Những góc nhìn Văn hoá

Văn hóa và thị trường: Từ khung sinh kế bền vững suy nghĩ về sự phát triển ở Nghệ An hiện nay

Công cuộc Đổi mới (1986) đã đưa nền kinh tế Việt Nam chuyển mình theo một hướng mới: chấp nhận nền kinh tế thị trường với tên gọi nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã làm thay đổi các mô hình sinh kế, qua đó tác động mạnh mẽ đến văn hóa cộng đồng. Nghiên cứu và đánh giá các mô hình sinh kế được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và xem đó là một cách để tiếp cận sự thay đổi về văn hóa cộng đồng và văn hoa dân tộc. Khung phân tích về sinh kế bền vững được giới khoa học đưa ra để làm công cụ cho việc nghiên cứu sinh kế và xóa đói, giảm nghèo cũng như xây dựng mô hình sinh kế. Cũng như các địa phương khác trong cả nước, Nghệ An bắt nhịp với sự phát triển kinh tế thị trường khá sớm và đạt được những kết quả nhất định. Dựa vào lý thuyết về khung sinh kế bền vững, bài viết này muốn phân tích thêm về các mô hình sinh kế và biến đổi văn hóa, qua đó góp phần trao đổi về phương hướng xây dựng các mô hình sinh kế mang tính bền vững ở Nghệ An.

Khung sinh kế bền vững trong thời đại phát triển bền vững

Trong khoảng hai thập niên qua, giới nghiên cứu đã và đang quan tâm nhiều đến vấn đề sinh kế và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Theo Murray (2002): “Trong nghiên cứu phát triển nông thôn và giảm nghèo, vấn đề sinh kế và sinh kế bền vững đã trở thành mục tiêu phân tích ở cả cấp vĩ mô và vi mô, theo ba hướng tiếp cận chính, đó là các tiếp cận đồng đại, các tiếp cận lịch đại và những tiếp cận hướng tới tương lai” (Dẫn theo Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr 15). Trong thời đại phát triển bền vững, những nghiên cứu về sinh kế cũng hướng theo khung sinh kế bền vững. Sinh kế bền vững được hiểu là tổng thể các điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người, kinh tế, xã hội, chính sách, thông tin để cộng đồng sinh tồn và phát triển nhằm hướng tới phát triển ổn định và bền vững. Khung sinh kế bền vững, được một số nhà nghiên cứu coi là “một cách tiếp cận toàn diện về các vấn đề phát triển thông qua việc nhấn mạnh đến việc thảo luận về sinh kế của con người và đói nghèo trong các bối cảnh khác nhau” (Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr 15).

Nhìn chung, khái niệm sinh kế bền vững (Sustainable livelihood) bắt nguồn từ những nghiên cứ trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo ở các nước, các vùng kém phát triển. Qua phân tích nhiều mô hình sinh kế, các nhà nghiên cứu đưa ra thảo luận nhằm tìm ra một khung sinh kế bền vững. Sau đó, Bộ Phát triển Quốc tế Anh (Department for Internatinal Development – DFID) đã tổng hợp và đưa ra khung sinh kế bền vững vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Khung sinh kế của DFID đã được các nhà nghiên cứu trong tổ chức này mở rộng, phát triển và dần phổ biến rộng rãi trong giới nhân học (Nguyễn Văn Sửu, 2015, 16). Nội dung chủ đạo của khung sinh kế bền vững là “lấy con người và sinh kế của họ làm trung tâm để phân tích, nghĩa là đặt con người ở trung tâm của sự phát triển” (Nguyễn Văn Sửu, 2015, tr 17). Khung sinh kế này đã đề cập đến các thành tố hợp thành sinh kế của con người, từ các ưu tiên và chiến lược họ lựa chọn để thực hiện các ưu tiên của mình; các chính sách ảnh hưởng đến cách tiếp cận của họ, khả năng sử dụng các loại vốn và môi trường sống quanh họ. Trong phân tích khung sinh kế bền vững, các nhà nghiên cứu đã tập trung vào các loại vốn, trong đó chủ yếu là năm loại vốn gồm có vốn vật chất (cơ sở hạ tầng, hàng hóa...), vốn tài chính (nguồn lực tài chính để sử dụng), vốn xã hội (quan hệ xã hội, mạng lưới, niềm tin, nhóm thành viên...) vốn con người (tri thức, kỹ năng làm việc, sức khỏe...) và vốn tự nhiên (đất đai, rừng, nước, nguyên liệu...). Và hiện nay, những nghiên cứu về sinh kế bền vững ở Việt Nam đang tập trung vào việc tranh luận về các loại vốn này và vai trò của các loại vốn (Nguyễn Văn Sửu, 2015). Một vấn đề quan trọng mà khung sinh kế bền vững trên chưa nhấn mạnh hay chưa đề cập đúng vai trò của nó là vốn văn hóa. Đối với các cộng đồng, vốn văn hóa giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển. Nếu phân tích sinh kế của một cộng đồng mà bỏ qua hay coi trọng chưa đúng mức vốn văn hóa thì sẽ là một thiếu sót khó chấp nhận được. Vậy nên trong phân tích khung sinh kế, cần phải phân tích vai trò của 6 loại vốn của cộng đồng mới có cái nhìn toàn diện hơn và sâu sắc hơn.

