Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng (Dự thảo) có 15 nội dung lớn, trong đó nội dung VII là “Phát triển văn hóa, xây dựng con người”. Sau 30 năm đổi mới, nội dung văn hóa có những điểm mới so với các văn kiện trước đây.
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng (Dự thảo) có 15 nội dung lớn, trong đó nội dung VII là “Phát triển văn hóa, xây dựng con người”. Sau 30 năm đổi mới, nội dung văn hóa có những điểm mới so với các văn kiện trước đây.
Nhận thức văn hóa trước Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, mở đầu sự nghiệp đổi mới, phần văn hóa đặt trong phương hướng, nhiệm vụ của chính sách xã hội với tiêu đề khiêm tốn: “3. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân”. Nội dung văn hóa đề cập ở đây chủ yếu gắn với văn nghệ (văn học, nghệ thuật) và giáo dục.
Tại Đại hội VII, trong phần “Những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991-1995” có một nội dung “Khoa học, giáo dục, văn hóa”. Về văn hóa, Đảng ta nhấn mạnh “tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Điểm đáng chú ý ở Đại hội VII là trong 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta định xây dựng, đặc trưng thứ ba là “có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và đặc trưng thứ tư là “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội VII nêu lên 7 phương hướng cơ bản, trong đó phương hướng thứ tư là “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”.
So với Đại hội VI, nội dung văn hóa trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Đại hội VII được đề cập cụ thể hơn, mang dấu ấn với một “hình hài” rõ nét hơn. Điều này được minh chứng và cụ thể hóa ở Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đàng khóa VII bàn về “Một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”. Ở hội nghị này Đảng ta khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Nghị quyết nêu nhiệm vụ trung tâm của văn hóa, văn nghệ nước ta là “góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh”. Những nội dung đó cho thấy một bước tiến trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng về văn hóa. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của Nghị quyết vẫn gắn văn hóa với văn nghệ, nói văn hóa là nghiêng về văn học và nghệ thuật, chưa cho người đọc một nhận thức “hoàn chỉnh” và sâu sắc về văn hóa.
Tên gọi và cách hiểu văn hóa ở các Đại hội tiếp theo tuy có những bước tiến khá dài, song nhìn nhận một cách toàn diện thì cũng chưa thật sự sâu sắc, chưa làm nổi bật được vai trò, sứ mệnh của văn hóa, đặc biệt là nhân tố con người và tinh thần dân tộc trong văn hóa. Ở Đại hội VIII, vẫn tinh thần của Đại hội VII, chúng ta đề cập “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại hội IX, gộp cả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và văn hóa vào một nội dung thành “phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đại hội X lại tách văn hóa ra thành một nội dung riêng với điểm nhấn “phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội”. Đại hội XI viết “chăm lo phát triển văn hóa”.
Vấn đề văn hóa trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) vừa kế thừa tư duy văn hóa các đại hội trước vừa có những đột phá mới: một là, nhấn mạnh “làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”; hai là, coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.
Những điểm mới về văn hóa trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng
Với một cách trình bày ngắn gọn, vấn đề văn hóa trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng chủ yếu dựa trên Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Thứ nhất, về tên gọi. Mục VII của Dự thảo viết: “Phát triển văn hóa, xây dựng con người”. Viết như vậy là gắn chặt phát triển văn hóa với xây dựng con người. Đây là một bước phát triển trong tư duy lý luận về văn hóa, vì nó chưa hề xuất hiện trong các văn kiện trước. Cách đặt vấn đề như Dự thảo là đúng cả về lý luận và thực tiễn. Bởi vì con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của văn hóa, là trung tâm của chiến lược phát triển.
Sau 30 năm đổi mới, chúng ta gắn văn hóa với con người, phát triển văn hóa và xây dựng con người. Theo cách hiểu thông thường, nói đến văn hóa là nói đến con người, và như vậy chỉ cần nói “chăm lo phát triển văn hóa” là có cả nội hàm chăm lo phát triển con người. Tuy nhiên cách trình bày của Đảng ta lần này là để nhấn mạnh vai trò, vị trí, sứ mệnh, quyền và trách nhiệm của con người. Tách và gắn con người khỏi/với văn hóa là nhằm làm rõ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hoàn thiện các chuẩn mực giá trị của con người Việt Nam và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thứ hai,nhấn mạnh và khẳng định quyền con người về văn hóa. Điều này đã được nêu trong Hiến pháp năm 2013. Với ý nghĩa là bộ luật cao nhất của quốc gia, Hiến pháp 2013 khẳng định ở điều 14 chương II: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”[1]. Liên quan trực tiếp đến văn hóa, Điều 41 ghi: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”[2]. Cương lĩnh 2011 chỉ mới đề cập đến quyền con người, quyền dân tộc nói chung. Hiến pháp năm 2013 thì ghi rõ, toàn diện, khẳng định chắc chắn những quyền của con người về văn hóa.
Chúng ta đều biết một trong những điểm căn cốt nhất của văn hóa là quyền cơ bản của con người và của các dân tộc. Đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng định nghĩa nào cũng phải bàn đến con người. Văn hóa là “tự nhiên thứ hai”; là toàn bộ sáng tạo và phát minh của con người; là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người; là quyền cơ bản của con người. Năm 1982, trong Tuyên bố về những chính sách văn hóa, UNESCO thống nhất định nghĩa về văn hóa trong đó nhấn mạnh “văn hóa bao gồm những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”.
