Những góc nhìn Văn hoá

Suy nghĩ về vấn đề chú thích, chú giải Truyện Kiều

Truyn Kiu là tác phẩm vĩ đại trong văn học cổđiên Việt Nam, sáng tác cách nay đã gần 200 năm, có nhiều từcổ, nhiều thành ngữ, điển cốTrung Quốc, người Việt Nam hiện đại sống trong một giai đoạn văn hóa khác rõ ràng không dễđọc. Mặt khác văn bản tác phẩm qua con đường chép tay, khắc ván khắp ba miền, lại qua nhiều bàn tay phiên âm, biên tập, sửa chữa, không tránh khỏi có nhiều sai biệt cần đính chính. Cho nên bất cứấn phẩmTruyn Kiu nào dù chữNôm hay quốc ngữđều phải có chú thích, khảo dị, chú giải. Đó cũng là thông lệđối với bất cứtác phẩm cổđiển nào trên thếgiới. Mởxem các tác phẩm cổđiển Trung Quốc như Kinh Thi, Ttruyn, Skí, Ly Tao…ta đều thấy chú thích dày đặc.

Truyn Kiu Nôm từcác bản in thếkỉXIX, nhưLiễu Văn Đường (1866, 1871), Thịnh Mĩ Đường (1879), Duy Minh Thị(1872), Quan Văn Đường (1879) đều chưa thấy có chú thích. Bắt đầu từbản Kiều Quốc ngữcủa Trương Vĩnh Kí (1875, in lại, bổsung 1911), rồi Kiều Nôm Kiều Oánh Mậu (1902) mới có chú thích bằng chữquốc ngữ, chữHán. Rồi sau đó từbản Kiều Phạm Kim Chi, Bùi Khánh Diễn, Chiêm Vân Thị, Bùi Kỉ, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Lê Văn Hòe việc chú thích ngày một nhiều, mỗi ngày mỗi càng thêm cụthểkĩ lưỡng. Phải khẳng định rằng, chính nhờcác chú thích đó mà người Việt Nam hiện đại hiểu được kiệt tác của dân tộc mình ngày càng sâu sắc. Nhưvậy công lao của các nhà chú thíchTruyn Kiu từtrước đến nay đều không nhỏvậy.

Trong các bản Kiều nửa đầu thếkỉXX trong điều kiện việc nghiên cứu tác phẩm, văn bản chưa có quy củnhưng việc chú giải vẫn đóng góp cơbản cho các bản chú thích vềsau. Tuy vậy đọc kĩ lại, bên cạnh các gía trịquý báu, vẫn thấy có những nhược điểm khó tránh lúc ấy. Một trong các nhược điểm ấy là bệnh sính Tàu, sính chữnho của người chú, thường gán cho truyện là mượn chữnày tích nọtừsách này, quyển kia của Trung Quốc, làm cho chú thích rườm rà, mà không giúp ích gì cho người đọc. Ngược lại, cách làm đó đã làm giảm sút đi giá trịsáng tạo độclập của Truyn Kiu. Lẽtất nhiên Truyn Kiu của Nguyễn Du là một sản phẩm kết tinh tuyệt vời của mối giao lưu văn hóa, văn học Trung Việt, cốt truyện của ông là vay mượn từtác giảThanh Tâm tài nhân, điển cố, từngữvay mượn, dịch thuật từvăn hóa, từngữTrung Quốc, hình ảnh mượn từthi ca Trung Quốc là chuyện thường. Nhưng không phải bất cứchữnào cũng lấy của Trung Quốc cả, bởi nhà văn khi tiếp nhận đã có chọn lọc sáng tạo, chứkhông sao chép tràn lan. Nay lại chú tràn lan, chữnày, ý nọ, tích kia đều là lấy từTrung Quốc cảthì là làm trái với tinh thần sáng tạo của tiền nhân. Điều đó ngày nay thiết nghĩ không thểkhông nhìn nhận cho minh bạch được. Chúng tôi xin rà lại một sốtrường hợp.

Trong bản Poème Kim Vân Kiu truyn của Trương Vĩnh Kí gồm có 671 chú thích, sau bổsung thêm khoảng 300 cáinữa trong lần in 1911, ta thấy trước hết ông tập trung chú thích vềý nghĩa của từngữ, các từHán, từcổ. Ví dụca nhi (Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi) :là con hát, con đĩ. Hàn gia (Hàn gia ởmé tây thiên) nhà nghèo, chỉmảcon Đạm Tiên. Đoạn trường: chỉsốquân đĩ điếm. Tha la (Bên cầu tơliễu bóng chiều tha la) nghĩa là thướt tha. Khi gặp cụm từHán cổthì ông giải thích, chứkhông chú nguyên điển. Ví dụ  câu “Lạgì bỉsắc tưphong” thì ông giải thích: Kia rít ấy chời. Được cái kia ít thì cái ấy nhiều, không đồng cân nhau bao giờ. Nói chung Trương Vĩnh Ký không hềghi chú nguyên điển, mặc dù ông biết. Tiếp theo,  ông chú cảvăn lí. Ý nghĩa cảcâu. Ví dụ, “Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân” là: Mặt trời đã lặn rồi, đêm thâu trăng mọc đã de bóng ra trước sân. Bản Kiều Quốc ngữcủa Trương Vĩnh Ký là bản đầu tiên, cách nay đúng 140 năm. Nhà văn Nam Bộđã chú thích một cách Việt Nam mộc mạc, dân dã, đểngười bình dân ai cũng hiểu được. Cách chú đó là đúng hướng, vì nó nhằm giải thích nghĩa của từngữ, câu khó, thông tục, dễhiểu, mặc dù kĩ thuật chú giải có phần thu hẹp nghĩa và ít quan tấm đến tính văn chương. Ví dụ, “Đoạn trường” có nghĩa rộng hơn, không chỉlà sốquân đĩ điếm, hoặc như“phong vận” không chỉlà xinh tốt mà còn yểu điệu, “thanh tân” không chỉlà sạch sẽmà còn tươi trẻ. Đó là bản chú cốt cho người bình dân hiểu được câu văn đang đọc, không bịvấp.