Từ nguồn cảm hứng về học thuật trong nghiên cứu về người nông dân ở châu Á đã và đang thịnh hành trong giới học thuật trên thế giới, tiêu biểu như cuộc tranh luận giữa quan điểm của J. Scott và S. Popkin về người nông dân châu Á. J. Scott cho rằng người nông dân ở châu Á luôn tránh rủi ro, lựa chọn an toàn là trên hết trong việc đầu tư cuộc sống, đầu tư kinh tế (J. Scott, 1976). Còn S. Popkin lại cho rằng người nông dân châu Á là người duy lý, luôn có những tính toán trong việc đầu tư để thu lợi nhuận cao nhất (S. Popkin, 1979). Cuộc tranh luận này châm ngòi cho một công cuộc đa dạng hóa quan điểm trong nghiên cứu nhân học ở châu Á (và Việt Nam). F. Ellis đưa ra quan điểm kinh tế học nông nghiệp, mở rộng thêm quan điểm kinh tế đạo đức của J. Scott về người nông dân châu Á (Ellis, Frank, 1993). Còn McElwee nghiên cứu về quá trình phát triển của cộng đồng người Kinh ở huyện Cẩm Xuyên (tỉnh Hà Tĩnh) xem sự đa dạng hóa sinh kế như là một lựa chọn để giảm thiểu rủi ro trong quá trình phát triển (McElwee, 2007). Trong khi đó, Oscar Salemink đặt ra vấn đề quan hệ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ như là một lịch sử của sự phát triển kinh tế và qua đó người dân đã giải quyết các vấn đề phát triển quan trọng của mình (Oscar Salemink, 2008). Quan điểm này tiếp tục được Alexandra Winkels chia sẻ khi xem mối liên hệ giữa các khu vực kinh tế như là một sự mở rộng sinh kế từ phân tích mối liên hệ giữa đồng bằng sông Hồng và Tây Nguyên. (Alexandra Winkels, 2008).

Với các nhà nghiên cứu trong nước, sinh kế tộc người cũng được quan tâm trong hơn một thập kỷ qua. Tô Duy Hợp và các cộng sự khi nghiên cứu về xã hội học nông thôn đã đi sâu phân tích động lực và sự lựa chọn các mô hình sinh kế để phát triển trên cơ sở lý thuyết Khinh-Trọng. Quan điểm này nhấn mạnh sựa lựa chọn mô hình sinh kế của chủ thể và các yếu tố tác động đến sự lựa chọn đó (Tô Duy Hợp 2006; 2007 và 2012). Võ Tòng Xuân và các cộng sự dành mối quan tâm đến vấn đề sinh kế khi đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề đất đai (Võ Tòng Xuân, Trần Thị Phương, Lê Cảnh Tùng, 2008). Gần đây, nghiên cứu sinh kế tập trung nhiều vào sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của các cộng đồng. Nghiên cứu của Ngô Phương Lan về sự chuyển dịch kinh tế từ trồng lúa sang nuôi tôm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã phân tích động cơ, mục tiêu của người dân, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của vốn xã hội trong việc lựa chọn sinh kế (Ngô Phương Lan, 2014). Hay các nghiên cứu về sinh kế của người dân ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa của Nguyễn Văn Sửu (2014), Nguyễn Duy Thắng (2007)... Các nghiên cứu này nhấn mạnh đến vai trò của đất đai và các quan hệ liên quan trong phát triển kinh tế.

Tất cả điều đó cho thấy sinh kế và khung sinh kế bền vững là một vấn đề phức tạp và đang có nhiều tranh luận với nhiều quan điểm khác nhau. Phân tích theo khung sinh kế bền vững chưa thể đi đến thống nhất. Đó cũng là một đặc điểm trong nghiên cứu về sinh kế ở Việt Nam hiện nay.

