Những góc nhìn Văn hoá

Từ 1946 đến 2016 - Hành trình thượng tôn Dân tộc, tôn trọng Nhân dân

Từ 1946 đến 2016, 70 năm, Việt Nam phải trải qua nhiều khúc quanh lịch sử vô cùng khắc nghiệt. Năm 1946, nền độc lập dân tộc vừa giành được có nguy cơ tuột khỏi tay người Việt Nam một lần nữa. Chiến tranh Việt Nam/Đông dương lần thứ nhất bùng nổ. Cả đất nước chìm trong đạn lửa.

 10 năm sau, năm 1956, do sự can thiệp từ bên ngoài, Hiệp định Giơnevơ  không được thực thi đầy đủ, tổng tuyểnthống nhất đất nước không  được thực hiện, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai manh nha khởi đầu.

Năm 1986, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài suốt 10 năm sau ngày kết thúc chiến tranh (1975) với cú knock out “giá – lương tiền” năm 1985 cùng với hậu quả của hai cuộc chiến tranh Tây Nam và biên giới phía Bắc, sự cấm vận của phương Tây và các nước trong khu vực đã dồn  Việt Nam vào thế cùng khắc nghiệt của số phận.

Cả ba thời điểm này, số phận dân tộc ta đều vô cùng khó khăn, thậm chí là “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng, cả ba lần ấy, dân tộc ta đã thoát hiểm.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập. Dưới danh nghĩa phe Đồng Minh, quân đội Trung Hoa Dân Quốc [Quốc Dân Đảng - Tưởng Giới  Thạch] tràn vào miền Bắc; quân đội Anh tràn vào miền Nam. Không từ bỏ âm mưu xâm lược - cai trị, núp bóng quân Anh, ngay từ tháng 9 năm 1945, nghĩa là ngay sau khi Chủ   Chí Minh tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập Nhà nước mới – Dân Chủ Nhân Dân của người Việt Nam,  thực dân Pháp đã gây hấn ở Nam bộ. Chiến tranh thực sự đã nổ ra ở phần lãnh thổ phía nam Tổ Quốc. Trong lúc đó, quân đội  Trung Quốc cũng quấy nhiễu, gây ra rất nhiều rắc rối khó khăn cho Chính phủ Việt Nam ở miền Bắc. Đó là chưa kể, quân đội của Tưởng Giới Thạch đã nuôi dưỡng, dung túng cho các đảng phái phản động để chống phá cách mạng Việt Nam, chống phá chính phủ Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng đầu. Cũng cần phải nói thêm rằng, tại thời điểm năm 1945 – 1946, Nhà nước - Chính phủ Việt Nam chưa có bạn bè quốc tế, chưa được công nhận trên trường quốc tế. Chúng ta chưa trở thành một thực thể trên bản đồ chính trị thế giới tại thời điểm đó. [Mãi đến năm 1950 mới bắt đầu có các nước trong phe xã hội chủ nghĩa công nhận]. Lúc này chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân Việt Nam đang rất cô đơn, cô độc trên trường chính trị quốc tế. Trong lúc đó, tình cảnh trong nước cũng vô cùng khó khăn. Một nền kinh tế kiệt quệ lại càng kiệt quệ hơn khi vừa phải trải qua nạn đói với hai triệu người chết vì không có ăn. Chưa hết, hơn 90% dân số còn mù chữ. Lúc đó, Việt Nam là một dân tộc nghèo đói và lạc hậu. Lực lượng vũ trang mới bắt đầu xây dựng từ con số 1 trung đội với 34 người vào tháng 12 năm 1944.

