Khó mà nói gì về một giai phẩm, vừa sinh ra đã được tặng giải sách hay rồi mới bốn tuổi được tái bản tới ba lần. Có Năm Trăm Năm Như Thế là một cuốn sách như thế.
Khó mà nói gì về một giai phẩm, vừa sinh ra đã được tặng giải sách hay rồi mới bốn tuổi được tái bản tới ba lần. Có Năm Trăm Năm Như Thế là một cuốn sách như thế.
Công bằng phải nhận rằng, do tâm huyết với lịch sử, đặc biệt lá quê hương Quảng Nam của mình, ông Hồ Trung Tú đã có gan lao vào chốn học thuật gai góc mà các bậc thầy, các đàn anh tránh né. Đóng góp lớn của ông là lần đầu tiên tập hợp được lượng tư liệu phong phú nhất liên quan tới đề tài, trong đó đặc biệt giá trị là những tư liệu điền dã mà chỉ những người bám trụ cả đời như ông mới may mắn có được. Có thể nói, để viết cuốn sách, tác giả đã vắt kiệt tư liệu cùng tâm huyết của mình, điều đáng trân trọng trong tình trạng học thuật chợ chiều hiện nay.
Tuy nhiên, cũng phải thấy sự thật là, tác giả chưa có thể giải quyết công việc một cách rốt ráo. Với đề tài đầy bí ẩn và nhạy cảm này, chỉ tri thức của 500 năm là không đủ. Điều tiên quyết, cái sống còn cho công việc là phải biết, trước 500 năm đó là gì? Vì chỉ khi minh thị vấn đề này mới có thể nói chuyện có 500 năm như thế! [...].
Xin cung cấp một vài suy nghĩ hầu mong có thể bổ ích chút nào cho khảo cứu của ông.
1. Việt là ai? Chăm là ai?
Không riêng ông Hồ Trung Tú, đến nay nhiều học giả vẫn cho rằng người Việt và người Chăm là hai dân tộc (nation) khác nhau. Đấy là sai lầm lớn dẫn tới hệ lụy nghiêm trọng là không thể giải quyết dứt điểm những vấn đề thuộc về dân cư, văn hóa khu vực. Vì vậy, trước hết cần làm rõ chuyện này. Nhân chủng học thế kỷ trước và di truyền học thế kỷ này xác nhận: suốt thời Đồ Đá, dân cư Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, cùng thuộc loại hình Australoid. Nhưng sang thời Đồ Đồng, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư Việt Nam. Người Australoid biến mất.
Như vậy là, từ khoảng 2000 năm TCN, trên đất Việt Nam chỉ còn duy nhất chủng người Mongoloid phương Nam. Điều này có nghĩa là, trên đất Việt Nam chỉ có duy nhất dân tộc Việt (nation) cùng chung văn hóa và tiếng nói, gồm các sắc dân (races) Mèo, Thái, Mán, Mường, Kinh, Chăm, Khmer, Banah, Êđê… Do hoàn cảnh lịch sử, thời xa xưa chưa có đồng bằng sông Hồng và đồng bằng miền Trung nên người Mèo, Thái, Mán, Mường… sống tập trung từ miền Trung lên phía Bắc. Người Chăm, Khmer, Banah, Êđê… từ Nam Trung Bộ xuống phía Nam, chủ yếu dựa vào những đồi thấp và thung lũng của dải Trường Sơn.
Khoảng 500 năm TCN đồng bằng sông Hồng được bồi tụ. Người Mường từ miền Trung kéo ra, người Tày, Thái, Dao, Mán, Mường từ trung du, miền núi Bắc Bộ kéo xuống, người từ phương Bắc trở về. Cùng nòi giống, văn hóa và tiếng nói, những dòng người hòa hợp với nhau trên châu thổ trẻ đang khai phá, sinh ra người Kinh – ban đầu là người đồng bằng, sau với nghĩa người kẻ chợ. Do ưu thế của môi trường sống và văn hóa, người Kinh trở thành sắc dân đa số và tiến bộ của cộng đồng dân tộc Việt. Có thể sớm hơn ít nhiều, tại đồng bằng miền Trung cũng diễn ra hiện tượng tương tự: người Kinh kẻ chợ miền Trung ra đời.