Phân tích mô hình sinh kế ở Nghệ An theo khung sinh kế bền vững

Trong khung sinh kế bền vững có nhận mạnh đến vai trò của 6 loại vốn là vốn tự nhiên, vốn con người, vốn văn hóa, vốn xã hội, vốn vật chất và vốn tài chính. Khi phân tích một mô hình sinh kế, không nhất định phải theo lần lượt các loại vốn này mà có thể trình bày theo một trật tự khác nhằm nhận mạnh vai trò của các nhóm yếu tố khác nhau trong mô hình sinh kế đó. Khái niệm “vốn” (Capital) sử dụng ở đây được hiểu như là một nhóm các yếu tố tác động đến mô hình sinh kế của một cộng đồng người. Hiểu như vậy để trong quá trình phân tích có thể nhấn mạnh yếu tố khác nhau trong nhóm dù chúng vẫn được gom vào trong khái niệm “vốn”.

Vốn tự nhiên (Natural Capital) giữa một vai trò quan trọng trong sinh kế của người dân. Vốn tự nhiên ở đây được hiểu là các nguồn lực tự nhiên phục vụ cho cuộc sống của người dân. Với diện tích 16.493,6km2, Nghệ An là tỉnh lớn nhất Việt Nam. Tự nhiên Nghệ An đa dạng và cũng phức tạp, có vùng đồi núi trập trùng ở phía Tây, vùng trung du trải dài, vùng đồng bằng ven biển và vùng biển. Có thể nói Nghệ An là một tiểu thế giới, một vùng tự nhiên đa dạng. Vốn tự nhiên quan trọng nhất ở đây là đất đai, rừng, hệ thống sông suối và nước ngầm, hệ thống sinh vật đa dạng, các loại khoáng sản, biển... Tuy nhiên, việc phát huy các nguồn vốn tự nhiên trong phát triển kinh tế xã hội ở Nghệ An là vấn đề cần thảo luận nhiều. Trước hết, từ nhận thức của những người tham gia hoạch định phát triển. Trước nay, những người hoạch định phát triển thường coi vùng núi phía Tây là vùng khó khăn, kém phát triển và là gánh nặng cho nền kinh tế địa phương. Đồng thời họ xem vùng đồng bằng ven biển có điều kiện thuận lợi và trở thành đầu kéo cho nền kinh tế. Và trong chiến lược phát triển kinh tế, người ta nhấn mạnh đến phát triển đồng bộ theo nghĩa đưa miền núi phát triển kịp miền xuôi. Điều này hơi vô lý và có phần không thực tiễn. Bằng chứng là rất ít có vùng núi nào có thể phát triển kịp vùng đồng bằng hay đô thị về mặt kinh tế. Vấn đề ở đây là cần nhấn mạnh đến quan điểm phát triển hài hòa và hợp lý trên cơ sở khai thác vốn tự nhiên của từng vùng nhỏ, từng địa phương cụ thể. Trên quan điểm đó, cần phân chia Nghệ An thành các tiểu vùng khác nhau, thậm chí cần nhìn nhận thế mạnh của từng địa phương nhằm có định hướng phát triển hợp lý hơn. Không nhất thiết vùng nào cũng phải đặt kinh tế làm mục tiêu cao nhất. Vùng trung du và đồng bằng có nhiều đất canh tác nông nghiệp thì việc phát triển nông nghiệp cần được coi trọng. Vùng đồng bằng ven biển có điều kiện phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ... thì việc ưu tiên kinh tế và xem mục tiêu kinh tế, thu nhập là hàng đầu. Nhưng miền núi cần có quan điểm khác nhau: phát triển để bảo tồn và phát triển để bảo vệ. Không nên đặt gánh nặng phát triển kinh tế, tăng nguồn thu đối với vùng miền núi mà xem nhiệm vụ phát triển để bảo tồn quan trọng nhất. Phát triển ở vùng miền núi Nghệ An cần gắn với bảo tồn thảm tự nhiên như rừng, sông, suối, hệ thực vật và con người, văn hóa tộc người. Đồng thời đây là vùng biên giới quan trọng nên phát triển là để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ đất nước. Xem hai nhiệm vụ này là mục tiêu chiến lược của phát triển chứ không phải định hướng vùng phát triển cho kịp với vùng trung du, đồng bằng và ven biển. Khai thác nguồn vốn tự nhiên cũng là vấn đề quan trọng của Nghệ An. Rừng đang bị chặt phá, khai thác quá mức và diện tích giảm liên tục. Cả khu vực rừng quốc gia Phù Mát cũng có nguy cơ bị thu hẹp. Các dòng sông, suối đang bị ô nhiễm dần, không kiểm soát được dòng chảy và hay gây lũ lụt, nhiều nhà máy thủy điện mọc lên nhưng thiếu hợp lý và thiếu hiệu quả. Hệ thống sinh vật, thảm thực vật đang bị đe dọa và bị tiêu diệt dần cùng với rừng, sông, suối. Các vùng biển cũng bị ô nhiễm dần do khai thác không hợp lý và thiếu ý thức bảo vệ biển. Trong khi đó, các nguồn tài nguyên khoáng sản thì thiếu quy hoạch để khai thác phục vụ phát triển. Tình trạng khai thác tài nguyên tự phát trong thời gian dài đã làm cạn kiệt nguồn vốn này. Giữa những năm 1960, vùng Nghệ An có rất nhiều nguồn khoáng sản quý như vàng, đá quý, kim loại hiếm... nhưng hiện nay đã bị kiệt quệ. Hiện nay, khai thác khoáng sản vẫn chưa có quy hoạch chung và chiến lược nhất định, nhiều địa phương còn có vấn đề khai thác tự phát, không ai quản lý. Cần nhấn mạnh rằng với nguồn vốn tự nhiên đa dạng, Nghệ An cần có một chính sách phát triển đa dạng và hợp lý cho từng vùng nhỏ, từng địa phương theo điều kiện và bối cảnh nhất định.