Trong thế kỷ XX, khi xác định tiêu chí danh nhân văn hóa, các nhà khoa học trên thế giới cho rằng ai đạt được một trong các tiêu chí sau đây đều được ghi nhận: a) Ai tích cực đấu tranh cho quyền sống của con người, bênh vực con người, giải phóng con người, là người tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân văn; b) Ai là người tích cực góp phần giải phóng các thuộc địa, giải phóng các dân tộc bị áp bức, làm đảo lộn thế giới thuộc địa, vẽ lại bản đồ chính trị thế giới”[3]. Hồ Chí Minh là người khởi xướng và giương cao ngọn cờ giải phóng thuộc địa, người tiên phong trong cuộc đấu tranh giành lại quyền được sống cho con người, trở thành nhà văn hóa kiệt xuất, để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại.
Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp đều khẳng định sự nghiệp văn hóa lớn lao nhất của Hồ Chí Minh là đã “huy động sức mạnh của truyền thống 4000 năm văn hiến của dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hóa của thời đại, lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại cho nhân dân ta quyền làm người, quyền được sống một cuộc sống xứng đáng với con người… Sự nghiệp văn hóa của Hồ Chí Minh đem đến cho kho tàng văn hóa thế giới những giá trị lớn, thể hiện khát vọng của nhân dân các nước trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân tộc cơ bản, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc, mỗi dân tộc khẳng định bản sắc văn hóa của mình và phát triển sự hiểu biết với các dân tộc khác”[4].
Vấn đề quyền con người được tái khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI và Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng ở một cách tiếp cận khác khi ra một nghị quyết và dành hẳn một phần trong Dự thảo các văn kiện bàn về “phát triển văn hóa và xây dựng con người”. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI khi nói về nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đề cập “gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.
Thứ ba,một điểm nhấn trong sự phát triển tư duy lý luận về văn hóa sau 30 năm đổi mới là nhận thức về mục tiêu phát triển văn hóa và xây dựng con người. Ở các kỳ đại hội trước ta nói “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện”, lần này nhấn mạnh “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
Với cách diễn đạt như hiện nay thì rõ ràng nói đến văn hóa và con người Việt Nam là thể hiện rõ tinh thần hội nhập trong một thế giới toàn cầu hóa. Thế giới ngày nay đã và đang hướng đến việc thúc đẩy các nền văn hóa xích lại gần nhau và sự tôn trọng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, xóa bỏ những rào cản giữa các nền văn hóa khác nhau. Chân, thiện, mỹ, nhân văn, dân chủ và khoa học là những giá trị mang tính phổ quát toàn nhân loại. Trao đổi và đối thoại giữa các nền văn hóa chính là công cụ hữu hiệu nhất để xây dựng hòa bình, một giá trị đẹp đẽ của nền văn hóa nhân loại.
Một điểm mới rất quan trọng lần đầu tiên xuất hiện trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng là cụm từ “thấm nhuần tinh thần dân tộc”. Đây là mục tiêu hàng đầu vì chúng ta đang bàn đến xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.Trước đây nói “đậm đà bản sắc dân tộc” là mới chỉ dừng lại ở những đặc điểm chính, tính chất đặc biệt vốn có của văn hóa. Còn khi nói “thấm nhuần tinh thần dân tộc” là đã được nâng lên ở một trình độ mới, một chất mới, không chỉ có “bản sắc dân tộc” mà còn nhiều khía cạnh khác nữa như ý nghĩ, tình cảm, tâm lý, luân lý dân tộc, những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người, của dân tộc. Một người thấm nhuần tinh thần dân tộc là hiểu kỹ tinh thần dân tộc, chịu tác dụng và ảnh hưởng sâu sắc của tinh thần dân tộc.
Nói “thấm nhuần tinh thần dân tộc” còn có thể hiểu là sự thấm nhuần một thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động quyết định hành động của con người, chẳng hạn, tinh thần dân tộc Việt Nam là “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”; “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ”; “dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng giành kỳ được độc lập, tự do”; “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và quan trọng nhất khi nói “thấm nhuần tinh thần dân tộc” là tất cả phải bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết. Và rõ ràng điều này không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực văn hóa mà nó phải thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… tức là phải đặt lên hàng đầu lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc.
Mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam “thấm nhuần tinh thần dân tộc” nghĩa là trong đó bao hàm cả tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Thấm nhuần tinh thần dân tộc là thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ công dân đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội, dân tộc và đất nước.
Con người Việt Nam thấm nhuần tinh thần dân tộc với ý nghĩa đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết là chứa đựng cả nhân cách, đạo đức, trí tuệ, tài năng, sáng tạo, tâm hồn, ý thức tuân thủ pháp luật. Một tinh thần dân tộc chân chính tất yếu sẽ dẫn tới một tinh thần quốc tế chân chính, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, gắn chặt mục tiêu của dân tộc với mục tiêu của thời đại.
Một tinh thần dân tộc chân chính hiểu như vậy là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
[1] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.14.
[2] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Sđd, tr.23.
[3] Tạp chí Heral Tribune, ngày 08-10-1993. Xem thêm Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 164, ngày 10-01-2010, tr.5.
[4] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh tinh hoa khí phách của dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.255-256.
215
2293
21689
225547
130677
114578490