Cho đến thiên niên kỷ đầu Trước Công nguyên, từ Nam Dương Tử qua Đông Dương tới Mã Lai, Nam Dương là một cộng đồng thống nhất về huyết thống, tiếng nói và văn hóa do các vua Hùng thống lĩnh về mặt tinh thần. Người ta cho rằng, trống Đông Sơn ở Tây Nguyên, Mã Lai, Indonesia là quyền trượng mà các vua Hùng trao cho thủ lĩnh khu vực.
Khi bị Bắc thuộc, một lằn ranh hành chính lập ra ngăn cách Việt Nam với phia Nam. Do mất liên hệ với trung tâm Văn Lang, các thủ lĩnh vùng xưng vương, lập các vương quốc Phù Nam, Lâm Ấp, Chân Lạp… Mối quan hệ truyền thống của người Việt từ xa xưa bị ngăn cách. Rồi sau đó, để lấp khoảng trống văn hóa, người phía Nam tiếp thu văn hóa Ấn.
Việc nhà Trần quản trị hai châu Ô, Rí từ 1306 là sự nối lại quan hệ cộng đồng tộc Việt từ xa xưa. Cuộc giằng co 500 năm trên đất Quảng Nam mà xưa nay cho là cuộc tranh chấp Việt Chàm, thực ra, về bản chất, đó là việc người Kinh hòa huyết với người Chăm để thực hiện Kinh hóa sắc dân Chăm về di truyền và ngôn ngữ. Đó là quá trình hình thành của dân Quảng Nam.
Như vậy là, lịch sử Quảng Nam được hình thành trên đất Việt với người Việt và văn hóa Việt. Ở nhà sàn, mặc váy (xà rông), búi tó, ăn trầu, xăm mình… không chỉ của sắc tộc Chăm mà đó là văn hóa của người Việt từ Nam Dương Tử, qua Đông Dương tới tận Mã Lai Đa Đảo. Xin hỏi nhà văn Hồ Trung Tú: nếu Bắc Bộ không có nhà sàn thì câu tục ngữ trâu gõ mõ, chó leo thang là của xứ nào? Ai từng tế sống vợ: Bà đi đâu vội bấy để lão vất va vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá tọa…? Còn câu ca dao Kẻ thì mớ bảy mớ ba/ Người thì áo rách như là áo tơi nói với ta điều gì? Phải chăng cái váy nhiều tầng của đàn bà Chăm chính là trang phục “mớ bảy mớ ba” xa xưa của phụ nữ Bắc Bộ? Chỉ căn cứ vào vài hiện tượng đơn lẻ bề ngoài mà vội quy kết thành khác biệt dân tộc sao tránh khỏi khiên cưỡng?!
2. Các phương ngữ Việt hình thành như thế nào?
Theo quan niệm truyền thống, các học giả cho rằng, người Việt xuất hiện ở đồng bằng sông Hồng rồi di cư tới miền Trung, sau đó vào Nam đã tạo ra ba phương ngữ: phương ngữ Bắc Bộ, phương ngữ miền Trung và phương ngữ phía Nam. Nhưng sang thế kỷ này, khi đi tới tận cùng cội nguồn tộc Việt, mới nhận ra sự việc không phải vậy. Thanh Nghệ Tĩnh chính là nơi tổ tiên chúng ta định cư đầu tiên. Vì vậy, phương ngữ Thanh Nghệ là phương ngữ gốc của tộc Việt
Khi châu thổ sông Hồng hình thành, người Thanh Nghệ (chủ yếu là Thanh Hóa) đi ra, góp phần làm nên con người và tiếng nơi này. Do sống chung với nhiều sắc dân khác và cũng do thời gian hình thành quá dài nên tiếng nói Bắc Bộ xa dần ngữ âm Việt cổ. Tuy nhiên, vùng đất cổ Sơn Tây lưu dấu ấn tiếng Việt cổ rất rõ do dân tụ cư lâu đời. Tiếng nói người miền ven biển Nam Định, Thái Bình khá nặng lại có nhiều từ Việt cổ vì một bộ phận dân nơi đây từ xứ Nghệ theo Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ ra lập nghiệp vào giữa thế kỷ XIX.