Vốn con người (Human capital) là nguồn lực quan trọng nhất trong sự phát triển của các cộng đồng. Các mô hình sinh kế đều nhấn mạnh vai trò của loại vốn này và xem đây là trung tâm của mô hình sinh kế. Con người cũng là đối tượng, mục tiêu mà sinh kế bền vững hướng tới trong một sự hài hòa với tự nhiên và kinh tế. Nghệ An được coi là đất học, người Nghệ được coi là cộng động có tinh thần hiếu học, chịu thương chịu khó, yêu lao động, dũng cảm và kiên cường... Nói chung, có rất nhiều đặc điểm tốt đẹp. Không phủ nhận thế kỷ XX ở Nghệ An đã sản sinh ra một thế hệ các trí thức cách mạng có nhiều đóng góp. Chính những người Nghệ đã có nhiều công lao trong các cuộc cách mạng và các cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc. Nhưng khi nói như vậy để giới thiệu cho một người lạ, hay để khoe mé, để tự hào thì được, còn để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh mà nhìn nhận như vậy là chủ quan, thiếu cả lý luận về phát triển. Nhận thức về con người với tư cách là một loại vốn trong phát triển sinh kế cần nhìn nhận toàn diện và có hệ thống hơn. Không có con người Nghệ An nói chung trong sự phát triển nhưng có nguồn vốn con người Nghệ An. Đó là những con người cụ thể cộng đồng, những tộc người đang sinh sống ở đây và tham gia hàng ngày vào quá trình phát triển. Vậy nên, cần thấy được con người Nghệ An cũng đa dạng về mặt dân tộc, văn hóa. Ngoài người Kinh sinh sống chủ yếu ở vùng trung du, đồng bằng và ven biển cùng một số vùng miền núi mới di cư lên, thì Nghệ An còn có hàng chục các nhóm tộc người khác sinh sống ở vùng miền núi như Thái, Mường, Khơ mú, Hmong, ... Tương ứng với các cộng đồng tộc người là các thiết chế xã hội và các nền văn hóa riêng. Tất cả những con người, những tộc người này đều là vốn con người của Nghệ An. Vậy nên cần nhận thức cụ thể về từng nhóm người, từng tộc người để phát huy sức mạnh của họ trong quá trình phát triển. Mỗi cộng đồng đều có những thế mạnh riêng với những kinh nghiệm, đặc tính khác nhau nên nếu phát huy được điểm mạnh thì đó là một động lực quan trọng cho sự phát triển và ngược lại. Trong tư duy phát triển lấy người Kinh làm trung tâm đang có nhiều vấn đề. Đưa những kinh nghiệm, kỹ năng của người Kinh lên để dạy cho các dân tộc khác ở vùng miền núi trong phát triển kinh tế là không hợp lý. Các cộng đồng này hàng trăm năm nay sinh sống ở đây và họ có kinh nghiệm trong khai thác tự nhiên cũng như phát triển các phương thức, mô hình sinh kế thích hợp. Không thể yêu cầu họ phát triển công nghiệp hay các ngành dịch vụ vốn quá xa lạ với họ với mục tiêu là đưa đồng bào phát triển kịp với người Kinh. Mặt khác, khi người Kinh di cư lên miền núi và sử dụng cách thức của mình khai thác tự nhiên sẽ ảnh hưởng nhiều đến các nguồn tài nguyên này. Phần lớn rừng bị chặt phá, sông suối ô nhiễm hay sự khai thác vô tổ chức các tài nguyên ở miền núi đều do người Kinh thực hiện. Bên cạnh đó, cũng cần nhìn nhận một điều là việc sử dụng nguồn lực con người ở vùng đồng bằng cũng chưa hẳn hợp lý. Nhưng đặc trưng đáng tự hào về người Nghệ đã nêu trên, chủ yếu nói về người Kinh vùng xuôi. Nhưng với những con người như vậy đã thật sự được phát huy trong quá trình phát triển hay chưa? Người Nghệ đỗ đạt rất nhiều và có uy tín trong các cơ quan đào tạo cũng như công tác. Nhưng những người đỗ đạt quay về công tác ở quê hương rất ít và số thành công lại càng ít hơn. Tại sao lại có những nghịch lý trớ trêu như vậy. Phải chăng trong hoạch định phát triển của tỉnh nhà đã bỏ qua nguồn vốn con người, hay đúng hơn là chưa coi trọng đúng mức nguồn vốn này trong sự phát triển. Và chính những con người xứ Nghệ hiện nay cũng đang say sưa với cái danh xưng đất học vốn đã trở thành dĩ vãng và trốn tránh một thực tế là họ đang ngày càng hèn yếu với chính mình trước đây. Những tệ nạn xã hội, tư duy bảo thủ, cũ rích và cả những gánh nặng văn hóa đã khiến cho người Nghệ hôm nay kém cỏi hơn nhiều. Họ thể hiện một năng lực tiếp cận thị trường kéo cỏi, thiếu cởi mở và thiếu cả những khát vọng làm giàu, thay đổi cuộc đời mình hay thay đổi quê nhà. Khi hiện tại không có gì đáng tự hào người ta mới đi tìm những vẻ vang trong quá khứ. Điều này cho thấy vốn con người-động lực quan trọng nhất để xây dựng sinh kế bền vững đang không được bền vững. Vậy nên cần có những nhận thức thực tiễn hơn về nguồn vốn con người để thật sự phát huy nó trong quá trình phát triển và đó sẽ là điều kiện cơ bản cho những bước ngoặt đi lên của Nghệ An trong tương lai.

