Trước hết, hãy nói đến môi trường sinh thái tự nhiên. Bờ biển xứ Nghệ chạy dài hơn 200km từ Quỳnh Lưu/Núi Xước/Mũi Đầu Rồng/Lạch Cờn đến Kỳ Anh/Hoành Sơn/Cửa Khẩu. Theo Lê Bá Thảo thì bờ biển khu vực này cơ bản thuộc dạng bờ biển phẳng, mài mòn - bồi tụ.
Biển và bờ biển ở Nghệ Tĩnh phần lớn chỉ cách khoảng đồng bằng hẹp là đến rừng núi. Có khu vực như Nghi Lộc, Kỳ Anh gần như qua một trảng cát là đến núi. Dọc xứ Nghệ có khá nhiều sông, mặc dù ít sông lớn, nhiều cửa sông. Từ Bắc vào ta có thể tính đến Cửa Cờn, Cửa Quèn, Cửa Thơi, Lạch Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu, đó là chưa tính đến một số cửa sông bị bồi lấp như cửa Xích Mộ dưới châu Đèo Ngang… Nhưng điều quyết định đến địa hình của bờ biển xứ Nghệ lại chính là do các dãy/nhánh núi chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam từ dãy Pu lai leng – Rào cỏ về xuôi tận biển. Đó là vùng núi đá vôi chạy đến núi Mồng Gà, ăn ra biển với núi Đông Hồi và kéo xuôi thành mõm Đầu Rồng (Hữu Lập); là núi Voi, núi Đại Vạc ở hữu ngạn và tả ngạn sông Cấm, ăn lan ra tận Cửa Lò; là dãy Hồng Lĩnh, núi Nam Giới, là núi Thiên Cầm, núi Cao Vọng, núi Hoành Sơn… Một đặc điểm đáng chú ý là hầu hết ở các cửa biển đều có núi, không sát thì gần, chạy song cùng với sông để sà vào biển tạo nên những thắng cảnh hài hòa giữa biển, sông, núi và trời. Cũng có thể do quá trình bồi tụ khi có yếu tố sông – núi nên hầu như ở các bãi biển phẳng, sạch đều có núi hoặc gần núi. Ví dụ: Bãi tắm Đèo Con, bãi Thạch Hải, Thiên Cầm, Cửa Lò, Nghi Thiết, Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Phương… Với điều kiện địa hình này, bờ biển xứ Nghệ có nhiều cảnh quan đẹp, vừa có nét khoáng đạt, mênh mông, nên thơ của sông nước lại có sự can trường, vững chãi của núi non. Thật là thích mắt khi ngay sát ở các bãi tắm núi cứ nhoài ra biển, sóng vỗ trắng xoá như thử thách, như đùa giỡn… Đó là phong cảnh của biển Quỳnh Nghĩa, của Thiên Cầm, của Đèo Con – Đá Nhảy (Kỳ Anh) và cả ở Cửa Lò (Lèn Chu/Lan Châu).
Thứ nữa cần nói là ở xứ Nghệ có nhiều bãi tắm rất thuận lợi để xây dựng các bãi tắm, các điểm du lịch nghỉ dưỡng. Bãi tắm thoải, sạch, kéo dài 5 – 7km. Phía trên các bãi tắm, như trên đã nói, hầu hết đều có núi. Do điều kiện địa hình đó nên thuận lợi cho việc quy hoạch, bố trí không gian kiến trúc cho các công trình phục vụ du lịch như hệ thống khách sạn, các khu vui chơi… Ở đây sẽ có điều kiện tạo nên nét riêng về quy hoạch và phong cách kiến trúc của mỗi điểm/khu du lịch.
Và cũng là ngẫu nhiên, nhưng rất thuận lợi là đối diện với các bãi tắm, các điểm du lịch biển hầu hết đều có các đảo với nhiều lợi thế khai thác du lịch. Ví dụ: Đối diện với Cửa Lò và Xuân Thành là đảo Song Ngư và đảo Mắt; Đối diện với Thiên Cầm là đảo Bơớc, đảo Én; Đối diện với Đèo Co – Đá Nhảy là đảo Sơn Dương và nhiều đảo chìm khác. Có một số đảo khá lớn như Song Ngư, Mắt, Sơn Dương nhưng lại có một số đảo nhỏ như Bơớc, Én… Đáng nói là cự ly từ bờ ra đến đảo chỉ từ 2 – 5km, xa nhất là đảo Mắt (khoảng 20km). Với khoảng cách này là hoàn toàn thuận lợi cho việc đưa khách du lịch ra đảo. Đi cùng với thuận lợi về địa hình - cảnh quan, khí hậu vùng biển và duyên hải Nghệ - Tĩnh là khá lý tưởng cho các hoạt động du lịch. Thời gian nắng ấm dài, kéo từ tháng 3 đến tháng 9.
