Tháng 9 năm 1945, 20 vạn quân Tàu Tưởng tràn vào miền Bắc dưới danh nghĩa quân Đồng Minh giải giáp quân Nhật từ phía bắc vĩ tuyến 16. Quân Anh vào giải giáp quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Các đảng phái chính trị, trong đó có nhiều đảng đã bị tha hóa, phản động, theo chân đội quân của Lư Hán tranh giành chính trường, tranh giành quyền lực. Ngày 23.9.1945, chiến tranh bùng nổ ở Nam Bộ. Quân đội Pháp theo sau quân đội Anh tấn công Sài Gòn. Nạn đói hoành hành ở miền Bắc, 2 triệu người chết đói. Hơn 90% dân Việt Nam vẫn bị mù chữ.
Năm 1946 là năm thử thách bản lĩnh chính trị của các chính đảng, chính khách trên chính trường của một thể chế non trẻ. Đây là thời điểm cam go nhất của số phận dân tộc, của chính đảng cộng sản và của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình đã tập hợp được đồng bào cả nước, đặc biệt là giới trí thức thành một khối đoàn kết đại dân tộc trên nền tảng một niềm tin, một khát vọng vì Tự Do, Độc lập, Dân chủ, vì Dân giàu, Nước mạnh.
Năm 1946, là thời điểm mà vận mệnh dân tộc “treo trên đầu sợi tóc”, bởi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định, đó là vì 3 thứ giặc, giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Thù trong, giặc ngoài vây hãm nền độc lập dân tộc. Thế nhưng, cách mạng Việt Nam đã “thoát hiểm” một cách ngoạn mục và đặt những nền tảng ban đầu vô cùng quan trọng cho một nhà nước hiện đại phù hợp với xu thế của thời đại.
Ngày 1 tháng 1, Chính phủ Liên hiệp lâm thời với sự tham gia của các yếu nhân thuộc Việt nam Quốc dân Đảng và Việt nam cách mạng đồng minh hội làm lễ ra mắtvà tuyên bố tiến hành Tổng tuyển cử trong cả nước.
Ngày 6 tháng 1, Tổng tuyển cử đầu tiên được thực hiện suốt từ Bắc đến Nam bầu ra Quốc dân Đại hội [Quốc Hội] đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Tiếp đó, mặc dù người Pháp và các thế lực phản động luôn có hành động thù địch, gây hấn nhưng lần đầu tiên Việt nam đã xây dựng và ban hành bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Điều đặc biệt hơn, Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1946 đã tích hợp được hầu hết những yếu tố cơ bản nhất, khoa học nhất của tư pháp hiện đại theo hướng tiếp thu các giá trị nhân văn, tiến bộ có tầm phổ quát toàn nhân loại mà đến nay còn có ý nghĩa thiết thực và giá trị to lớn.
Năm 1946, cũng trong bối cảnh khó khăn trăm bề, phải đương đầu với các lực lượng ngoại bang hùng mạnh hơn nhiều lần, nhưng những người Cộng sản, chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự tin, dũng cảm và khôn khéo thể hiện ý chí, bản lĩnh để bảo vệ chủ quyền đất nước, độc lập – thóng nhất dân tộc.
Ngày 18 tháng 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Công hàm ngoại giao tới Chính phủ các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô, Anhtố cáo thực dân Pháp ngày 23 tháng 9 năm 1945 tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược trở lại Việt Nam. Công hàm khẳng định, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập một cách hợp pháp và là một yếu tố của hoà bình, tiến bộ trong việc xây dựng lại thế giới. Nước Việt Nam mới có quyền được bảo vệ theo những nguyên tắc bất khả xâm phạm nhất của Hiến chương Xan Phranxixcô và Hiến chương Đại Tây Dương.
Hồ Chí Minh đề nghị các nước với tư cách là những cường quốc hãy thực hiện tất cả những bước đi thích hợp, can thiệp khẩn cấp ngăn chặn cuộc đổ máu đang diễn ra ở Nam Việt Nam, và đi tới một giải pháp cấp bách, hợp lý cho vấn đề Đông Dương. Công hàm của chính phủ Việt nam khẳng định, trong khi tin tưởng chờ đón một biện pháp tích cực của các Chính phủ Mỹ, Anh, Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam đã xác định sẽ chiến đấu tới giọt máu cuối cùng chống lại việc tái lập chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Với công hàm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức đưa/đặt Việt Nam vào bản đồ chính trị thế giới. Đó là một bước đi vô cùng tinh tế và quyết đoán, thể hiện tầm nhìn xa của Người.