Đến bản Nôm Đon trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu , in năm Thành Thái 1902. Tôi coi đây là bản Kiều được biên tập công phu, có ảnh hưởng sâu xađến hầu hết bản Kiều quốc ngữvềsau. Chúng tôi không chê bai quá nhiều nhưcác ông Đào Thái Tôn và ông Nguyễn Khắc Bảo. Tuy vậy, ông nghè lắm chữnày đã moi óc ra đểmà chú thích. thì ngoài giải thích từcổ, điển cố, tác giảcòn có tham vọng chỉra hầu hết các nguồn Hán văn mà Nguyễn Du đã sửdụng. Trong số581 chú thích có nhiều ghi chú chỉcó ý nghĩa khoe kiến thức, mà không hợp với chữnghĩa cần chú. Bắt đầu từhai chữ Trăm năm (trong cõi người ta) thì giải thich bằng câu trong sách Trang Tử: “Bách niên cảnh nhi ngã do vi nhân.” Rồi sau đó các ông Bùi Kỉ, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Nguyễn Thạch Giang …đều dựa theo đó mà chú, chỉtrăm năm đời người. Nhưng cách hiểu đó chỉlà một nét nghĩa. Ông Cao Xuân Hạo đã hoài nghi và nêu ra cách hiểu nét nghĩa thứhai, nghĩa là “xưa nay”: Xưa nay trong cõi người ta. Rất hợp, tác giảđã lập luân thuyết phục. Chữtrăm năm ởTrung Quốc cũng có nét nghĩa nhưthế. Chúng tôi tra từđiển Hán ngđi tđin thì thấy từ“trăm năm” (bách niên) còn có nghĩa là lâu dài, trường cữu nhưđoạn văn số11 trong chương TL  số13 sách Lun Ng, có thểthuyết minh theo hướng của Cao Xuân Hạo. Bểdâu bây giờđã là một từtrong Tđin tiếng Vit, Thương hải tang điền là thành ngữtrong tiếng Hán, chỉcần ghi chú thành ngữlà được. Đương thời, có lẽdo chưa có kiến thức ngữhọc Kiều Oánh Mậu phải ghi tích Đồng Dương Công trong Thn tiên truyn, nhưng không hềgiải thích nghĩa từ. Câu “Chữtài chữmệnh khéo là ghét nhau”, ít nhất cũng chú thích chữmệnh theo quan niệm nho gia, nhưng tác giảkhông chú mà chi nêu, theo Tùy Viên thi thoi “tài mệnh lưỡng tương phương”, là xong việc. Nhiều câu chú thích gốc Trung Hoa khong cần thiết. Câu thơ“Nên câu tuyệt diệu ngụtrong tính tình” thì chữtuyệt diệu chỉbài thơhay,  thếmà ông cũng ghi chú mộttích Tàu: Sái Ung khen bài văn bia bằng bốn chữ: tuyệt diệu hảo từ.  Lại câu “Cũng người một hội một thuyền đâu xa”, vốn gắn với thành ngữ“cùng hội cùng thuyền” trong tiếng Việt, thếmà ông cũng đem so với nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nào thuyềntrước thuyền sau, biết đâu ta với nàng lại không phải người chết đi rồi,  lại tái sinh kiếp sau. Đến câu thơ“Trông theo nào thấy đâu nào, Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây” rất Việt, ai cũng hiểu  thì ghi chú: Tây sương kí viết: Người đi rồi mà mùi hương hãy còn phảng phất, trông luống nuốt nước bọt hoài. Câu chú thích sai. Đấy là tình cảm của Quân Thụy chứđâu phải tình cảm Thúy Kiều đối với Đạm Tiên. Câu “Hoa trôi bèo dạt đã đành” rất Việt thì ông chú: Bài phú vịnh Bèo của người đời Đường có câu: Cùnghoa rụng mà trôi theo (Cng lc hoa nhi tương trc). Câu “Cỏnon xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” thì chú: ThơNguyễn Hiếu Vấn: Lê hoa nhưtĩnh n, Tch mch sơn xuân m, Cô phương kthái khiết, Mc sphàm hy đ. Nghĩa là Hoa lê nhưgái ngoan, Cuối xuân nởêm đềm,  Lẻloi kịquá sạch, Chớđểcỏhèn ghen. Chẳng liên quan gì đến cảnh thanh minh trong truyện. Loại chú thích này rất nhiều. Kiều Oánh Mậu còn có ý đối chiếu với nguyên tác của Thanh Tâm Tài nhân đểghi chú thêm các chi tiết. Ví dụcâu “Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”, thì chú: Nguyên truyện Kiều làm ra khúc Bạc mệnh phổvào đàn hồcầm càng ai oán. Thực ra là không cần thiết. Nguyễn Du viết nhưthếlà đã rõ rồi. Khúc nhà là khúc của Kiềusáng tác ra, một thiên Bạc mệnh, có nghĩa là thiên ấy có tên Bạc mệnh, còn “Bạc mệnh oán” là tên trong truyện Trung Quốc. Chú nhưthê thì người đọc Truyn Kiu hóa ra phải luôn đối chiếu với nguyên truyện thì mới hiểu nổi tác phẩm hay sao? Truyn Kiu là một sáng tạo tiếng Việt trên nền tảng một sựthấm nhuần các chất liệu Việt và chất liệu Hán Việt, đã qua sựchọn lọc, diễn giải theo cách Việt, hoàn toàn không phải là tác phẩm dịch, minh họa, thếnhưng trong hầu hết các chú thích, chú giải đều có xu hướngchồng chất lên trên tác phẩm của Nguyễn Du hàng loạt cái gọi là điển cố, tích truyện, lại còn tra lại nguyên tác Kim Vân Kiu truyn của Thanh Tâm tài nhân đểchú cho hết các chi tiết của Truyn Kiu. Làm nhưkhi sáng tác Truyn KiuNguyễn Du phải lục hếtđiển cố, sách vởTrung Quốc thì mới sáng tác được. Đó là một cách làm thiếu ý thức văn học dân tộc. Tôi ngờrằng Kiều Oánh Mậu thưởng thức Truyn Kiu qua lăng kính thơvăn Trung Hoa, theo luật liên văn bản. Có thểông còn chưa biết thao tác giải thích. Có thểđó cũng là tâm lí của một thếhệthưởng thức Truyn Kiu thếkỉXIX khi chưa tiếp xúc Tây học, còn sùng bái tuyệt đối văn chương Tàu và mang sẵn trong người mặc cảm thua lép. Nếu không đem so văn Kiều với một câu văn có sẵn nào đấy của người Tàu chắchọkhông thấy được cái hay của thơViệt. Có lẽvì thếmà Truyn Kiu vốn có tên Đon trường tân thanh  rõ ràng, thếmà hầu hết các nhà biên soạn đều lấy tên là Kim Vân Kiều truyện hoặc tân truyện[1], Kim Túy tình từ, không mấy ai tôn trọng cái tên của Nguyễn Du đặt cho tác phẩm của ông. Có thểcảm thấy cái giáo dục Hán học có cái hại rất sâu xa mà chúng ta chưa thấy hết. Thói quen này di hại đến đời sau,Truyn Kiu là truyện thơ, không hềcó chia thành quyển, thành hồi, thếmà có người lại đem Truyn Kiu ra mà chia hồi, rồi mấy học giảTrung Quốc đem dịch Truyn Kiu ra tiếng Trung cũng chia thành hồi, tương tựnhưtruyện Trung Quốc. Giáo sưHoàng Giật Cầu dịch Truyn Kiu ra tiếng Hán thì chia truyện làm hai thiên. Thiên thượng gồm năm quyển, còn thiên hạgồm bảy quyển (Nhân dân văn học, Bắc Kinh, 1959).  Ông La Trường Sơn trong bản dịch Truyn Kiu Trung văn in năm 2006 tại Việt Nam cũng chia Truyn Kiu ra làm 12 quyển. Còn giáo sưTriệu Ngọc Lan dịch Truyn Kiu thì chia làm 8 quyển, (nxb Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, 2013)[2]. Và các dịch giảTrung Quốc đểu nhất loạt lấy lại tên cũ của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiu truyn nhưmuốn giành lại bản quyền. Không hiểu các dịch giảdựa vào đâu mà chia ra thành quyển nhưthế? Đọc các bản Nôm và Quốc ngữkhông hềcó chuyện phân quyển nhưthế. Phải chăng họcó xu hướng hoàn nguyên Truyn Kiu theo hình bóng của truyện văn xuôi Thanh Tâm tài nhân. Xét lại thì thấy do các vịnghiên cứu thời trước học được phép của Thái Tây, đem Truyn Kiura chí thành từng đoạn, đánh sốđoạn trong các bản dịch Pháp văn hoặc quốc ngữ. Người Trung Quốc dịch, tưởng đó là hồi. TừCraysac đến Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giang đều chia đoạn nhưthế. Giáo sưHoàng Giật Cầu chịu ảnh hưởng của Craysac chia làm 12 quyển, Triệu Ngọc Lan chịu ảnh hưởng của Nguyễn Thạch Giang chia làm 8 quyển. Các nhà nho thếkỉXIX gọi truyn Kiu là Kim vân Kiều Truyện cũng có một tâm lí sùng Tàu nhưthế. Và tâm lí ấy chi phối rất nhiều việc chú thích Truyn Kiu.