Trong tình thế nan giải đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình đã nhận định đúng tình hình, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt, lâu dài và đề ra các sách lược phù hợp.  Điều quan trọng số một, có tính chất nền tảng là tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi nguồn lực để bảo vệ và xây dựng đất nước. Điều đó không chỉ ở các công việc cụ thể mà được thể hiện bằng việc xây dựng các nền tảng pháp lý. Quốc hội khóa Iđược bầu có sự tham gia của đại biểu các đại biểu đại diện cho các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, tôn giáo. Thành phần Chính phủ cũng có mặt của các đảng phái khác nhau. Quan điểm xây dựng nhà nước này còn được thể hiện trong Hiến pháp đầu tiên, ban hành cuối năm 1946. Từ quan điểm nền tảng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã thực sự tập hợp được sức mạnh dân tộc để chiến đấu chống lại ba thứ giặc [Đói, Dốt và Ngoại xâm]. Toàn thể nhân dân đã tích cực hưởng ứng Tuần lễ vàng; Phong trào bình dân học vụ; Nam tiến - Kháng chiến Nam bộ và  chuẩn bị lực lượng vũ trang cho cuộc trường kỳ kháng chiến vì tin tưởng vào chính sách đoàn kết dân tộc và nền tảng pháp lý khách quan hiện đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trở lại với năm 1946, chúng ta thấy rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã ngay từ đầu có một triết lý ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến” vô cùng đúng đắn, linh hoạt, cương – nhu đúng lúc, vừa kiên định lập trường vừa  mềm dẻo chờ thời. Hiệp định sơ bộ 6.3 và Tạm ước 14.9 là những  sách lược ngoại giao sáng tạo và khôn ngoan của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cộng sự để chuẩn bị thế thủ vững chắc nhằm kiên định bảo vệ lập trường độc lập và thống nhất đất nước.  Nhân đây, cho đến hôm nay, thiết nghĩ chúng ta vẫn cần đặt ra câu hỏi tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chấp nhận phương án quân Pháp thế chân quân Tàu [Tưởng] ở miền Bắc mặc dù rất thấu rõ mưu đồ tái xâm lược của người Pháp? Phải chăng ông đã quá hiểu rõ bản chất của người Trung Quốc và nguy cơ lâu dài sẽ đến từ người Trung Quốc!? Nếu đúng vậy, quả là một tầm nhìn xuyên suốt lịch sử.

Suốt từ 1945 đến tận trước giờ nổ súng, 20 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Minh luôn ở thế bị động bởi các điều kiện khó khăn và bị các thế lực đối lập áp đặt lối chơi nhưng  đã mưu trí để ứng phó, tự tạo thế chủ động khi tiếp cận và giải quyết các vấn đề. Việc gửi công hàm lên Liên hợp quốc đề nghị các nước lớn tham gia giải quyết thỏa đáng vấn đề Việt Nam là một nước cờ chủ động và cao tay. Hồ Chí Minh đã chủ động quốc tế hóa vấn đề Việt Nam, ghi danh Việt Nam trên bản đồ chính trị thế giới, khẳng định Chính phủ Việt Nam là một thực thể chính trị trên bản đồ đó; không để người Pháp, người Trung Quốc qua mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam làm cái “việc đã rồi”. Trong việc củng cố, xây dựng lực lượng ta cũng luôn chủ động từ xây dựng nhà nước đến xây dựng lực lượng vũ trang, từ sản xuất kinh tế đến  xây dựng pháp luật…Nhờ sự chủ động đó mà nhà nước non trẻ của chúng ta đã không bị bất ngờ mà còn là bên lựa chọn và áp đặt hình thái cuộc chiến tranh với người Pháp.

Từ khi Tuyên ngôn độc lập đến ngày bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ vỏn vẹn 15 tháng nhưng Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã liên tục đi qua những bước ngoặt chính trị - quân sự và kinh tế quan trọng, không chỉ để đối phó với các tình thế cấp bách mà còn có ý nghĩa đặt nền móng lâu dài cho việc bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng nhà nước, xây dựng xã hội mới hiện đại.

Vượt qua năm 1946 có thể nói là một kỳ công chính trị hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí, cộng sự. 70 năm đã qua nhưng đến tận bây giờ, có nhiều giá trị mà các bậc tiền bối làm nên vẫn còn giá trị, còn ý nghĩa thời sự, thậm chí vẫn là mục tiêu mà chúng ta phải hướng đến trong tương lai.

Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi nhưng cuối cùng đã trở nên không trọn vẹn vì sự đổi chác trên lưng người Việt Nam của các thế lực quốc tế tại hội nghị Giơnevơ. Năm 1956, dưới sự bảo trợ của người Mỹ và người Pháp, Việt Nam Cộng Hòa thành lập thay thế cho Quốc gia Việt Nam. Việt Nam không thể tổ chức được hiệp thương thống nhất đất nước vì toan tính của Ngô Đình Diệm và của các thế lực ngoại bang, kể cả người Trung Quốc.  Người Trung Quốc muốn biến miền Bắc Việt Nam thành lá chắn cho họ trước mũi kiếm Mỹ.  Một lần nữa, chúng ta bị dồn và thế khó, thế bị động. Đất nước bị chia cắt. Nguy cơ chiến tranh là rõ ràng. Trong lúc đó trong nội bộ cũng có rất nhiều khó khăn của một đất nước vừa trải qua 9 năm chiến tranh. Hậu quả của cải cách ruộng đất [theo kiểu Trung quốc] là rất nặng nề. Không chỉ kinh tế đình đốn mà lòng người ly tán, hận thù gieo sâu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải xin lỗi đồng bào và rơi nước mắt vì những sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất. Đảng đã phải cách chức Tổng Bí thư, đưa ra khỏi Bộ Chính trị 2 ủy viên, Ban chấp hành Trung ương 1 ủy viên. Trước đó, các dòng người nhẹ dạ theo Quốc gia Việt Nam, “theo Chúa” di cư từ miền Bắc vào miền Nam đã tạo nên sự xáo trộn vô cùng nghiêm trọng đối với đời sống chính trị, kinh tế, xã hội miền Bắc. Rồi vụ Nhân văn Giai phẩm cũng bắt đầu từ năm 1956 báo hiệu những biến động sâu sắc về tư tưởng, về văn hóa trong tầng lớp trí thức. Bạo loạn nổ ra ở một số địa phương, điển hình nhất là ở Quỳnh Lưu [Nghệ An].  Họa vô đơn chí, giậu đổ bìm leo. Khó khăn nối tiếp khó khăn. Trong tình thế khó khăn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vẫn bình tĩnh, tự tin để có những nhận tình hình một cách sáng suốt nhất và từng bước tìm cách hóa giải.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (1-1956) trước sau vẫn kiên định mục tiêu thống nhất đất nước, độc lập dân tộc. Ngày 8/6, Bộ Chính trị ra nghị quyết về "tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam" (8-6) xác định mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ.Đồng thời, đã khẳng định miền Bắc bước vào giai đoạn quá độ xây dựng chủ nghĩa xã  hội, là hậu thuẫn cho sự nghiệp thống nhất đất nước.

Công cuộc xây dựng miền Bắc được khởi động và sớm có những thành tựu kinh tế: khôi phục Nhà máy Dệt Nam Định (10-1); khánh thành đường hàng không quốc tế đầu tiên Việt Nam - Trung Quốc (24-4); Nhà máy diêm Thống Nhất (16-6); cầu Việt Trì và khôi phục đường sắt Hà Nội - Lào Cai (7-8); mỏ thiếc Tĩnh Túc (7-10).

Trong thế cô đơn, ta đã chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại. Hàng loạt hiệp định kinh tế được ký kết với các nước xã hội chủ nghĩa và Ấn Độ (22-9). Đón tiếp các biểu vương quốc Lào do Thủ tướng Xuvana Phuma (28,29-8) và đoàn Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu thăm Việt Nam (18 đến 22-11).

Ở miền Nam, tháng tám, Bí thư Xứ ủy Nam kỳ - Lê Duẩn viết "Đề cương cách mạng miền Nam", và tháng mười hai Hội nghị Xứ uỷ Nam bộ họp đề ra nhiệm vụ cụ thể. Trận đánh vũ trang đầu tiên nổ ra ở Bến Củi, Tây Ninh (29-10) và cuộc nổi dậy bạo động của tù chính trị tại nhà lao Biên Hoà (cuối 12-1956) là những mở đầu báo hiệu sớm cho xu thế tất yếu của cách mạng miền Nam.

Năm 1956 là thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tự giải thoát những khó khăn một cách  quyết đoán và mau lẹ. Quyết đoán ở chỗ khi không thể thực hiện Tổng tuyển để thống nhất thì vẫn kiên trì mục tiêu thống nhất và độc lập dân tộc nhưng đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ là đấu tranh cách mạng ở miền Nam để thực hiện thống nhất đất nước và xây dựng miền Băc theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Quyết đoán ở chỗ chấp nhận kỷ luật các đảng viên mắc sai lầm để bảo vệ uy tín của đảng, để giữ Dân cho Đảng, cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Có thể nói rằng sự dũng cảm nhận trách nhiệm về những sai lầm trong cải cách ruộng đất đã cứu sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, để từ đó bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc, cả dân tộc cùng chung ý chí, đi đến khải hoàn cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước năm 1975.

