Bảo không thể hiểu chữ kỳ trong văn bản chữ Hán được các nhà thơ dùng như thế nào mà nó lại chia các bài với nhau khi cùng một đầu đề. Cùng lắm ông chỉ hiểu nôm na kỳ là bài mà thôi). 1962, GS Trương Chính trên Nghiên cứu văn học số 8 cũng quan niệm là hai bài. Sau đó giáo sư Bùi Văn Nguyên theo ông mà quan niệm là hai bài.2000, GS Đặng Đức Siêu khi làm Tổng tập văn học Việt Nam qua tham khảo các cụ như lời nói đầu viết, cũng dùng kí hiệu I và II đặt trên từng mỗi bốn câu. Cũng có thể hiểu quan niệm đó là hai bài. Điều lạ là với những bài khác mà trong bản chữ Hán chép rõ là kỳ nhất, kỳ nhị… thì ông phiên Kỳ I, Kỳ II, còn với bài này thì chỉ độc mỗi I, II mà thôi. Đây là một dấu hiệu đáng ngờ. 2006, và có thể trước đó, ông Nguyễn Khắc Bảo vì lệ thuộc vào người trước mà cũng quan niệm là hai bài khi tranh luận với nhà thơ Vương Trọng. Một đằng chúng tôi đang hi vọng sửa sai cho người trước qua văn bản chữ Hán sao chép lại ở thời điểm sớm hơn cả, còn một đằng thì dựa vào chính những văn bản đã phiên âm của họ và mượn uy tín khoa học người trước mà cãi lại thì làm sao mà có lí được. Ông hãy đưa ra một văn bản chữ Hán khác đi, nếu chúng tôi sai, chúng tôi sẵn sàng đính chính công khai.
Về phong cách chỉ thấy một điều rằng, Nguyễn Hành là một nhà thơ ưa thích dùng thể thơ cổ phong trong sáng tác của mình từ rất sớm. 12 bài trong Hợp tuyển… thì đã có đến sáu bài cổ thể (bát cú ngũ ngôn hoặc bát cú thất ngôn, bất tuân niêm hoặc chuyển vận hoặc cả hai). Trong lúc đó Ức Trai thi tập (Nguyễn Trãi), thơ Ngô Thì Nhậm, thơ Nguyễn Du với bát cú tuyệt đối không có bài cổ thể nào. Người bạn thân thiết của Nguyễn Hành là Nguyễn Huy Vinh (1770-1818, thọ 49 tuổi) trong bài tựa cho tập thơ Quan hải thi tập đã từng nói rằng Nguyễn Hành thường hướng đến những thể cổ văn cổ thi lại càng làm ta tin rằng ông đã sử dụng cổ phong trong trường hợp này. Hy Nhân Nguyễn Huy Vinh trong bài Quan hải thi tập tự viết về Nguyễn Hành như sau: “Mùa đông năm Kỉ Dậu (1789), ông lánh đến sống ở miền biển Đan Nhai, đêm ngày tụng đọc không ngừng, thường mượn sách của tôi, hễ không phải sách về thời Tam đại, Hán-Ngụy thì quyết chẳng xem; dụng tâm rất cao minh, đạt nhiều điều sở đắc. Rồi bèn bỏ hết những sáng tác trước đấy, đi sâu vào văn chương Tiên Tần, Tao, Tuyển, rồi đặt nhan đề cho tập thơ mình là Quan hải, có thể nói tầm nhìn thật thấu đáo vậy. Nguyên ủy của tam thiên là thể Tao của nước Sở, thể Tứ ngôn, Thất ngôn của thời Hán Tấn. Từ Đường trở xuống những thể đó trở thành một lưu phái vậy”. Xem vậy ta thấy ngay từ thời sáng tác Quan hải thi tập, Nguyễn Hành đã có xu hướng nghiêng về cổ thể một cách mạnh mẽ để tìm ra cái uyên nguyên của chính khí văn chương. Sử dụng cổ phong đúng là một phong cách của ông.
