Những góc nhìn Văn hoá

Vai trò của tiếng Việt trong tiến trình phát triển dân tộc

Đến hôm nay là vừa tròn 70 năm kể từ ngày Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 70 năm ấy, tiếng Việt đã đi qua một chặng đường phát triển đầy vinh quang, thử thách trở thành niềm tự hào của mỗi người con dân nước Việt.

Có được thành quả ấy, trước hết là nhờ sự đấu tranh bền bỉ, sự hy sinh xương máu của bao thế hệ các chiến sĩ cách mạng và đồng bào cả nước, nhưng sẽ là thiếu nếu chúng ta không nói đến quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với sự sáng suốt của Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Công hòa ngày ấy. Để nhắc đến sự kiện lớn lao này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại những chặng đường mà lịch sử dân tộc đã đi qua.

Như chúng ta đều biết, nước Việt nam là nước có truyền thống văn hiên lâu đời. Tuy nhiên, sống trong cảnh hàng ngàn năm bị phong kiến Phương Bắc đô hộ và gần trăm năm bị thực dân Pháp xâm chiếm, tiếng Việt chưa lúc nào có được vị trí xứng đáng của mình. Với chính sách đồng hóa của phong kiến phương Bắc và chính sách ngu dân của thực dân, người Việt chưa lúc nào được dùng tiếng nói chính thức của dân tộc mình làm phương tiện giao tiếp hành chính quốc gia. Nói cách khác, suốt trong một thời gian dài như vừa nhắc tới, tiếng Việt chỉ có địa vị thấp kém và bị coi là thứ ngôn ngữ thứ yếu. Hàng ngàn năm dưới chế độ đô hộ, chữ Hán luôn là thứ văn tự chính yếu, chiếm vị trí độc tôn. Nó không chỉ được coi là phơng tiện bắt buộc dùng trong bộ máy hành chính Nhà nước mà còn được chọn làm phương tiện trong học hành, thi cử, chọn lựa nhân tài. Con cái dân thường thì không có điều kiện học chữ; con cái nhà quí tộc, quan lại, thương gia…muốn tiến thân cũng phải lấy chữ Hán để dùi mài kinh sử hòng đỗ đạt ra làm quan. Không những thế, các bậc văn nhân tài tử, các vị túc nho cũng dùng chữ Hán để sáng tác văn học. Đó là thứ văn chương bác học. Còn thứ văn học bình dân (gọi chung là văn học dân gian) thì chỉ được truyền miệng từ đời này qua đời khác.

Ý thức được vai trò to lớn của tiếng Việt và nhận thức rõ giá trị của ngôn ngữ trong bảo tồn văn hóa dân tộc, một số nhà nho cấp tiến đương thời đã nghĩ ra loại văn tự dùng riêng cho người Việt là chữ Nôm. Đây là  loại văn tự dùng các ký hiệu (các nét) của chữ Hán để sáng tạo ra loại chữ viết mới theo các qui tắc riêng của người Việt. Người có công đầu, theo tài liệu hiện có, là Hàn Thuyên Ngô Sĩ Cố - một nhà nho yêu nước thế kỷ XIII.  Sau đó, chữ Nôm từng được cha con Hồ Quý Ly cổ súy với ý đồ dùng làm quốc tự. Chỉ tiếc sự nghiệp của cha con Hồ Quý Ly không thành nên  chữ Nôm cũng không có cơ hội phát triển. Nhưng tinh thần tự tôn dân tộc theo ý tưởng của Hàn Thuyên tiên sinh đã được nhiều nhà nho tiến bộ hưởng ứng. Vì thế, trong kho tang văn học Việt, bên cạnh nền văn học chữ Hán đồ sộ có cả nên văn học Nôm với nhiều tác phẩm bất hủ. Trong đó phải kể đến những tên tuổi như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương…Song dù thế nào đi chăng nữa, chữ Nôm cũng mới chỉ được đề cao từ phương diện quần chúng và các trí thức tiến bộ, còn dưới con mắt của nhà cầm quyền, nó cũng chỉ được coi là “nôm na cha mách qué”, đến thiên tài như Nguyễn Du cũng phải thốt lên ở cuối tác phẩm Truyện Kiều của mình “ Lời quê cóp nhặt dông dài. Mua vui cũng được một vài trống canh”.

Khóa thi theo lối văn chương cử tử cuối cùng của Việt Nam kết thúc 1914-1919. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, một lớp quan trường mới được đào tạo theo lối Tây học đã hình thành. Người Pháp phế bỏ chữ Hán chính thức đưa tiếng Pháp vào làm công cụ hành chính quốc gia trên toàn cõi Đông Dương. Tiếng Việt- thứ ngôn ngữ ngàn đời của dân tộc vẫn sống trong hoàn cảnh ở địa vị thấp kém, đứng ngoài lề trong tiến trình phát triển của dân tộc.