Nhưng rất đáng tiếc, sau 1975, dân tộc ta lại không may đi vào một cuộc khủng hoảng mới, toàn diện và nặng nề. Cuộc khủng hoảng này có nguyên nhân từ sự chống phá của những kẻ bại trận, từ sự tranh chấp lợi ích địa chính trị - kinh tế - an ninh đến từ các cường quốc liên quan, nhất là Trung Quốc. Hai cuộc chiến tranh ở hai đầu đất nước, bị bao vây cấm vận là những dẫn chứng không thể chối bỏ. Nhưng, nhìn lại, có cả nguyên nhân đến từ chính sự yếu kém về tư duy chính trị - kinh tế mà gốc là bệnh chủ quan, “kiêu ngạo cộng sản” [chữ dùng của Lê Nin] trong nhận thức của chúng ta. Bởi vậy, với cú knock out giá lương tiền năm 1985 đã đưa nền kinh tế - xã hội của chúng ta chạm đáy cuộc khủng hoảng. Lạm phát tăng. Sản xuất đình đốn. Chợ cấm – sông ngăn. Dân đói.  Niềm tin giảm. Giặc Trung Quốc vẫn quấy nhiễu cả biên giới trên bộ lẫn ngoài biển/đảo. Tình  thế đất nước có nhiều  nét tương đồng với năm 1946. Một lần nữa chúng ta bị dồn vào chân tường, hoặc thay đổi để tồn tại và tiến lên, hoặc là kiên trì  bảo thủ với các tín điều lạc hậu để bị suy kiệt đến mức không còn đủ sức lực để bảo vệ đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Đảng ta đã dũng cảm và tỉnh táo thực hiện công cuộc Đổi Mới. Đại hội VI của Đảng là đại hội của tinh thần và tư duy Đổi mới. Đảng ta chủ trương đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức, đổi mới hành động; Đổi mới toàn diện trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội; Đổi mới về chính trị, về kinh tế, về văn hóa; Đổi mới về đối nội và đổi mới về đối ngoại…Dẫu là công cuộc Đổi Mới đến quá muộn nhưng nó đã phát huy tác dụng rất nhanh, góp phần quyết định chặn đứng gia tốc suy thoái kinh tế - xã hội của đất nước, từng bước hạn chế mức độ và hậu quả của cuộc khủng hoảng, tiến tới hồi phục và phát triển nền kinh tế - xã hội. Một ví dụ rất sinh động và có thể nói sẽ tạo nên sự xúc động: Năm 1988, cả nước vẫn có 19 tỉnh ở miền Bắc lâm vào nạn đói, chính phủ phải yêu cầu Liên Hiệp Quốc viện trợ nhân đạo khẩn cấp. Thế nhưng, nhờ chủ trương  về Đổi Mới quản lý kinh tế nông nghiệp  (Nghị quyết 10/NQ [5 -4- 1988] của Bộ Chính trị, hay còn gọi là Khoán 10) và sau đó là  Nghị quyết bỏ hẳn chính sách hợp tác hóa nông nghiệp để tăng gia sản xuất [12/6/1988], và trước đó, ngày 1/3/1987, giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các tuyến đường nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa mà năm 1989 Việt Nam đã xuất khấu gạo đứng thứ 3 thế giới (sau Thái Lan và Hoa Kì). Với chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, đa phương hóa về đối ngoại, thu hút các nguồn đầu tư từ bên ngoài, sang những năm đầu thập kỷ 1990s, nền kinh tế Việt nam đã có tăng trưởng khá. Về văn hóa, với chủ trương mở rộng dân chủ, đề cao các giá trị nhân văn, khuyến khích sáng tạo với câu nói nổi tiếng của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh:  “Hãy tự cứu trước lúc trời cứu” đã tạo nên một luồng sinh khí mới cho các hoạt động sáng tạo nghệ thuật trên khắp cả nước và để lại nhiều thành tựu có giá trị cao.

Năm 1986, chủ trương Đổi Mới là một quyết đoán sáng tạo của Đảng ta. Mấu chốt thành công của sự nghiệp Đổi Mới chính là ở chỗ Đảng ta đã không mặc cảm về những sai lầm, dám tự đổi mới mình về tư duy và nhận thức về chính trị, tư tưởng. Đảng ta đã thay đổi cách tư duy để bỏ qua rất nhiều, rất xa những nhận thức lạc hậu, giáo điều, nhất là những ảnh hưởng của tư tưởng maoist, để nhận thức khách quan hơn về các quan hệ chính trị, kinh tế, về các quy luật tồn tại và phát triển của văn hóa trong xu thế hội nhập toàn cầu…Nhữngthành công của sự nghiệp đổi mới là rất rõ ràng, cụ thể, phải được khẳng định, tôn vinh. Nếu tiếp tục sự nghiệp Đổi mới một cách toàn diện hơn, triệt để hơn, sâu sắc hơn, phù hợp với bối cảnh mới của tình hình trong và ngoài nước, chắc chắn thành tựu sẽ to lớn hơn rất nhiều.