d. Đến đây tôi đã có thể lí giải về cách xác định của mình trong bài báo trước về thể của bài thơ Văn thúc phụ… Ở bài báo đó tôi đã viết rằng: (Trích): Về thể, có thể có hai cách quan niệm: Thứ nhất, đây có thể gọi là thất ngôn trường thiên, nhưng với trường hợp Nguyễn Hành, ông chỉ viết tám câu bằng đúng số lượng một bài thất ngôn bát cú. Thứ hai, theo chúng tôi là đúng hơn, đây đúng là một bài thất ngôn bát cú cổ thể luân chuyển bốn câu vần trắc tiếp bốn câu vần bằng. Tại sao tôi lại đã xác địnhlà thất ngôn bát cú cổ thể mà còn lưỡng lự với thất ngôn trường thiên và nói rõ là với trường hợp Nguyễn Hành ông chỉ viết 8 câu bằng đúng số lượng một bài thất ngôn bát cú. Sự thể như sau: Đối với văn học, việc xác định thể của nó chắc chắn là phải dựa trên văn bản và cách trình bày văn bản của người sáng tác. Tuy nhiên với những trường hợp cụ thể vẫn cần tính đến đặc điểm của hoàn cảnh sáng tác cũng như mối quan hệ của các thể trong một nền văn học. Trong nghiên cứu văn học dù hướng đến văn bản người ta vẫn cần những thông tin về tiểu sử và ngược lại. Xu hướng nghiên cứu văn bản và xu hướng nghiên cứu tiểu sử cần có những bổ trợ trong các trường hợp đó. Với trường hợp Nguyễn Hành, khi sáng tác cùng một lúc ông đối diện với nhiều thực tại, trong đó tối thiểu là: thực tại của mối xúc cảm khi nghe tin chú mình mất trong mùa đại dịch, song một thực tại khác là ông phải lựa chọn thể cho sáng tạo của mình. Trong văn học, mỗi thể có một công năng riêng mà khi sáng tạo, nhà thơ không thể không tính tới và lựa chọn. Những người đã được đào tạo và am hiểu ngôn ngữ văn học đều hiểu điều đó. Ở đây, Nguyễn Hành sẽ lựa chọn như thế nào? Với bát cú Đường luật, tự công năng của nó, sau tám câu sẽ chấm dứt một xúc cảm, một thực tại vì luật của thơ Đường luật là chặt chẽ và tự nó trọn vẹn. Khi cảm xúc quá dồi dào trước cái chết của một người thân mà Nguyễn Hành quá yêu quý, ông đã lựa chọn cổ phong vì cổ phong không yêu cầu bắt buộc phải dừng lại ở bát cú, nó hoàn toàn có thể kéo dài qua việc luân chuyển bằng trắc để trở thành trường thiên. Người viết sẽ chủ động hơn trong quá trình sáng tạo của mình. Sự lựa chọn này thích hợp với phong cách ưa dùng cổ thi của ông cũng như tình thế xúc cảm mà thực tại đặt ra. Trong mạch cảm xúc đó, ta thấy bài thơ dường như chưa dừng lại nếu đặt nó cạnh những bài thất ngôn trường thiên. Rất có thể vì một điều kiện nào đó đã khiến Nguyễn Hành dừng bút. Tôi viết rằng, “nhưng với trường hợp Nguyễn Hành, ông chỉ viết tám câu bằng đúng số lượng một bài thất ngôn bát cú” và đặt ý kiến đó ở tình trạng có thể quan niệm (có thể thôi, không khẳng quyết, để gợi mở những suy tư). Cách viết đó hoàn toàn không khác gì cách viết: “Truyện ngắn Chí Phèo là một tiểu thuyết thu nhỏ”. Đã truyện ngắn mà lại là tiểu thuyết đấy. Ông Nguyễn Khắc Bảo là người không thể hiểu nổi người khác trong nghề, ông lại cắt cụt ý của tôi và coi đó như một ý quan niệm khẳng quyết để bắt bẻ. Việc làm của ông chỉ lộ ra khả năng kém cỏi của ông mà thôi. Còn câu hỏi của ông rằng nó có phải thất ngôn bát cú hay thất ngôn bát cú cổ thể thì tôi đã trả lời ở phần trên. Còn trong bài, quan niệm của tôi về thể của bài thơ là hoàn toàn nhất quán.
Tóm lại, bằng những ví dụ của những bài thơ tương đồng đời Đường, đời Nguyễn mà tôi đưa ra, bằng những chỉ dẫn về thể thơ Đường luật và thể thơ cổ phong qua Việt Nam văn học sử yếu của giáo sư Dương Quảng Hàm, bằng văn bản chữ Hán chép từ 1958 của cụ Hồ Trai Phạm Khắc Khoan, bằng sự phân tích phong cách sử dụng thể thơ của chính Nguyễn Hành, khi đem áp bài thơ của cụ vào những chuẩn tắc đó, bạn đọc sẽ xem xét bài thơ đó thuộc thể nào, có đúng như tôi đã xác định không. Cũng từ đó, bạn đọc sẽ có nhận xét về tri thức và tư cách của ông Nguyễn Khắc Bảo qua bài ông trao đổi lại với tôi.
Vấn đề còn lại là tại sao các cụ làm Hợp tuyển… lại có sự lầm lẫn? Văn bản các cụ sử dụng là văn bản nào vậy? Điều này chỉ khi chúng ta tìm được văn bản chữ Hán đó sẽ có câu trả lời xác đáng. Còn hiện nay tôi vẫn vững tin rằng việc coi bài thơ trên là hai bài tuyệt cú là một sự lầm lẫn cần được sửa chữa. Sự lầm lẫn có thể xảy ra với bất cứ ai. Nhưng vấn đề là nếu không có người sửa chữa thì tình trạng dĩ ngoa truyền ngoa sẽ đem lại hậu quả cho việc nâng cao tri thức cộng đồng. Người sai theo người trước đã sai thì có thể thông cảm được vì kém cỏi. Nhưng theo cái sai rồi dùng mọi mánh lới, bất chấp sự thật, bất chấp những thao tác khoa học để cãi cối và xúc phạm người khác, đó là người không trung thực về mặt nhân cách. [...]!!.
(Còn nữa, Kì sau đăng tiếp)