Ngày 3-3-1946, sau khi chính quyền Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Pháp ký kết Hiệp ước Pháp - Hoa vào ngày 1-3-1946, tại Trùng Khánh (Trung Quốc), trao cho thực dân Pháp quyền thay thế quân đội Tưởng tước vũ khí quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương xác định tạm hòa hoãn để bảo tồn và phát triển lực lượng, chờ thời cơ để tiến lên. Đảng chủ trương: "Nếu Pháp giữ chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn ngày 24-3-1945, thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hoà, hoà để phá tan thâm thù của bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc để giử thực lực của ta tiêu hao".
Bản Chỉ thị nhấn mạnh: "Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta".
Ngày 5-3-1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng nhất trí tán thành chủ trương hoà để tiến, quyết định tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại bớt một kẻ thù nguy hiểm là Tưởng Giới Thạch.
Ngày 6-3-1946, bản Hiệp định Sơ bộ giữa chính phủ Pháp và Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòađược ký kết. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp. Nước Việt Nam có Chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Việc thống nhất đất nước sẽ được quyết định bằng trưng cầu ý dân. Chính phủ Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào thay quân Tưởng. Quân Pháp phải rút khỏi Việt Nam sau 5 năm, mỗi năm rút một phần năm. Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Hai bên sẽ mở cuộc đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Pari.
Sau ký Hiệp định sơ bộ, ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hoà để tiến, tiếp tục chủ trương và làm rõ ký hiệp định là nhằm "Tránh tình trạng bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động”; bảo toàn lực lượng, giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào... chuẩn bị đầy đủ lực lượng và tinh thần cho công cuộc kháng chiến.
Thực hiện chỉ thj này, Đảng và chính phủ hết sức nỗ lực hoạt động trên các mặt: Xây dưng lực lượng, đấu tranh ngoại giao và đấu tranh trấn áp bọn phản động. Ngày 3-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 44, thành lập Ban Trung ương Vận động đời sống mới, nhằm giáo dục cho cán bộ và nhân dân ta tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính, xoá bỏ những tư tưởng và tập quán lạc hậu của xã hội cũ.Ngày 10 tháng 4, Chính phủ ban hành Sắc lệnh Đảm phụ quốc phòngchỉ áp dụng trong niên khoá 1946 trên toàn Việt Nam nhằm đáp ứng nhu càu tài chính quốc phòng;Tổ chức kỷ niệm ngày 1 tháng 5. Đặc biệt là tổ chức các lực lượng chính trị xã hội để làm đồng minh, hậu thuẫn cho Đảng công sản [lúc này đã rút vào hoạt động bí mật] như Hội Liên hiệp quốc dân Việt nam, Đảng Xã hội Việt Nam…Sự kiện thành lập Đảng xã hội Việt nam đánh dấu bản lĩnh và sự trưởng thành rất lớn về chính trị, nghệ thuật chính trị của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là tổ chức cần có để tập hợp đội ngũ nhân sỹ trí thức, văn nghệ sỹ trong khối đại đoàn kết dân tộc để cùng hướng tới mục tiêu chung là lợi ích dân tộc, là xây dựng một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như Truyên Ngôn Độc Lập đã khẳng định.
Cùng với chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chủ động thực hiện kháng chiến, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục chủ động trên mặt trận ngoại giao. Từ ngày 16 tháng 4 đến 16 tháng 5, phái đoàn Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã sang thăm nước Pháp. Đoàn đã gặp nhiều nghị sĩ của Quốc hội Pháp, nhiều đoàn thể quần chúng và các tầng lớp nhân dân Pháp, Việt kiều. Phái đoàn đã nêu rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mong muốn hợp tác với Chính phủ Pháp trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Tiếp đó, từ ngày 31 tháng 5 đến 19 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm thượng khách sang thăm nước Pháp với sứ mạng tháo ngòi nổ cuộc chiến tranh và hướng tới một giải pháp chính trị – quân sự có thể chấp nhận được để bảo vệ Hòa Bình- Thống nhất - Độc lập.
Tiếp theo Hội nghị Đà lạt không đem lại kết quả, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cộng hoà Pháp hội đàm ở Phôngtennơblô. Vì các yêu sách thiếu thiện chí của người Pháp, Hội nghị không mang lại kết quả. Để kéo dài thời gian hòa hoãn, ngày 14 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại tiếp tục ký với người Pháp Bản thỏa hiệp tạm thời. Những động thái đối ngoại này đã đem lại một quỹ thời gian vô cùng quý để chúng ta chuẩn bị lực lượng đối phó với thực dân Pháp và các tổ chức phản động trong nước.