Trởlại với việc chú thích. Bản Kim Túy tình t của Phạm Kim Chi in năm 1917, tổng sốcó 563 chú, ít hơn Kiều Oánh Mậu 18 chú thích, phần lớn hầu nhưchủyếu sao chép lại các chú thích của Kiều Oánh Mậu bằng chữquốc ngữcó gia giảm ít nhiều. Bản quốc ngữcủa ông Bùi Khánh Diễn in năm 1926 có tất cả975 chú thích, phần lớn đi theo vết của các ông trước là ra sức liệt kê tràn lan các nguồn văn của Trung Quốc. Theo ông, có vẻhầu nhưtừngữnào của Nguyễn Du đều có gốc ởTrung quốc cả. Ví dụcâu “Tấc riêng nhưcất gánh đầy đổđi”thì tiếng Việt ai cũng hiểu và nói thế, thếmà người soạn cũng chú thích là trong sách tiểu thuyết Trung Quốc có câu nhờgiúp sức mà nhưcất gánh nặng. Hay nhưcâu “Khắc xương ghi dạxiết chi” thì người Việt ai cũng hiểu, nhưng ngươi soạn cũng lấy cho được một nguồn trong sách S với hai chữkhắc cốt minh tâm. Ông Bùi Khánh Diễn còn bỏcông dịch các bài thơmà nhân vật Kiều làm trong Kim Vân Kiu truyn đểbổsung vào Truyn Kiu nhưhoàn nguyên cái phần mà Nguyễn Du đã bỏđi, không biết rằng Nguyễn Du đã có một cấu tứnghệthuật khác. Đó là lối ghi chú biến Truyn Kiu làm cước chú cho văn học Trung Quốc, câu nào cũng lấy nguồn của Trung quốc.