Vốn văn hóa (Cultural Capital) vừa là nguồn lực, vừa là mục tiêu trong phát triển sinh kế bền vững. Vốn văn hóa bao gồm một hệ thống biểu hiện như giá trị, chuẩn mực, biểu tượng, tri thức, ngôn ngữ dân tộc, phong tục tập quán, trang phục, ẩm thực... Nghệ An có một nguồn vốn văn hóa đa dạng được phân biệt bởi hệ thống giá trị văn hóa của các dân tộc khác nhau, các vùng và địa phương khác nhau. Ở đó có văn hóa vùng cao của các dân tộc ở miền núi phía Tây, có văn hóa của người Kinh ở vùng trung du và đồng bằng, văn hóa biển của cộng đồng người Kinh sống ven biển… Là vùng đất từng có một thời gian dài trong lịch sử là nơi tiếp giáp, giao thoa của nhiều nền văn hóa: văn hóa Đại Việt từ ngoài Bắc vào, văn hóa Champa từ phía Nam, văn hóa núi với văn hóa biển… nên Nghệ An tích hợp được một vốn văn hóa phong phú. Truyền thống hiếu học và truyền thống cách mạng là những yếu tố thu hút đối với văn hóa xứ Nghệ. Vốn văn hóa đa dạng là một thế mạnh để phát triển, đồng thời cũng là một thách thức trong phát triển bền vững kinh tế với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các tộc người, các địa phương. Việc phát huy các giá trị văn hóa trong kinh tế thị trường là một vấn đề khó trong khi tác động của thị trường đến văn hóa lại rất nhanh chóng và mạnh mẽ. Vậy nên nhận thức và lựa chọn những yếu tố nào trong vốn văn hóa để kích thích phát triển kinh tế và bảo tồn giá trị, bản sắc văn hóa còn cần nhiều nghiên cứu và thảo luận để đưa ra những chính sách hiệu quả và hợp lý.

Vốn xã hội (Social capital) một khái niệm được nói đến rất nhiều trong nghiên cứu nhân học, đặc biệt trong nghiên cứu về sinh kế cộng đồng. Người Nghệ có một vốn xã hội rộng lớn và đa dạng. Thể hiện “sự giàu có” về nguồn vốn xã hội của người Nghệ là họ có một mạng lưới quan hệ rộng lớn ở gần như mọi vùng miền khắp cả nước. Người Nghệ từ quê đi ra khắp nơi sinh sống nhưng luôn giữ mối liên hệ mật thiết với quê hương và với các cộng đồng, các nhóm cùng quê sống gần với họ. Mạng lưới quan hệ xã hội này cho phép họ hoạt động trên nhiều lĩnh vực và có sự hỗ trợ hợp tác với nhau chặt chẽ. Mạng lưới này cũng giúp người Nghệ tiếp cận các điều kiện phát triển mới hơn và tiếp cận thị trường lao động cũng như thị trường hàng hóa nhanh hơn. Các hội đồng hương Nghệ An rải khắp các địa phương, đặc biệt là các đô thị lớn là cầu nối để người Nghệ vươn ra nhiều nơi lập nghiệp (Bùi Minh Hào, 2014). Tuy nhiên, tính cục bộ hay tính cố kết cộng đồng của người Nghệ nhiều khi cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của họ. Tâm lý đám đông và sự tự tôn quá mức trở thành một rào cản lớn cho việc tiếp cận thị trường và tiếp cận các quy trình sản xuất hiện đại mà người Nghệ mong muốn vươn ra.