Cùng với công cuộc diệt giặc đói, giặc dốt, trong một thời gian ngắn, với một tầm nhìn chính trị vừa xa vừa rộng, với một bản lĩnh vừa kiên cường vừa kiên trì, cương nhu hài hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã tạo được một thế đứng vững vàng để sẵn sàng chủ động ứng phó với âm mưu của thực dân Pháp. Tháng 11, thực dân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, rồi Lạng Sơn mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2. Ngày 5 tháng 11, Chủ tịch Hồ Chí minh ra chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờxác định rõ nhiệm vụ cơ bản khẩn cấp của nhân dân ta lúc này là kháng chiến và kiến quốc. "Một mặt phá hoại. Một mặt kiến thiết. Phá hoại để ngăn địch. Kiến thiết để đánh địch". Bắt đầu cuộc chiến tranh đã lo chuyện kiến thiết. Kiến thiết để chiến đấu. Kiến thiết để tồn tại và phát triển. Bình tĩnh, tự tại và chủ động. Một tư duy biện chứng, một tầm nhìn xuyên thời gian.
Theo mốc thời gian, ngày 9 tháng 11, Quốc hội thông qua Hiến pháp. Câu hởi lớn cần suy ngẫm là tại sao đến thời điểm sát nút bóp cò cuộc chiến mà Chủ tịch hồ Chí Minh và các đồng chí, cộng sự của mình vẫn tỉnh táo và quyết định một sự kiện trọng đại như vậy. Phải chăng cần phải làm, phải có như vậy để khẳng định sự chính danh, chính nghĩa của cuộc kháng chiến sắp tới của người Việt Nam, dân tộc và Nhà nước Việt Nam
Ngày 19 tháng12, Đảng CS VN phát động cuộc kháng chiến toàn quốc; Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Một điều khó lý giải và vô cùng hấp dẫn là trong tình hình nước sôi lửa bỏng đó, nhưng ngày 16-11-1946, Tổng Bí thư Trường Chinh đệ trình Chủ tịch Hồ Chí Minh bản thuyết trình về Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước. Bản thuyết trình nêu rõ: trước cuộc cách mạng, văn hoá cách mạng đóng một vai trò khá quan trọng là tuyên truyền giác ngộ, cổ động nhân dân khởi nghĩa giành độc lập. Trong cuộc cách mạng, văn hoá cách mạng phải kích thích tinh thần khởi nghĩa, làm sôi nổi nhiệt huyết cách mạng của nhân dân, thôi thúc nhân dân nổi dậy tất cả giành lấy chủ quyền; kháng chiến giữ vững chủ quyền ấy. Sau cuộc cách mạng, văn hoá cách mạng phải động viên mọi lực lượng văn hoá của dân tộc, hăng hái tham gia kiến quốc; gây đời sống mới, gột rửa những tư tưởng, tập quán hủ bại, giáo dục nhân dân, làm cho dân tộc có một nền văn hoá tiến bộ.Thuyết trình nêu ra bốn nhiệm vụ cụ thể của văn hoá Việt Nam giai đoạn này như sau:1. Phát triển tinh thần đoàn kết và yêu nước của dân tộc, củng cố đức tin của dân tộc ở sự nghiệp dân tộc giải phóng.2. Phát triển những cái hay, cái đẹp trong văn hoá cổ truyền của dân tộc; đồng thời bài trừ những cái xấu xa hủ bại.3. Ngăn ngừa sức thâm nhập và tấn công của văn hoá phản động, văn hoá thực dân; đồng thời học những cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới, nhất là văn hoá Tàu và Pháp.4. Kiến thiết một nền văn hoá mới cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bao gồm: giáo dục nhân dân, gây đời sống mới, phát triển tư tưởng khoa học và học thuật tiến bộ, phát triển văn nghệ đại chúng.
Nhắc lại một số sự kiện của năm 1946 để chúng ta khẳng định tầm nhìn 1946 của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một tầm nhìn xuyên thời gian từ quá khứ đến tương lai, thấu không gian từ nước Việt đến toàn cảnh địa cầu. Cuộc chiến tranh tàn khốc sắp đến, chắc chắn đến trong khi khi lực lượng còn mỏng, nhân tài vật lực còn thiếu nhưng đã dành thời gian và trí tuệ dựng xây nền tảng cho tương lai, kể cả tương lai hậu chiến. Hiến pháp 1946 là một thành tựu đến hôm nay vẫn ngời sáng. Những vấn đề về nhiệm vụ văn hóa đến hôm nay vẫn còn ý nghĩa thời sự.