Khi Nam tiến, người miền Trung đem tiếng việt cổ vào Nam: Tiếng miền Trung chia cho cả Bắc và Nam. Năm 1977 vào Rách Giá, tôi ngạc nhiên khi bắt gặp vùng ngôn ngữ lạ. Sống ở Tây Nam Bộ nhiều năm, tôi nhận ra đó là dấu vết từ vựng và cả ngữ âm tiếng Việt cổ miền Trung trong giọng nói bà con địa phương. Điều này có thể giúp trả lời thắc mắc của tác giả: Tại sao con lợn, bắp ngô ở ngoài Bắc lại biến thành con heo, trái bắp ở trong Nam? (trang140, lần in đầu). Lý do đơn giản vì không phải từ gốc đồng bằng Bắc Bộ mà là gốc miền Trung. Ta còn gặp nhiều nhiều hiện tượng “chia gia tài ngôn ngữ” thú vị:
Trung Bắc Nam
sắc/bén sắc bén
Khổ/đau khổ đau
Lười/biếng lười biếng
Lợn/heo lợn heo (tuy vậy vẫn không bỏ được bánh da lợn)
Ngô/bắp ngô bắp
3. Về chuyện đụng độ văn hóa Ấn Độ-China
Cho rằng văn hóa Việt là sản phẩm của cuộc đụng độ giữa hai nền văn hóa Ấn Đô-China là ý tưởng của các học giả Viễn Đông Bác cổ. Nhưng thực tế cho thấy, cả người đề xuất ý tưởng này lẫn những người ăn theo nói leo chẳng hề biết Ấn Độ là gì, Trung Hoa là gì! Trong khi thực tế, văn hóa Trung Hoa hình thành trên cơ sở văn hóa Việt. Còn Ấn Độ? Sự thực là thế này. Khoảng 80.000 năm trước, trên đường từ châu Phi sang phương Đông, người tiền sử đã theo cửa sông Hằng chiếm lĩnh đất Ấn. Nhưng 74000 năm trước, núi lửa Toba trên đảo Sumatra phun trào, phủ lớp nham thạch dầy 5 mét trên tiểu lục địa Ấn, tận diệt khoảng 10.000 người và tạo nên mùa đông nguyên tử hàng nghìn năm trên đất này. Khoảng 70.000 năm trước, người tiền sử đặt chân tới Việt Nam. 65000 năm trước, có những người Nguyên châu Phi Australoid từ Việt Nam đi về phía Tây tới Ấn Độ, trở thành cư dân đầu tiên trên đất Ấn (Năm 2009, tại hang Tam PaLing Bắc Lào, phát hiện sọ 63000 năm tuổi, là người của đợt di cư này). Khoảng 50.000 năm trước, người từ Việt Nam di cư tới Ấn Độ, sau này được gọi là người Dravidian, làm nên nền văn hóa nông nghiệp sông Indus rực rỡ. Khoảng 2000 năm TCN, người du mục Arien từ Ba Tư xâm lăng Ấn Độ, tiêu diệt và bắt người Dravidian làm nô lệ rồi áp đặt văn minh Bà La Môn. 500 năm TCN, hoàng tử Tất Đạt Đa người Dravidian, do thấm nhuần văn hóa nhân bản Việt tộc, sáng lập Phật giáo. Khoảng thế kỷ V-VI Phật giáo Ấn Độ du nhập đất Chăm. Là tôn giáo dựa trên nhân bản Việt tộc nên Phật giáo hòa vào xã hội Chăm một cách tự nhiên. Tới thế kỷ XII, sau khi trục xuất Phật giáo, Ấn Độ chuyển sang Ấn giáo với kinh Upanishad. Tuy nhiên, so với Bà la môn, Ấn Độ giáo nhân bản hơn: sự phân biệt đẳng cấp bớt khốc liệt, chế độ nô lệ bớt gay gắt. Người Chăm tiếp thu tôn giáo này trên cơ sở đạo Phật.
