Cuốn thứ nhất gồm 30 tờ giấy gấp đôi được đóng lại bằng ghim sắt và cả hai mặt giấy được ghi chép lại nội dung các buổi trao đổi của nhà nghiên cứu người Pháp Morice Godelies. Trong cuốn sổ này, Phạm Đức Dương ghi lại khá chi tiết về ba ngày thuyết trình của Morice Godelies vào tháng 7/1981. Ngày đầu tiên (13/7/1981), M. Godelies tập trung vào các vấn đề lý luận và các khái niệm quan trọng như phương thức sản xuất, hình thái xã hội và kinh tế, và phân tích xã hội bằng các quá trình biến đổi. Ngày thứ hai (15/7/1981) M. Godelies đi sâu phân tích một số ví dụ mà ông đã nghiên cứu thực địa như các bộ tộc ở Úc dựa trên cơ sở lý thuyết ông trình bày trong buổi trước. Ngày thứ ba (16/7/1981), học giả Pháp tiếp tục phân tích các kết quả nghiên cứu của ông và có những trao đổi với những người tham gia, gợi mở ra những vấn đề nghiên cứu có thể thực hiện tại Việt Nam.
Cuốn thứ hai gồm 18 tờ giấy gấp đôi và cũng được đóng bằng ghim sắt, ghi chép lại nội dung các buổi trao đổi của hai nhà khoa học người Bỉ là Francois Houtart và G. Lemerciniez về các vấn đề xã hội học, từ các khái niệm và phương pháp nghiên cứu. Theo ghi chép trong cuốn sổ này thì hai nhà khoa học này đã có 3 ngày trình bày các vấn đề xã hội học ở Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Buổi đầu tiên (không được ghi rõ thời gian) do F. Houtart trình bày về các vấn đề cơ bản của xã hội học, chủ yếu là các khái niệm, phân loại, trong đó ông nhấn mạnh quan điểm của mình về Xã hội học Mác-xít. Ông cũng đi sâu phân tích các khái niệm như cấu trúc xã hội, kiến trúc xã hội, phân tích biện chứng về xã hội… Ngày thứ hai (cũng không được ghi rõ thời gian), cả F. Houtart và G. Lemerciniez trình bày hai nội dung khác nhau. Trong khi F. Houtart tiếp tục phân tích các cấu trúc và vai trò của cấu trúc trong nghiên cứu sự phát triển xã hội, thì G. Lemerciniez trình bày về biểu tượng, mối quan hệ con người với tự nhiên qua các biểu tượng, về biểu tượng trong các quan hệ xã hội, vấn đề phân tích biểu tượng trong phân tích xã hội. Ngày thứ 3 (20/7/1981), do Phạm Đức Dương mời F. Houtart và G. Lemerciniez đến trao đổi tại Ban Đông Nam Á. Phần lớn các cán bộ của Ban Đông Nam Á đều tham dự, do nhà dân tộc học Từ Chi phiên dịch. Trong buổi này, F. Houtart trình bày hai vấn đề chính là phương pháp nghiên cứu xã hội học lịch sử và phân tích định lượng trong nghiên cứu xã hội học lịch sử. Còn G. Lemerciniez trình bày về quá trình xã hội hóa tư liệu sản xuất và phương pháp phân tích các mô hình văn hóa trong nghiên cứu lịch sử. Nhân dịp được đọc lại hai cuốn sổ này, cũng xin được tường thuật lại một vài câu chuyện về những cuộc tiếp xúc ban đầu với các nhà xã hội học phương Tây ở Việt Nam.
Trong một khoảng thời gian dài, Việt Nam xây dựng nền khoa học xã hội mà chủ yếu theo mô hình của Liên Xô, không coi trọng ngành xã hội học. Như GS Phạm Đức Dương giải thích: “Đối với phe xã hội chủ nghĩa, ngành Xã hội học không được mấy quan tâm bởi nhẽ người ta coi đó là một ngành khoa học theo quan điểm và phương pháp tiếp cận tư bản chủ nghĩa, đối lập với chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác-xít. Thật ra bộ máy tập trung quan liêu của mô hình xã hội chủ nghĩa trước đây không ưu gì Xã hội học”[1]. Vậy nên cho đến những năm 1970, Xã hội học vẫn còn là một ngành khoa học khá xa lạ trong nền khoa học xã hội Việt Nam. Đến giữa những năm 1970, một số lãnh đạo trong ngành khoa học xã hội đã nhận thức được sự quan trọng của ngành Xã hội học nên mới có ý định xây dựng ngành này trong nền Khoa học Xã hội. Năm 1977, Ban Xã hội học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam được thành lập do ông Vũ Khiêu làm Trưởng ban. Đây là cơ quan chuyên môn xã hội học đầu tiên được xây dựng trong Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
Thách thức đầu tiên với Ban Xã hội học là chưa có những cán bộ được đào tạo đầy đủ về mặt chuyên môn. Trong khi đó, việc mời các nhà Xã hội học nước ngoài đến Việt Nam để trao đổi là một chuyện khó, mời các nhà xã hội học phương Tây càng khó hơn vì khoảng ngăn cách hệ tư tưởng. May mắn cho Ban Xã hội học là trong quá trình hoạt động tại Hội đồng Hòa bình Thế giới, GS Phạm Huy Thông, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam có quen biết với GS Francois Houtart, một nhà xã hội học uy tín của Bỉ, Giám đốc Trung tâm Ba châu (CETRI) của Đại học Thiên Chúa giáo Louvain (Bỉ) nên đã có lời mời ông đến Việt Nam hợp tác nghiên cứu.