Bản Truyn Thúy Kiu của Bùi Kỉ, TrầnTrọng Kim in năm 1925 là bản Kiều quốc ngữkếsau Trương Vĩnh Ký biết ghi khảo  dị. Cộng cảphần khảo dịtoàn truyện có 992 chú thích, phần nhiều cũng ghi nguồn văn Trung Quốc nhưcác ông trước.  Nhiều chỗcũng chú thừa thải không cần thiết. Ví dụcâu “Cỏnon xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”, vốn tảcảnh thanh minh, nhà thơnào cũng có thểnghĩ ra được, vậy mà cũng ghi chú câu cổthi: Phương tho liên thiên bích, lê chi sđim hoa. Mặc dù Nguyễn Du nói cỏnon, không nói cỏthơm, nói hoa trắng điểm, chứkhông chỉvài bông hoa. Hay nhưcâu “Thuyền tình vừa ghé đến nơi thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ”, vốn chỉhình ảnh vềsựchết chóc, hưhủy, thếmà cũng cốvớt vát bằng một  câu thơTrung Quốc đời Đường: Nht phiến tình thuyn dĩ đáongn,  Bình trm hoa chiết dĩ đa thi. Hay câu: “Thoắt nghe nàng đã đầm đầm châu sa”, thì châu sa là hình ảnh của giọt nước mắt đẹp, cần gì phải dẫn  tích cổcó sách chép rằng,  vềthời cổcó thứngười gọi là Giao nhân, ởdưới bểNam hải,  lên buôn bán với người ta.  Đến cuối năm lại phải vềthủy phủ,  đểđi chầu trời. Lúc vềtừbiệt những người quen biết khóc lóc thảm thiết. Mà khóc bao nhiêu thì những giọt nước mắt chảy ra hóa thành ngọc châu. Bởi vậy mới gọi châu là giọt nước mắt. Câu thơtảKiều làm thơ“Nên câu tuyệt diệu ngụtrong tính tình”, thì câu tuyết diệu là câu thơcực hay, thếmà cũng chú Tuyt diu t lấy từcâu của Sái Ung đời Hán. Câu thơtảmùa xuân đã qua “Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua” là hình ảnh rất đẹp và rất Việt Nam, thếmà cũng ghi chú một câu trong Tây Sương kí: Hng ám lc hi xuân khdã. Sựthừa thải vô ích ấy đến  hai cụBùi, cụTrần cũng không tránh được. Cái tưtưởng sùng bái Trung Quốc quá nặng nềđã chi phối việc chú thích Truyn Kiu, mà các cụchắc là lấy thếlàm thúvà tựhào vềsựuyên bác của mình lắm. Chúng ta không phủnhận ảnh hưởng to lớn của văn hóa Trung Quốc đối với Truyn Kiu. Nếu trong một công trình văn học so sánh những tìm tòi nhưthếcó thểcó ích, còn đây là bản chú cho người Việt đọc thì ghi nhưvậychỉgây thêm rối.