Do văn hóa Trung Hoa hình thành trên cơ sở văn hóa Việt nên từ xa xưa người Việt nhận thức rằng Hoa Việt đồng văn đồng chủng nên ngay ở đồng bằng sông Hồng việc chống đối văn hóa Trung Hoa không phải xu hướng chủ đạo mà chỉ là chống lại những yếu tố du mục dị biệt do kẻ thống trị áp đặt. Còn ở đất Quảng Nôm xa lơ xa lắc không hề có bóng dáng quan lính Trung Hoa và ngay cả nhà Nho rồi chữ Nho cũng hiếm, vậy thì làm sao nơi này có chuyện đụng độ văn hóa Hoa Việt? Phải chăng nói về sự đụng độ văn hóa Ấn Độ-China trên đất Quảng là tưởng tượng?
4. Về việc hình thành tiếng nói Quảng Nam.
Muốn nói việc việc hình thành tiếng nói Quảng Nam, trước hết phải bàn tới chuyện hình thành người Quảng Nam. Xin trở lại một chút về quá khứ. Cho đến hơn 2000 năm TCN, người từ Nam miền Trung trở về Nam là người Việt chủng Melanesian. Khi gặp gỡ người Mongoloid phương Nam từ Trung Quốc trở về, hai dòng người hòa huyết sinh ra lớp người có ngoại hình khác đôi chút với người phía Bắc như da ngăm đen, tóc xoăn, vóc dáng thấp hơn. Nhân chủng học gọi là dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Tiếng nói là tiếng Việt cổ, thuộc nhánh Melanesian, là nguồn gốc của ngôn ngữ Mã Lai-Đa đảo. (Cho đến nay, các học giả của chúng ta vẫn theo nhận thức cũ, cho rằng, người Chăm là dân Mã Lai-Đa Đảo, từ các đảo ngoài khơi du nhập. Nhưng thực tế, Chăm là hậu duệ người Melanesian sinh ra tại Việt Nam 70.000 năm trước, là tổ tiên của người Malayopolyneisian). Cho tới đầu Công nguyên, trên đất miền Trung, những sắc dân Việt sống hòa đồng. Nhưng khi người Trung Hoa chiếm đóng, đã tạo ra ranh giới hành chính phân chia cộng đồng Việt thành hai quốc gia. Sau hơn 1000 năm bị ngăn cách về hành chính, tiếng Chăm chắc chắn có biến đổi. Trong khi đó, người miền Trung và tiếng miền Trung đất Việt cũng được Kinh hóa. Người ta lầm tưởng Việt và Chăm là hai dân tộc (Nation). Khi nhà Trần quản lý đất châu Ô, châu Rí, quan lại người Việt do không hiểu phong tục địa phương, lại tiêm nhiễm cách nhìn phân biệt chủng tộc của phương Bắc nên coi người Chăm là ngoại tộc, man di. Vì đất Quảng là cửa mở duy nhất của con đường Nam tiến nên thường xuyên xảy ra cuộc tranh chấp Việt-Chiêm khốc liệt, gây nên những bất bình, khổ đau cho hai bên, mà người Chăm phải gánh chịu phần nặng nề.