Năm 1981, bốn nhà khoa học là Morice Godelier, George Condominas (Pháp), Francois Houtart, G. Lemerciniez (Bỉ) đến Việt Nam để nghiên cứu và có một số buổi trao đổi với các nhà nghiên cứu Việt Nam ở Ủy ban Khoa học Xã hội. Người phụ trách tổ chức các buối sinh hoạt khoa học của Ban Xã hội học là Bùi Đình Thanh-Phó ban Xã hội học. Nhưng trong thời gian đó, ông Bùi Đình Thanh đi công tác xa nên Phạm Đức Dương-Trưởng ban Đông Nam Á đứng ra tổ chức.
Những nhà khoa học đến Việt Nam lần này không quá xa lạ với giới nghiên cứu Khoa học Xã hội Việt Nam. George Condominas là một nhà dân tộc học Pháp được sinh ra tại Việt Nam. Ông từng nghiên cứu điền dã dân tộc học ở Tây Nguyên (1948-1950) và có công trình được nhiều người biết đến là “Chúng tôi ăn rừng Đá thần Gôo” (1957) viết về người Mnong ở Tây Nguyên. Morice Godelier là một nhà nghiên cứu về phương thức sản xuất châu Á. Còn F. Houtart và G. Lemerciniez (Bỉ) là hai nhà xã hội học có uy tín trên thế giới.
Những buổi thuyết trình của các học giả nước ngoài tại Ủy ban Khoa học xã hội đã được nhiều người đến dự. Các nhà nghiên cứu nổi tiếng lúc bấy giờ như Nguyễn Từ Chi (là phiên dịch chính trong các buổi thuyết trình và trao đổi của các học giả), Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Hồng Phong, Tương Lai, Đặng Nghiêm Vạn, Bế Viết Đẳng … đều đến trao đổi. Với một ngành mới lạ như xã hội học thì trao đổi về các khái niệm quan trọng và phương pháp nghiên cứu là rất quan trọng. Vậy nên các trao đổi của các nhà khoa học Pháp và Bỉ đã cung cấp cho các cán bộ trẻ những tri thức mang tính nền tảng của ngành học.
Tuy nhiên, tưởng như mọi chuyện sẽ tốt đẹp, các nhà khoa học đến Việt Nam trao đổi cũng đặt vấn đề hợp tác và giúp đỡ trong việc đào tạo cán bộ và thực hiện các nghiên cứu thực địa tại Việt Nam. Phía Pháp và Bỉ đồng ý cho một số cán bộ thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam sang học nghiên cứu sinh. Và trong đợt đầu tiên, một số cán bộ như Nguyễn Quang Vinh và Nguyễn Đức Truyến được qua Bỉ học tập về xã hội học. Sau đó, những ý tưởng của hai phía đều không thực hiện được. Trong khi các cuộc trao đổi với các nhà khoa học nước ngoài đang diễn ra, có một số người, do sự nho nhen, ích kỷ đã có ý kiến với cấp trên là một số cán bộ trong Ủy ban Khoa học Xã hội như ông Vũ Khiêu, ông Phạm Đức Dương đang mời các nhà khoa học mang tư tưởng tư sản về để “đầu độc” lớp trẻ. Ban lãnh đạo Ủy ban Khoa học Xã hội, sau đó là Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Công An, và cả Phó Thủ tướng Phạm Hùng cũng đã mời hai ông Vũ Khiêu và Phạm Đức Dương lên yêu cầu giải trình bày. Thậm chí có ý kiến còn đòi kỷ luật những người tổ chức các cuộc trao đổi này. Về sau, nhờ các lãnh đạo như Xuân Thủy (Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng), Phạm Huy Thông (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội) nên những người tổ chức cuộc trao đổi này không bị kỷ luật, nhưng những dự định hợp tác nghiên cứu xã hội học ở xã Hải Vân (Nam Định) thì được thực hiện một cách khó khăn. Một số người được lựa chọn để đi học tại Đại học Thiên chúa giáo Louvain, Bỉ như Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Kự đến phút cuối cùng lại