 

Năm 2016, sau 30 năm Đổi mới, đất nước đã có nhiều đổi thay, phát triển nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Nền kinh tế chưa thoát khỏi sa sút;  Nợ công tăng cao; Các nguy cơ chính trị - an ninh – kinh tế - xã hội vẫn tồn tại, đe dọa sự an nguy của nền độc lập dân tộc và sự tồn vong của chế độ. Cũng đầu năm 2016, từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam đã Đại hội lần thứ XII để định ra đường lối khắc phục khủng hoảng, bảo vệ và chấn hưng đất nước.

Bảy mươi năm qua, trên mỗi chặng đường, mỗi khi gian khó, gặp trở ngại khó khăn, Đảng ta đã luôn biết cách để vượt qua bằng chính trí tuệ và bản lĩnh của mình. Điều đó là chính xác. Nhưng , động lực nào đã đem lại cho Đảng ta trí tuệ và bản lĩnh đó? Thiết nghĩ, điều đó là xuất phát từ tư duy chính trị.  Có mục tiêu chính trị vì dân, vì nước thì đảng đó có lực lượng toàn dân tộc. Nếu không, đảng đó sẽ không có lượng  lượng, sẽ bị cô lập. Lịch sử Việt Nam hiện đại, đặc biệt năm 1946, đã chứng tỏ điều đó. Tại sao các đảng Việt Quốc, Việt cách không được nhân dân ủng hộ?  Tại sao Việt minh, Đảng Cộng sản lại được ủng hộ? Vì Việt Minh đánh chống Pháp, đuổi Tàu, bảo vệ độc lập dân tộc. Rồi năm 1955 – 1956, tại sao Đảng ta phạm sai lầm trong cải cách ruộng đất nhưng vẫn được nhân dân ủng hộ? Vì Đảng vẫn chủ trương đấu tranh vì độc lập dân tộc, những sai lầm là nhất thời, và Hồ Chí Minh, chủ tịch Đảng đã công khai thừa nhận sai lầm, công khai xin lỗi nhân dân.

Bảy mươi năm, đi qua nhiều năm BÍNH, hầu như năm nào chúng ta cũng gặp khó khăn, thậm chí là hiểm nguy. Thế nhưng Đảng ta đều vượt qua một cách tài tình, thậm chí là ngoạn mục. Đã có nhiều bài học được đúc kết. Nhưng sâu săc nhất, có lẽ là, biết đặt lợi ích Dân tộc lên trên hết, trên cả lợi ích đảng phái; và, biết tôn trọng Nhân dân, chân thành với Nhân dân. Nhờ có điều đó, Đảng đã tập hợp được ý chí, bản lĩnh, trí tuệ của toàn dân tộc, sẽ vượt qua mọi thử thách gian nguy.

Sức mạnh nào,  “sợi tóc” siêu nhiên nào kéo giữ được cả ngàn cân trong hoàn cảnh gian nguy đó? Trải nghiệm lịch sự hoàn toàn khẳng định sức mạnh đó được tạo thành  từ tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước của toàn thể đồng bào Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức ra điều đó. Người  đã từng nhận định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".

Nhờ thấu hiểu chân lý giản đơn nhưng huyền diệu đó mà Hồ Chí Minh đã tập hợp được lực lượng toàn dân tộc, phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần, vật chất của toàn dân tộc phục vụ cho sự nghiệp của Đảng, và của Người.

Hy vọng với 85 năm kinh nghiệm tranh đấu và lãnh đạo, Đảng CSVN sẽ tiếp tục trưởng thành, ngày càng trong sạch và lớn mạnh, ngày càng nâng cao phẩm chất văn hóa của một chính đảng vì dân, vì nước để tiếp tục dẫn dắt dân tộc giành nhiều thắng lợi mới, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ của Tổ Quốc, đem lại cho Nhân dân nhiều niềm tin yêu, tự do và hạnh phúc.

Năm tháng sẽ đi qua nhưng những bài học xương máu thì còn mãi./.

 

 

 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114612233

Hôm nay

2450

Hôm qua

2483

Tuần này

2933

Tháng này

227485

Tháng qua

131673

Tất cả

114612233