Ý thức rõ về vai trò của ngôn ngữ cũng như chứ viết đối với sự nghiệp cách cách mạng, từ Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục các chí sĩ cách mạng đã vận động tuyên truyền cho dân chúng học chữ quốc ngữ. Đây là loại chữ ghi âm, rất dễ nhớ, dễ thuộc được Alêch xăng đrốt và một số nhà truyền giáo phương Tây kết hợp với các vị cha cố tiền bối củaViệt Nam tạo ra từ thế kỷ XVII. Lúc đầu thứ văn tự này là công cụ phục vụ cho việc truyền giáo. Nhưng thấy rõ được tính ưu việt của nó nên các trí thức yêu nước Việt Nam đã hăng hái cổ vũ biến nó thành thứ chữ viết phổ biến để mở mang dân trí và tăng cường nhận thức của đông dảo quần chúng nhân dân. Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, chữ quốc ngữ được coi là công cụ đắc lực cho việc tuyên truyền tư tưởng vô sản, giác ngộ ý thức đáu tranh giai cấp và tinh thần tự cường dân tộc. Trong gia đoạn mặt trận dân chủ bình dân Pháp thắng lợi, Đảng đã đưa phong trào ra hoạt động công khai (1936-1939). Chữ quốc ngữ trở thành phương tiện tuyên truyên rộng rãi trên báo chí. Cũng từ đây, phong trào dạy và học chữ quốc ngữ trên toàn quốc được phát triển rầm rộ, để sau này mang cái tên gọi là “phong bào bình dân học vụ”.

Năm 1945, ngay khi vừa cướp được chính quyền, chữ quốc ngữ được Đảng, Chính phủ rất quan tâm, đưa vào 3 mục tiêu quan trọng cấp bách cần thanh toán là: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Với đường lối đúng đắn của Bác Hồ, Đảng và Quốc hội quyết tâm đưa tiếng Việt lên vị trí hàng đầu với tư cách là công cụ duy nhất của quốc gia. Chữ quốc ngữ từ đây được chính thức đưa vào giảng dạy ở các câp học, được dùng làm phương tiện ngoại giao, hành chính…cho nền chính trị mới của quốc gia.

Nhưng không phải ngay từ đầu mọi việc đã được suôn sẻ. Trong những năm tháng đầu tiên của Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một số trí thức lớn còn băn khoăn cho rằng, tiếng Việt chỉ nên dùng giảng dạy ở bậc phổ thông, còn ở bấc đại học phải dạy bằng tiếng Pháp, vì chỉ có tiếng Pháp mới có đủ từ, thuật ngữ dùng cho giáo dục ở bậc cao. Song với đường lối sáng suốt và đúng đắn của Đảng và Hồ Chủ tịch, một dân tộc độc lập phải có chữ viết riêng, có nền giáo dục riêng, nên  tiếng Việt - chữ quốc ngữ đã chính thức được chọn làm công cụ để giảng dạy cho cả phổ thông và đại học. Quyết tâm này của Đảng và Bác Hồ đã làm thay đổi hẳn bản chất của nền giáo dục cũ và tạo ra hàng ngàn hàng vạn đội ngũ trí thức mới trong kháng chiến chống Pháp. Đó là coi là những hạt giống quí làm nóng cốt cho sự phát triển khoa học, kỹ thuật của đất nước sau này.

 Hòa bình lập lại, theo Hiệp định Giở ne vơ, đất nước tạm bị chia cắt thành hai miền. Ở miền Bắc, nhờ sự quan tâm của Đảng, Chính phủ tiếng Việt đã cơ hội phát triển và hoàn thiện trên mọi phương diện (ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng). Ở miền Nam, do không được quan tâm của chính phủ Ngụy quyền phụ thuộc vào nước ngoài, tiếng Việt phát triển theo hướng tự phát, thiếu kế hoạch hóa nên bị hạn chế nhiều mặt. Vốn từ vựng còn bảo lưu nhiều từ cũ, từ cổ (đặc biệt trên báo chí, truyền thông, văn học), hệ thống từ mới, nhất là lớp từ, thuật ngữ kinh tế chính trị còn nghèo nàn...

Từ năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, Quốc hội khóa IV là Quốc hội thống nhất đất nước đầu tiên đã thành công, quyết định đổi tên nước thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Lần đầu tiên, tiếng Việt thống nhất đã trở thành tiếng nói chung, là niềm kiêu hãnh của toàn thể dân tộc Việt. Nó là phương tiện quan trọng nhất để truyền đi các sự kiện, hình ảnh của người Việt Nam ra toàn thế giới. Tiếng Việt không chỉ là tiếng nói của tâm hồn, con tim mà còn là cõi linh thiêng của văn hóa ngàn đời, của hôm nay và mai sau.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578596

Hôm nay

2121

Hôm qua

2293

Tuần này

21795

Tháng này

225653

Tháng qua

130677

Tất cả

114578596