Bản Truyn Kiu quốc ngữcủa Nguyễn Can Mộng, in năm 1937 Hà Nội, nxb Viễn Đông bác cổ, tác giảlà nhà hán học, giáo viên trường Bưởi, Hà Nội, đã chọn một cách chú rất giản dị, Việt Nam, học sinh đọc rất dễhiểu. Ví nhưcâu “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nởnang” là tảThúy Vân mặt tròn mà đậm; câu “Một hai nghiêng nước, nghiêng thành” thì chú: Một lần cười nghiêng thành, hai lần cười nghiêng nước, nói người con gái đẹp đến mức thành hay nước đều mất. Châu sa là nói nước mắt chảy nhưngọc châu rơi. Chén hà sánh giọng quỳnh tương chú là : Chén hà là chén có vân đẹp nhưráng của giời. Quỳnh tương là rượu ngon mà trong coi nhưnước ngọc. Câu chày sương chưa nện cầu Lam thì chú: Bà mẹVân Anh bảo với Bùi Hàng, phải có chày ngọc giã vừa cối ngọcthì mới gảcho, Cầu Lam là nơi Vân Anh ở; sau hai người lấy nhau và thành tiên cả. Qua mấy ví dụđó có thểthấy tác giảmuốn chú cho thật giản dị, dễhiểu, không phô trương kiến thức, không sùng cổ.

Tản Đà trong cuốn Vương Thúy Kiu chú gii tân truyn (1941, 1952) là người có quan điểm chú giải rõ ràng. Ông nhận thấy “chú nhiều làm nát truyện Kiều”. Mục tiêu của ông là làm sáng văn nghĩa, có thêm chữHán là lo hậu vận, sợHán văn ngày một mòn mỏi, người sau không hiểu mà có ý muốn lưu tồn. Tản Đà còn chủtrương không chia chương đoạn nhưcác bản quốc ngữkhác, bởi vì nguyên tác không chia đoạn, mà các chỗchuyển đoạn rất hay, đặt ởđoạn trên hay ởđoạn dưới đều không thỏa đáng. Tản Đà là người không sính tích Tàu. Những câu dễhiểu ông đều không chú nữa. Ví dụ“Mai cốt cách” ông không chú Mai ph nhưKiều Oánh Mậu, không hiểu mai cốt cách là người tầm thước nhưBùi Kỉ, mà chỉnói tảngười thanh tú. Ông không ghi chú câu “Cỏnon xanh tận chân trời” bằng cổthi nhưcác ông khác. Tản Đà đứng vềphía người đọc mà chú giải, cốt sao hiểu nghĩa cho tường, không đứng vềphía chỉra nguồn chất liệu của sáng tác, do vậy mà trong 987 chú giải ông đã vứt bỏnhiều câu văn, nhiều điển tích làm mờtối Truyn Kiu. Là một nhà sáng tác, Tản Đà còn cân nhắc văn lí và chỉra theo ông những câu chưa đạt, chưa sáng nghĩa.  Ví nhưcâu “Tháng tròn nhưgửi cung mây” theo ông là tối nghĩa, hoặc câu “Tiếng Kiều nghe lọt bên kia”, theo ông là chưa thông, mà theo tôi, với lí thuyết điểm nhìn trần thuật thì lại rõ nghĩa, vì trần thuật đoạn này theo điểm nhìn Kim Trọng. Nhưng câu “Sắc đành đòi một tài đành họa hai” thì ông chê là diễn đạt hơi tối mà kém xuôi. Tản Đà chê câu “Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng dong” là chưa khéo, vì lúc đó TừHải vẫn chưa dong, bời vì Kiều còn đòi đi theo, và Từcòn phải giải thích, vỗvề. Cách chú giải của Tản Đà đã kếtục lối chú giải của Trương Vĩnh Ký, nhưng lại chú trọng văn chương hơn. Đây là một bản chú giải rất có giá trị.

Đến Lê Văn Hòe, trong công trình Truyn Kiu chú gii đồsộ, in năm 1953 tại Hà Nội, ông cũng nhận xét rằng các bản chú trước do phần nhiều chỉchú các điển cốhay từngữmượn của Hán văn mà bỏqua các mặt khác. Đến lượt mình, ông muốn có một sựchú thích toàn diện. Ông viết trong Chú gii đi ý gồm có 9 mục: 1.Chú giải những tiếng nôm khó hiểu; 2.Chú giải ý nghĩa từng câu; 3.Chú giải văn phạm văn pháp; 4.Chú giải điển cốvăn chương, chữsách Tầu, chữlấy ởca dao, tục ngữ; 5. Vạch những chữtác giảdùng sai; 6. Sửa những chữin lầm từtrước; 7. Sửa những lời chú giải sai từtrước; 8. Nêu những chỗhay, dởtrong văn lí; 9.Phê bình lướt qua nhân vật trong truyện vềmặt luận lí. Nhưthếchú giải của ông đã bao gồm sựphê bình, bày tỏquan điểm riêng chứkhông dừng lại ởchỗchỉgiúp người đọc đọc hiểu văn bản.