Vốn vật chất (Physical capital) được hiểu là các điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển, là một nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế thị trường. Khi các cơ sở hạ tầng và các loại sản phẩm hàng hóa không được phát triển và nâng cấp thì việc tiếp cận thị trường thêm khó khăn. Vốn vật chất ở Nghệ An trong nhiều năm qua đã được đầu tư và xây dựng nhiều. Các tuyến đường huyết mạch được sửa sang, mở rộng và nâng cấp, tạo điều kiện cho giao thông thuận lợi hơn. Các đường nối liền các địa phương trong tỉnh cũng được đầu tư xây dựng. Nhìn chung hệ thống giao thông các cấp được cải tạo và nâng cấp hơn, điều kiện giao thông giữa các vùng, địa phương trở nên thuận lợi hơn. Bên cạnh đó là sự nâng cấp các yếu tố khác như đường điện, hệ thống cơ sở vật chất cho y tế, giáo dục và hệ thống chợ được đầu tư nhiều hơn. Điều đó thể hiện nguồn vốn vật chất được tăng cường đáng kể. Tuy nhiên, sự đầu tư đó chưa đáp ứng được điều kiện phát triển. Vốn vật chất thiếu đồng bộ, trong khi vùng đồng bằng, ven biển có cơ sở hạ tầng tốt hơn thì vùng miền núi phía Tây vẫn còn gặp nhiều khó khăn, yếu kém. Nhiều dự án để cải tạo vốn vật chất được thực hiện nhưng hiệu quả thấp. Điều kiện để phát triển kinh tế thị trường là cơ sở vật chất và điều kiện vật chất ở khu vực nông thôn, miền núi hạn chế nên khả năng tiếp cận thị trường của người dân cũng khó khăn hơn. Trong khi đó, việc đầu tư hạ tầng cũng manh mún, thiếu chiến lược và theo phong trào, sự kiện làm cho quy hoạch phát triển càng thêm khó khăn, kém hiệu quả hơn.

Vốn tài chính (Financial capital) là một cụ thể hóa nguồn vốn kinh tế (Economical Capital), là nguồn vốn để con người đầu tư vào phát triển kinh tế. Ngoài nguồn vốn tự huy động của người dân trong tỉnh thì Nghệ An còn nhận được một nguồn vốn tài chính từ con em ở xa quê gửi về tái đầu tư để kiến thiết quê hương (Bùi Minh Hào, 2014). Tuy nhiên, vốn tài chính vẫn là một điểm yếu trong phát triển sinh kế của người Nghệ, đặc biệt là người dân vùng miền núi phía Tây. Sự yếu kém về vốn tài chính làm cho kinh tế thiếu sức đầu tư lớn, thiếu những tập đoàn, công ty lớn để làm đầu kéo cho kinh tế tỉnh nhà. Nhưng có thể coi đó hạn chế chung cả cả nước chứ không của riêng Nghệ An. Vấn đề là nhận thức và sử dụng nguồn vốn này như thế nào? Bao nhiêu năm cơ chế xin cho đã ảnh hưởng nhiều đến tư duy về tài chính của con người ở đây. Sự đầu tư tài chính cho phát triển kinh tế khác với cứu trợ tài chính cho đối tượng chính sách. Nó cần tập trung nguồn vốn để phát triển một ưu thế của một vùng, một địa phương hay một bộ phận của tộc người. Không thể dàn trải, cào bằng tài chính để phát triển kinh tế như một chính sách hỗ trợ người dân. Sự tiếp cận thị trường là sự phát triển năng lực cá nhân của một bộ phận trong cộng đồng nên cần đầu tư, hỗ trợ cho nhóm này phát triển, đồng thời cứu trợ cho những nhóm yếu thể để có điều kiện vươn lên. Một chính sách tài chính tối ưu là phân loại được các hạng mục và các đối tượng cụ thể để đầu tư. Việc này thì Nghệ An chưa làm tốt, chủ yếu vẫn là đầu tư mang tính gia đình, do nội lực và thiếu định hướng, thiếu hỗ trợ từ nhà nước.