Lịch sử đã làm xong công việc của nó. Nhưng đánh giá thế nào còn do sự hiểu biết cũng như thái độ nhân văn của mỗi sử gia. Tôi cho rằng, hình thành người Quảng Nam là quá trình chuyển hóa một bộ phận người Chăm thành sắc tộc Kinh. Ông Hồ Trung Tú cho rằng, tiếng Quảng Nam hình thành do người đàn bà chăm nói tiếng Việt. Thiết nghĩ, đó là một nguyên nhân nhưng không phải là cơ bản. Bởi lẽ, tiếng Chăm là tiếng Việt cổ nên tiếng nói vẫn gần gũi tiếng Kinh miền Trung từ nền tảng. Và như vậy, tiếng Quảng Nam là kết quả của sự chuyển hóa tiếng Chăm thành tiếng Kinh đất Quảng.
Cho rằng tiếng Quảng Nam đơn thuần do người Chăm nói tiếng Việt mà thành có gì đó không ổn. Bởi lẽ, nếu đó là sự thật thì phải có những vùng Chăm khác nói tiếng Việt như người Quảng Nam. Nhưng không hề có trường hợp thứ hai như vậy. Về nguyên lý, tiếng Chăm nơi đây cũng là ngôn ngữ chung của cộng đồng Chăm, không khác tiếng Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận, thậm chí của người Chăm Indonesia. Vậy vì sao người Quảng Nam có tiếng nói khác biệt đến thế? Điều này dẫn tới giả định, người Chăm đất Quảng Nam có giọng nói riêng của mình. Theo thiển nghĩ, đó chỉ có thể là sản phẩm địa phương, hình thành do khí trời, do mạch đất, do nguồn nước, cái mà dân gian gọi là thổ ngơi đặc biệt của xứ Quảng. Khi chuyển sang nói tiếng Kinh đã nói theo giọng đó!
Một câu hỏi đặt ra: tiếng nói từ Quảng Ngãi trở vào được hình thành như thế nào? Đó là tiếng miền Trung theo bước di dân. Do hoàn cảnh lịch sử, những cuộc di dân sau này thuận lợi hơn, đưa người miền Trung, người Quảng Nam vào Bình Định, Phú Yên. Rồi từ đây chiếm lĩnh đất Đồng Nai. Do con đường vào Nam khai thông và đất phía nam mở ra mênh mông nên di dân không còn phải như thời trước, giành đất với người Chăm. Bởi vậy, các làng Chăm hầu như giữ được cuộc sống truyền thống của mình. Nhờ đó, người di cư vẫn giữ tiếng nói miền Trung. Tuy nhiên, theo thời gian âm sắc miền Trung cũng nhạt dần.
3. Kết luận
Nói cho cùng, văn hóa, lịch sử là sản phẩm hoạt động của con người. Một khi chưa biết đích xác chủ nhân của nền văn hóa hay lịch sử thì mọi chuyện bàn về nó chỉ là ăn ốc nói mò. Thế kỷ trước, để tìm nguồn gốc con người, khoa học dựa vào cốt sọ, hòn đá, mảnh gốm rồi tiếng nói của các tộc người… Kết quả thu được không chỉ rất hạn chế mà còn dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng. Jared Diamond, giáo sư Đại học California, tác giả của những cuốn sách lừng danh: Loài tinh tinh thứ ba; Thép, súng và vi trùng; Sụp đổ… có câu nói đáng phải suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy!” 15 năm nay, nhiều cơ quan khoa học hàng đầu thế giới đưa ra hàng tấn cứ liệu di truyền học xác nhận không chỉ nguồn gốc người Việt mà cả nguồn gốc con gà, con chó, con lợn do người Việt thuần hóa đầu tiên trên thế giới. Không những thế, chỉ với 195 đôla gửi cho National Geographic cùng với mẫu nước miếng, người ta có thể biết chính xác tổ tiên mình hàng nghìn hàng vạn năm trước! Lạ là vì sao nhà nghiên cứu Hồ Trung Tú không biết tới điều này mà chỉ xoay quanh những tài liệu thế kỷ XX không chỉ cũ kỹ mà còn có cả những sai sai lầm, khiến cho công trình của ông không những không giải quyết căn cơ vấn đề cần giải quyết.
10. 10. 2015
Các quan điểm học thuật và văn phong trong bài viết này là của tác giả.
2259
2352
21640
225498
130677
114578441