Năm 1946 đã lùi vào lịch sử tròn 70 năm. Độ lùi thời gian đó càng làm tỏa sáng tầm vóc và ý nghĩa của các sự kiện lịch sử, càng bộc lộ rõ, sâu sắc hơn trí tuệ, bản lĩnh của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu nhìn lại, nhiều vấn đề của hôm nay sẽ được sáng tỏ bằng các cứ liệu lịch sử từ năm 1946, từ xây dựng Hiến pháp đến việc ban hành các luật; từ việc tổ chức chính phủ đến tổ chức các đảng phái, các tổ chức quần chúng; từ giải quyết vấn đề cứu tế dân sinh đến chính sách đối ngoại ; từ phân quyền đến tập quyền; từ xây dựng lực lượng vũ trang đến xây dựng ngân sách, từ quốc phòng đến văn hóa…Có một điều đặc biệt nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta lúc đó là luôn luôn tôn trọng và đề cao, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Giải quyết bất cứ vấn đề gì, trong bất kể mối quan hệ nào đều giữ nguyên tắc đó. Đó là nền tảng để đoàn kết đảng phái, là động lực thu hút, tập hợp các tầng lớp xã hội, nhất là giới trí thức, nhân sỹ, thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Mặt khác, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hòa giữa bảo vệ các giá trị và lợi ích dân tộc đồng thời với tôn trọng, tiếp nhận các giá trị phổ quát của nhân loại. Chính thái độ khách quan này là tiền đề quan trọng cho sự công nhận và ủng hộ Việt Nam của các lượng quốc tế, không chỉ trước mắt mà còn lâu dài về sau. Đó là biểu hiện sinh động của cách tư duy khách quan khoa học, sáng suốt “biết mình, biết ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau 70 năm, Việt Nam đã có những bước tiến rất dài trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và quốc phòng… Vị thế của Việt nam trên trường quốc tế đã khác rất nhiều, rất xa năm 1946. Tuy nhiên, tại thời điểm này, chúng ta đang gặp không ít khó khăn và có những nét tương đồng với năm 1946. Đó là chủ quyền quốc gia đang bị đe dọa xâm phạm. Biển Đông đang bị Trung Quốc xâm lấn và đưa ra yêu sách ngang ngược. Nền kinh tế đang tụt hậu, trì trệ; Nợ công tăng cao, ngân khố eo hẹp. Các nhóm lợi ích lũng đoạn nền kinh tế quốc gia. Tham nhũng, quan liêu tràn lan, nặng nề và trắng trợn. Các tệ nạn xã hội còn nhiều. Nền tảng đạo đức xã hội xuống cấp. Niềm tin bị xói mòn. Đời sống văn hóa có nhiều xô bồ, lai căng, phức tạp. Các giá trị và bản sắc truyền thống bị mai một …Có thể nói, chúng ta đang ở vào tình thế khó khăn, cả về đối nội lẫn đối ngoại. Sự lựa chọn bước đường tiếp theo cho đất nước của Đảng ta cũng là vô cùng khó khăn trong bối cảnh địa chính trị - kinh tế - an ninh quốc tế hiện nay đang và sẽ tiếp tục vô cùng phức tạp, nhạy cảm và mong manh trong khi phải đảm bảo chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, xã hội dân chủ, văn minh và phát triển kinh tế xã hội theo kịp xu thế của thời đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam đang là lực lượng lãnh đạo duy nhất của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, trách nhiệm dẫn dắt đất nước trước hết thuộc về Đảng. Nhằm hoàn thành sứ mạng đó, một cái nhìn hồi cố và quy chiếu từ lịch sử để nghĩ cho hiện tại và tương lai là điều cần thiết.
Từ 2016 nhìn và nghĩ về 1946 chắc sẽ có nhiều điều đáng tự hào, nhiều bài học, nhiều chỉ dẫn bổ ích và thiết thực, không chỉ cho hôm nay, mà cho cả ngày mai.
Chúng ta có “thoát hiểm” ngoạn mục như năm 1946 hay không?
Hãy tin là có vì chúng ta đã từng có Tầm Nhìn 1946 và Kỳ Tích 1946 ./.