Giải thích từViệt nhưcâu“Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ông giải thích đòi là nhiều, nghĩa là sức nhiều lắm chỉcó một, nghe cũng chưa rõ. Theo Đào Duy Anh, trong Tđin Truyn Kiu, Nguyễn Quang Hồng trong Tđin chNôm dn gii, đòi một là duy nhất, chỉcó một, nghe xuôi hơn. “Phong lưu rất mực hồng quần” giải thích phong lưu là phẩm cách tao nhã. Giải thích từng câu thì sau khi giải thích ý nghĩa của diển cố, từngữ, ông diễn xuôi ý cảcâu thơcho dễnhận. Nhìn chung ông Lê Văn Hòe cũng ham phô diễn kiến thức từngữđiển cốcủa Trung Quốc.

Lê Văn Hòe cũng chỉra những chỗtối nghĩa và chưa thấy văn lí trong truyện, ví như, ông lập luận, nếu Kiều 15 tuổi, thì Vương Quan chỉmới 13, 12, Kim Trọng bạn với Vương Quan thì cũng chừng ấy tuổi, mà mới chừng ấy tuổi mà lại si mêhai chịem Kiều thì là hơi quá. Ông Hòe còn chê nhiều điểm nữa. Song nhìn chung cách chú của ông tuy có những nhận xét kĩ lưỡng, tinh tế, bổích cho bạn đọc, song  vẫn còn nhiều lời, rậm rạp. Nếu muốn trình bày cho hết các kiến thức của mình vềchữnghĩa Truyn Kiu thiết nghĩ nên viết riêng một cuốn sách như Chnghĩa Truyn Kiu của ông Nguyễn Quảng Tuân.

Sau năm 1954 ởmiền Bắc có mấy bản Truyn Kiu, ví như Kim Vân Kiu của Nguyễn Việt Hoài, nxb Quy Sơn, H., 1957, Kim Vân Kiu, Hòa Bình, Vinh, 1957; Kim Vân Kiu, Bình dân , Hà Nội, 1957; Kim Vân Kiu, Tân Mỹ, Hà Nội, 1957; Truyn Kiu của  Bùi Kỷnăm 1958, nxb Phổthông; Truyn Kiu, Viện văn học, Nhóm nghiên cứvăn bản Truyn Kiu, nxb Văn học, 1965. Các bản này nhìn chung chú thích gọn nhẹ, dễhiểu,không ham hốtri thức Trung Hoa cổ. Bắt đầu từ Truyn Kiu do Nguyễn Thạch Giang hiệu khảo, chú thích, nxb Đại học và THCN, Hà Nội 1972, với 3252 chú thích, in trong 143 trang 13×19 chữnhỏ. Tác giảđã tra cứu chú thích rất tỉmỉ, rất bổích đểtham khảo.Tuy vậy có chỗchú quá sơlược, ví dụhồcầm chỉchú là một loại đàn tỳ bà. Có chỗchú lẫn lộn. Ví dụnét ngài thì chú là : ngài là con bướm tằm . Đây nói nét ngài là bởi chữtàm mi (mày tằm), hay ngọa tàm mi (mày tằm nằm) = nét lông mày cong, đậm mà thanh.. Chỉlông mày đẹp. Ông đã nhầm chữnga mi với chữtàm mi. Nét ngài là nga mi, tức mày ngài, còn tàm mi lại là mày tằm thì là mày tằm nằm, tướng dữtợn, không phải đậm mà thanh đâu (Vấn đềnày GS Nguyễn HuệChi đã có môt thiên đại luận, nhưng e cách hiểumày ngài ởmiền Nam và miền bắc có khác nhau chăng?). Có chỗchú thích kiêm giải thích tưtưởng. Ví nhưcâu “Chữtài chữmệnh khéo là ghét nhau”, sau khi dẫn thơLý Thương Ẩn Clai tài mnh lưỡng tương phương = xưa nay tài mệnh làm hại nhau, ông liền giải thích: “Thực ra,trong xã hội cũ nhân dân ai cũng bịáp bức bóc lột, bịđày đọa, không riêng gì người tài hoa. Nhưng thường những người ý thức được cuộc đời, những người tài hoa hay đứng lên chống lại những oan trái, bất công, chống lại những cương thườngđã lỗi thời trong đời nên bịbọn thống trịphản động ruồng rẫy, trừng trị. Càng tài, mệnh càng long đong. Đây là một bi kịch của xã hội có giai cấp bóc lôt thống trị” Lời chú khá hay, chỉcó điều cho rằng bi kịch ấy chỉcó trong xã hội có giai cấp thì có chỗhơi nhầm.