Hướng đến xây dựng một mô hình sinh kế bền vững ở Nghệ An

Trước hết, cần khẳng định lại một lần nữa rằng sẽ không thể có một mô hình sinh kế bền vững cho mọi cộng đồng. Những phân tích này mong muốn hướng đến những nguyên tắc chung, điều kiện chung cho việc xây dựng một các mô hình sinh kế tối ưu và khả dụng trong quá trình phát triển. Như vậy, một mô hình sinh kế mang tính bền vững là một mô hình sinh kế có sự phù hợp và linh động trong những biến đổi bất ngờ của điều kiện tự nhiên, sự biến đổi của thị trường và cả những biến đổi xã hội nhất định. Tức là mô hình này có thể đảm bảo cho con người sống và phát triển được trong các biến động của tự nhiên, kinh tế và lịch sử. Trong quan điểm phát triển bền vững nhấn mạnh sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, trong khung sinh kế bền vững cũng nhận mạnh yếu tố để có mô hình sinh kế sao cho phù hợp với quan điểm phát triển bền vững.

Hướng đến một khung sinh kế bền vững cần nhận thức rõ về quá trình phát triển. Ai phát triển và phát triển cho ai là một câu hỏi quan trọng trong quá trình nhận thức và thực hành vấn đề này. Trong nhiều năm thực hiện cơ chế xin-cho, quan điểm người Kinh đi xây dựng và giúp đồng bào miền núi phát triển gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng đến các nguồn vốn. Hay việc các nhà quản lý độc quyền trong hoạch định đường lối, mô hình phát triển, xem đây là việc của giới quản lý chuyên nghiệp mà xa lánh ý kiến tham vấn của cộng đồng chủ thể hay nhà khoa học cũng gây ra nhiều hạn chế. Khi bắt đầu một dự án xây dựng mô hình sinh kế mới mang tính bền vững cần phải có một sự phân tích các bên liên quan thật sự sâu sắc và rõ ràng, để nhận dạng rõ những phía liên quan trong quá trình khám phá đó và lợi ích, tác động khi thực hiện dự án để tránh những hậu quả, hạn chế những hạn chế của nhận thức chủ quan và hẹp hòi (Hà Hữu Nga, 2010a). Khi trực tiếp xây dựng mô hình sinh kế mới có tính bền vững, cần phải lấy ý kiến “tham vấn cộng đồng”, để những người dân là chủ thể của mô hình sinh kế đó tham gia và góp phần quyết định việc xây dựng mô hình sinh kế của họ. Họ là người đề bạt nguyện vọng và là người nhận lợi ích cũng như chịu mọi tác động từ mô hình sinh kế đó (Hà Hữu Nga, 2010b). Như vậy, trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển sinh kế ở Nghệ An cần nhấn mạnh quan điểm phân vùng nhỏ và gắn các mục tiêu chủ chốt theo lợi thế và vị thế của từng vùng, không đặt mục tiêu kinh tế, thu nhập lên tất cả các vùng. Có vùng phát triển để làm kinh tế, có vùng phát triển để bảo tồn và cso vùng phát triển để bảo vệ. Để tiến hành xây dựng các mô hình sinh kế hợp lý cho từng vùng nhỏ, từng địa phương cần thống nhất chung là đặt vị trí của con người cụ thể là chủ thể của các cộng đồng làm trung tâm, làm chủ quá trình phát triển. Để họ đóng vai trò quyết định trong việc lựa chọn con đường và phương pháp sinh tồn của họ trong điều kiện môi trường của họ.

Phân tích mô hình sinh kế ở Nghệ An trên đây cho thấy một điều thật khó để phát triển cả 6 loại vốn cùng một lúc cho một cộng đồng theo khung sinh kế bền vững. Trong khi mỗi một cộng đồng, một địa phương có những lợi thế nhất định về các nguồn vốn đồng thời cũng có những hạn chế đến từ các nguồn vốn đó. Vậy nên mô hình có đầy đủ cả sáu nguồn vốn phục vụ phát triển là mơ ước, còn việc cần làm là tạo khung chinh sách sao cho để khắc phục những hạn chế về các nguồn vốn trong quá trình phát triển. Có các nguồn vốn chưa đủ mà cần sử dụng nguốn vốn đó sao cho hợp lý và hiệu quả.

Quá trình phát triển kinh tế thị trường cũng gây sức ép thật sự lên môi trường và văn hóa của các cộng đồng. Sự Kinh hóa văn hóa, thương mại hóa văn hóa và sự quá tải của môi trường là điều cần bàn đến trong một mô hình sinh kế. Muốn hạn chế điều này cần phải thúc đẩy nội lực của chính chủ thể phát triển, trả lại các nguyên liệu sản xuất, phương tiện sản xuất cho người dân để họ có quyền sở hữu và sử dụng trong quá trình phát triển của mình. Quan trọng nữa là cần chú trọng phát triển con người. Cần đưa họ về vị thế chủ thể cảu sự phát triển, làm cho họ trở lại như xưa, mạnh mẽ và kiên cường lao động. Đồng thời đào tạo và giúp đỡ họ tiếp cận các kỹ năng, thông tin và tư duy mới về sự phát triển. Mọi việc đều hướng đến để họ làm chủ tất cả cuộc sống của họ chứ không phải biến họ từ lệ thuộc vào tự niên trở thành lệ thuộc vào người Kinh, lệ thuộc vào ký thuật và lệ thuộc vào thị trường.