bị dừng lại. Về các nhà khoa học nước ngoài như F. Houtart, G. Lemerciniez, sau chuyến đến Việt Nam đầu tiên ấy thì mãi nhiều năm sau họ mới có cơ hội quay lại để nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu của F. Houtart và G. Lemerciniez về xã Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định vào giữa những năm 1990 đã có tác động lớn đối với xã hội học Việt Nam nhất là việc đào tạo các nhà xã hội học tương lai[2]. Theo GS.TS Tô Duy Hợp, một nhà nghiên cứu xã hội học nông thôn thì: “Những nghiên cứu của Francois Houtart về Hải Vân là công trình quan trọng và ảnh hưởng nhiều đối với nghiên cứu xã hội học nông thôn, đặc biệt là về phương pháp nghiên cứu. Cùng với công trình của Vũ Quốc Thúc[3] về làng xã Việt Nam, thì công trình của Francois Houtart là tài liệu gối đầu giường cho các nhà nghiên cứu xã hội học nông thôn ở Việt Nam sau này”[4].
Những buổi tiếp xúc ban đầu của các nhà xã hội học phương Tây ở Việt Nam, dù còn nhiều hạn chế nhưng cũng đạt được những kết quả nhất định. Về mặt chuyên môn, đã giúp những người tham gia cũng đã hiểu rõ hơn về hệ thống khái niệm và phương pháp nghiên cứu của xã hội học, tạo tiền đề và cảm hứng cho các nhà nghiên cứu xã hội học sau đó. Những buổi gặp cũng mở đầu cho quan hệ hợp tác nghiên cứu với giới xã hội học thế giới dù ngay sau đó đã có những hạn chế, nhưng khi điều kiện và tầm nhìn của lãnh đạo thay đổi thì chính các nhà xã hội học này đã quay lại và giúp đỡ nhiều cho ngành xã hội học Việt Nam trưởng thành và phát triển như trường hợp Francois Houtart. Năm 2009, nhân kỷ niệm 30 năm quan hệ hợp tác khoa học giữa Viện Xã hội học Việt Nam và Trung tâm Ba châu (CETRI) của Bỉ, lãnh đạo Viện đã phát biểu tri ân đến hai nhà khoa học mở đầu mối quan hệ này là F. Houtart và G. Lemerciniez và xem họ như là một phần của lịch sử xã hội học Việt Nam nói chung và Viện Xã hội học: “Chúng tôi bày tỏ lòng yêu mến và biết ơn đối với Francois Houtart và Lemerciniez đã mất, với những người bạn ở CETRI, với tất cả cán bộ nhân viên Viện Xã hội học, với lãnh đạo và nhân dân xã Hải Vân đã nhiệt tình và kiên trì xây dựng ngành khoa học xã hội học ở Việt Nam, và cái còn quý hơn là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người”[5]. Lãnh đạo Viện Xã hội học cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng Francois Houtart trong việc tìm nguồn tài trợ và thực hiện các hợp tác nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam./.
[1]Phạm Đức Dương: “Khoảng cách nhân văn trong ứng xử của Giáo sư Vũ Khiêu”, in trong “Vũ Khiêu và bè bạn”. H-KHXH, 1996, trang 282.
[2]Tiêu biểu là công trình “Xã Hội Học Về Một Xã Ở Việt Nam (Tham Gia Xã Hội, Các Mô Hình Văn Hóa, Gia Đình, Tôn Giáo Ở Xã Hải Vân)” do Francois Houtart và Lemerciniez đồng tác giả, được dịch sang tiếng Việt năm 2002.
[3]Xem Vũ Quốc Thúc: “Kinh tế công xã Việt Nam”, (L’économie communaliste du Vietnam. Ed.Presse Universitaire, Hanoi, 1951).
[4]Trao đổi của tác giả với GS.TS Tô Duy Hợp ngày 14-7-2014. Tài liệu lưu trữ tại TTDSCNKHVN.
[5]Bùi Đình Thanh, Trịnh Duy Luân: “30 năm hợp tác khoa học và hữu nghị giữa Viện Xã hội học Việt Nam và CETRI Bỉ (1979-2009)”. Tạp chí Xã hội học, số 3, 2009, trang 22.