Bản Kiu của Đào Duy Anh in năm 1979, sáu năm sau khi ông đã soạn cuốn Tđin Truyn Kiu (1973) gồm 2607 mục chú giải có thểcoi là một bản chú giải mẫu mực. Ởđây không thấy rõ hiện tượng sùng Tàu nhưđã nói trên, không lạm dụng truyện củaThanh Tâm tài nhân. Những từcó gốc Hán thì ghi nguyên chữHán là…, điển tích thì ghi sau khi đã chú giải. Lời chú nói chung đều gọn, rõ, dễhiểu. Nếu bắt bẻthì cũng có chỗdùng điển Hán không thật cần thiết. Ví nhưcâu: Thoặt nghe nàng đã đầm đầm châu sa, thì cần gì phải dẫn điển tích xưa có người khóc ra hạt châu. Chỉcần nói hạt châu, ví nước mắt đẹp của người đẹp là đủ. Hoặc giải thích từhiển linh thì viết hiện ra một cách linh thiêng, thật là khó hình dung, chỉcần nói hiện hồn ra là được. Giải thích chim loan là con mái của con Phượng cũng có chỗchưa rõ, vì con mái của chim phượng là con hoàng. Mặc dù vậy, nhìn chung phương pháp giải thích  của Đào Duy Anh gọn gàng, mẫu mực, khắc phục hầu hết các nhược điểm trong chú thích của người trước.

Sau Đào Duy Anh và Nguyễn Thạch Giang có cuốn Truyn Kiu tp chú của nhóm tác giảTrần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, nxb ĐầNẵng, 1999. Tập chú nghĩa là tập hợp các chú thích của các tác giảkhác nhau vềmột chữ, một điển tích, một câu, đặt bên nhau đểcho thấy được sựkhác nhau hoặc bổsung nhau, giúp người đọc hiểu sâu hơn một chữ, một điển, một câu. Tác giảđã sưu tập không chỉcác chú thích ởcác bản Truyn Kiu, mà còn lấy các chú thích ởtrong nhiều bài nghiên cứu trên báo, tạp chí. Nhiều bài phân tích chi tiết cặn kẻvăn lí của từng câu Kiều. Đây là một cách làm hay, bổích, giúp đọc hiểu và nghiên cứu được thuận tiện.  Cách tập chú phản ánh các quan điểm khác nhau nhất, đa dạng nhất. Gần đây hai tác giảTrần Nho Thìn và Nguyễn Tuấn Cường trong cuốn Truyn Kiu nxb Giáo dục, H., 2007, cũng biên soạn theo lối tập chú, tập giải kiêm bình luận, biên soạn công phu, có in chữHán, phiên âm , dịch thuật chính xác, là một tài liệu quý. Cuốn sách của hai tác giảcòn dựa trên lí thuyết tiếp nhận, thông diễn học đểhình dung quá trình tiếp nhận. Sách có thêm phần lời bình của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng thếkỉXIX. Tuy vậy chúng tôi vẫn cho rằng, những chú thích dài dòng, trùng lặp  dẫn các câu chứHán, nhưchữtrăm năm thì theo sách nào, tài mệnh tương đốthìtừsách nào, bểdâu lấy sách nào, tường đông từsách nào, cỏnon xanh tận chân trời có ởsách nào…tôi nghĩ chỉcó ý nghĩa khi làm văn học so sánh, đểchỉra tính liên văn bản của nó, còn đểchú thích giải nghĩa thì có thểkhông nhất thiết khi nào cũng phải ghi nhưthế. Đối với những chú thích có tính áp đặt nhưtường đông thì dẫn Mạnh Tửcó người con trai trèo tường phía đông rồi ôm con gái người ta, làm nhưkhông có câu ấy thì Nguyễn Du không viết được câu kia, mà có chắc là Nguyên Du nghĩ đến câu ấy, chữấy khi sáng tác không? Thiết nghĩ nên có phân tích sàng lọc. Tôi phản đối khuynh hướng sùng Tàu, nhưng không phản đối việc sửdụng ngữliệu Hán, bởi vì trong đó chứa đựng những mã văn hóa, văn học cần đểgiải mã Truyn Kiu. Tôi cũng không phản đối bất cứmọi dẫn giải từ Kim Vân Kiu truyn. Ví dụcâu 942 Đêm dêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu, thì Hàn thực, nếu chỉhiểu là cấm lửa, ăn thức nguội, thì liên hệthếnào với câu nói ấy? Thực ra từlâu trong dân gian tiết Hàn thực với tiết thanh minh, hội đạp thanh, do gần nhau đã hòa lẫn thành ngày hội. Hàn thực là ba ngày kềtrước Thanh minh. Năm 732 vua Đường Minh hoàng xuống chỉhợp thức hóa các ngày ấy đều là ngày hội vui chơi, chọi gà, đánh đu, kéo co, quét mộ, cúng cơm, đạp thanh rộn ràng. Thếlà hiểu câu cầu khấn của mụTú Bà. Muốn hiểu tiếng đàn của Kiều khi tái hợp đánh cho Kim Trọng thì cần liên hệvới bài Cm st của Lí Thương Ẩn. Đó là bài thơhoài niệm mối tình đã mất, trong đó bốn câu giữa được Nguyễn Du lấy trọn. Trong đó có bốn cặp Trang Chu/bướm, Thục đế/ đỗquyên, hạt châu/ duềnh quyên, ánh nắng/ ngọc Lam Điền, đều có ý vịmột nam một nữ, một dương, một âm, thểhiện sựtình xuân đầm ấm giao hòa, có ý vịtính dục. Câu “Khi thầy khi tớxem thường xem khinh” là thếnào?  Đọc hồi 14 KVKT thì sẽthấy rõ ngay. Còn nhưdẫKim Vân Kiều truyện đểgiải thích bảy chữ, tám nghề, chiến hòa hai bài là thếnào, giải thích “thềsao thì cứlại sao gia hình” là thếnào, thiết nghĩ là không cần thiết. Còn hướng tập giải là khoa học, cần thiết, mà nên chú ý đến lờibình của nhiều tác gia hiện đại nữa, nhưHòai Thanh bình TừHải, Lê Đình Kỵbình các nhân vật Truyn Kiu, Vũ Hạnh, Lê Trí Viễn, bình các nhân vật. Hướng đi của hai tác giảmởra một không gian mới, còn có rất nhiều triển vọng.