Nói tóm lại, một mô hình sinh kế mang tính bền vững cho Nghệ An phải là một mô hình được đầu tư cả 6 loại vốn mà khung sinh kế bền vững đưa ra, nhưng có độ thích ứng và cơ động trước các biến đổi của đời sống kinh tế thị trường, tự nhiên và cả lịch sử xã hội. Trong mô hình đó, con người là trung tâm, làm chủ các loại vốn phát triển và làm chủ chiến lược phát triển cũng như làm chủ hoàn toàn cuộc sống của họ. Để hướng đến một mô hình như vậy, có lẽ còn cần nhiều thời gian và nhiều nỗ lực của rất nhiều phía tham gia vào công cuộc phát triển./.

..........................

Tài liệu tham khảo

Alexandra Winkels (2008): ““Mở rộng sinh kế”: mối liên hệ kinh tế-xã hội giữa vùng đồng bằng sông Hồng và Tây Nguyên”. In trong “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”. Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, trang 99-116.

Bùi Minh Hào (2014): “Biến đổi văn hóa ở các cộng đồng sống xa quê hương: trường hợp người Nghệ ở Hà Nội”. Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 277, ngày 25-9-2014.

Ellis, Frank (1993): “Peasants Economics: Farm Households and Agrarian Devolopment”, 2ndEdition, Cambridge University Press.

Hà Hữu Nga (2010a): “Phân tích các bên liên quan trong các dự án lớn và các chương trình trợ giúp phát triển”. Tài liệu tập huấn cho dự án của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Hà Nội.

Hà Hữu Nga (2010b): “Tham vấn cộng đồng trong các dự án phát triển”. Tài liệu tập huấn cho dự án của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Hà Nội.

Lê Văn Khoa, Phạm Văn Tú (đồng chủ biên), Đặng Hoàng Giang, Phan Đình Nhã, Lê Thành Văn (2014): “Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên”. Nxb Tri thức, Hà Nội.

McElwee, Pamela (2007): “From the Moral Economy to the World Economy: Revisiting Vietnamese Peasants in the Globalizing Era”. Journal of Vietnamese Studies, vol.3, No.2, pp 57-107.

Ngô Thị Phương Lan (2014): “Từ lúa sang tôm: hành vi giảm thiểu rủi ro và khai thác vốn xã hội của nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Đình Lộc: “Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An”. Nxb Nghệ An, 1993.

Nguyễn Văn Sửu (2014): “Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội”. Nxb Tri thức, Hà Nội.

Nguyễn Văn Sửu (2015): “Khung sinh kế bền vững: một cách phân tích toàn diện về phát triển và giảm nghèo”. In trong “Nhân học phát triển: lich sử, lý thuyết và công cụ thực hành”. Nxb Tri thức, Hà Nội, trang 15-33.

Nguyễn Duy Thắng (2007): “Sử dụng vốn xã hội trong chiến lược sinh kế của nông dân ven đô Hà Nội dưới tác động của đô thị hóa”. Tạp chí Xã hội học, số 4, trang 37-47.

Neefies, Koos (2008): “Môi trường và sinh kế: các chiến lược phát triển bền vững”. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

James C. Scott (1976): “The Moral Economy of the Peasant: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia”. Yale Univ Pr. USA.

Oscar Salemink (2008): “Một góc nhìn từ vùng cao: phần lịch sử quan trọng về mối quan hệ giữa đồng bằng và miền núi Việt Nam”. In trong “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”. Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, trang 11-36.

Samuel L. Popkin (1979). “The rational Peasant. The political Economy of rural Society in Vietnam”. University of California Press, Ltd. USA.

Tô Duy Hợp (2006): “Biến đổi tam nông: một số vấn đề lý luận cơ bản”. Bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Biến đổi xã hội nông thôn Việt Nam dưới tác động của đô thị hóa, tích tụ ruộng đất và chính sách dồn điền đổi thửa: những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp”.

Tô Duy Hợp (2007): “Khinh-Trọng, một quan điểm lý thuyết trong nghiên cứu triết học và xã hội học”. Nxb Thế giới, Hà Nội.

Tô Duy Hợp (2012): “Khinh-Trọng: Cơ sở lý thuyết”. Nxb Thế giới, Hà Nội.

Võ Tòng Xuân, Trần Thị Phương, Lê Cảnh Tùng (2008): “Phát triển nông thôn bền vững: Chính sách đất đai và sinh kế”. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576455

Hôm nay

2259

Hôm qua

2332

Tuần này

21768

Tháng này

223512

Tháng qua

130677

Tất cả

114576455