Nhìn lại phần chú thích chúgiải trong các quyển Truyn Kiu, một mặt ta thấy công phu, tâm huyết của biết bao tác giảđã bỏra đểgiúp người đọc hiểu, thưởng thức cái hay cái đẹp của những câu trong Truyn Kiu, đồng thời ta cũng nhận thấy ởđây còn có vấn đềlí thuyết,  nguyên tắctrong việc chú thích cần được cân nhắc, đểtránh việc gán ghép, áp đặt các văn liệu Hán chẳng liên can gì làm tối nghĩa Truyn Kiu và hạthấp giá trịđộc lập tương đối của nó. Trải qua hơn một trăm năm Kiều Quốc Ngữ, bệnh sùng tích Tàu đã thuyên giảm, nhưng vẫn còn, bệnh nệKim Vân Kiều truyện cũng giảm song vẫn còn. Nhìn lại các bản chú thích đã có chúng ta có thểsuy nghĩ rút ra những bài học kinh nghiệm đểcho các bản chú vềsau được tốt hơn.

Hà Nội, 9 tháng 10 năm 2015.

Tài liệu tham khảo:

1.       Poème Kim Vân Kiều truyện, Trương Vĩnh Ký, Sài gòn, 1911, in lại bởi nxb Văn hóa văn nghệ, thph HCM., 2015.

2.      Đoạn trường tân thanh, Kiều Oánh Mậu, ThếAnh dịch, phiên âm, khảo dị, nxb Văn học, Hà Nội, 2013.

3.      Kim Túy tình từ, Phạm Kim Chi phiên chú, Sài gòn 1917, Nha Văn hóa phủQuốc vụkhanh tái bản, Sài gòn, 1972.

4.      Kim Vân Kiều (Đoạn trường tân thanh), Bùi Khánh Diễn chú thích, Hà Nội, 1926, Sống mới Sài gòn, 1960.

5.      Truyện Thý Kiều, Bùi KỷTrần Trọng Kim hiệu khảo, Vĩnh Hưng Lon thưquán, Hà Nội, 1925, nxb Văn hóa thong tin in lại, Hà Nội, 1995.

6.      Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú thích và bình luận, nxb Hương Sơn, Hà Nội, 1941, tái bản 1952.

7.      Truyện Kiều chú giải, Lê Văn Hòe, Quốc học thưxã, Hà Nội, 1952.

8.     Truyện Kiều, Ban cổcận Viện văn học, nxb Văn học, Hà Nội, 1965.

9.      Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang hiệu khảo, chú thích, nxb ĐH và THCN, Hà Nội, 1972.

§  Truyện Kiều. Đào Duy Anh soạn văn bản cowosowr và chú giải, nxb Văn học, Hà Nội, 1979.

11.   Truyện Kiều tập chú, Trần Văn Chánh, rần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, nxb Đà Nẵng, 1999.

12.  Truyện Kiều, Trần Nho Thìn, Nuyễn Thuấn Cường, Khảo – chú – bình, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.

 

[1] Nhiều người không biết gốc tích truyện Kiều là Kim Vân Kiều truyện, có nguwif cho là Phong tình lục, nhưng tại sao lại ghi tên truyện Nguyễn Du là Kim Vân Kiều truyện. Hình nhưhọđã biết tên sách ấy rồi, cho nên gọi thế. Sau này theo luận giải của Tản Đà, thì gọi Kim Vân Kiều truyện là muốn gọi tóm tắt câu chuyện.

[2] Cách chia này là do ảnh hưởng của một sốnhà nghiên cứu Việt Nam, khi soạn bản quốc ngữ, lại cứthích phân đoan truyện ra từng hồi. Ví dụông Đào Duy Anh chia truyện ra là 13 hồi, giữa các đoạn đặt dấu ngôi sao (Xem Kiều, nxb Văn học, Hà Nội, 1979). Ông Nguyễn Thạch Giang lại chia ra làm tám hồi, đánh sốla mã từI đến VIII.(Xem Truyện Kiều, nxb ĐH va THCN, Hà Nội, 1972).  Đó là một nhầm lẫn đáng tiếc do chưa hiểu đặc trưng truyện Nôm.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114576449

Hôm nay

2253

Hôm qua

2332

Tuần này

21762

Tháng này

223506

Tháng qua

130677

Tất cả

114576449