Bên cạnh đó cũng cần nêu lên một thuận lợi là vùng biển có các bãi biển (đã được quy hoạch) đều là ngư trường truyền thống của xứ Nghệ với nhiều loại đặc sản biển nổi tiếng. Đó là Cửa Cờn, Cửa Quèn, Cửa Lò, Cửa Hội, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu mà mỗi khi nhắc tên hầu như ai cũng ít nhiều biết đến.
Điểm qua một vài đặc điểm sinh thái tự nhiên nói trên để nhằm khẳng định và nhấn mạnh rằng biển và bờ biển xứ Nghệ đã hội tụ được nhiều thuận lợi để xây dựng các loại hình du lịch sinh thái biển như nghỉ dưỡng, tắm biển, bơi thuyền, lướt ván, khám phá biển/đảo, tham gia khai thác hải sản… và thưởng thức hương vị đặc sản biển.
Môi trường sinh thái nhân văn biển/bờ biển ở xứ Nghệ có thể nói là khá phong phú, đa dạng và là khá thuận lợi cho khai thác du lịch. Như có lần chúng tôi đã nói, biển gắn liền một cách hữu cơ với người và văn hóa xứ Nghệ từ tiền sơ sử cho đến nay. Dấu ấn biển đọng lại trong ký ức tập thể/cộng đồng người Nghệ, là điều kiện/thành tố tự nhiên tác động đến sự hình thành bản sắc văn hóa Nghệ. Ngược lại, người xứ Nghệ để lại dấu ấn của mình trên mỗi mét bờ biển, và cả trên biển cả, trong lòng đại dương. Cho đến hiện nay sự phân bổ các di tích lịch sử văn hóa ở xứ Nghệ vẫn nghiêng về khu vực duyên hải, ở vùng ven bờ biển. Đặc biệt, và lý thú hơn, phân bổ nhiều nhất, dày đặc nhất ở vùng các cửa biển, nơi có các bãi biển (cho du lịch). Vùng Quỳnh Lưu, ở Cửa Cờn có đền Cờn, ở Cửa Lò và vùng phụ cận có đền thờ Nguyễn Xí, đền thờ Nguyễn Sư Hồi, xa hơn một tý, Cửa Hiền có đền Cuông (thờ Thục An Dương Vương); ở Cửa Hội và phụ cận (về phía huyện Nghi Xuân) có đình Hội Thống, có đình Nhà Trò thờ ông tổ nghề hát ca trù, có khu lưu niệm hai nhân kiệt xứ Nghệ là Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, ở Cửa Sót có đền thờ Chiêu Trưng Đại Vương (Lê Khôi), ở Thiên Cầm có chùa Thiên Cầm (trên núi Thiên Cầm), chùa Yên Lạc; ở Cửa Khẩu có đền Hải Khẩu (thờ Chế Trắng Phu Nhân), đền thờ Liễu Hạnh công chúa… Nhưng hiện hữu sinh động nhất của môi trường sinh thái nhân văn, lịch sử và hiện tại, là các làng nghề biển. Ở các cửa biển, các bãi biển đều có các làng nghề như Vạn Phần, Hội Thống, Cương Gián, Kim Đôi, Nhượng Bạn… Hiện nay ở xứ Nghệ vẫn có khoảng gần 20 làng chuyên làm nghề biển và gần 100 làng làm nghề nông kết hợp với nghề biển. Đối với các nhà kinh doanh du lịch điều đáng quý là môi trường nhân văn. Mỗi làng là một không gian văn hoá với những đặc trưng riêng của người Nghệ - Biển cả từ nước da, dáng đi, giọng nói đến các sinh hoạt văn hoá khác từ ẩm thực đến tín ngưỡng lễ hội. Rõ ràng là có một folklore biển xứ Nghệ. Dù là ở Nghệ An hay Hà Tĩnh, các làng đều có nét chung nhau để phân biệt được nét khác nhau với đời sống folklore biển của vùng Đông Bắc hay Trung/Nam bộ. Chính cái riêng, cái sự khác nhau này là “kho vàng” của các nhà làm du lịch. Họ sẽ hướng khách hàng của mình đến những tìm tòi tại sao con thuyền đi biển ở đây lại khác với các nơi? Tại sao nghi lễ thờ cá ông lại khác với dân biển xứ Quảng? Rồi tại sao ruốc (mắm tôm) xứ Nghệ lại khác với các nơi khác để rồi chê hôi mà cứ thèm ăn? Và sẽ có hàng trăm ngàn câu hỏi cho những điều mới lạ với du khách.
2. Trở lên là ta nói đến những cái đã có từ tạo hóa, và từ “của để dành” của ông cha để lại, còn bây giờ? Đó là muốn nói đến các điều kiện xã hội và hạ tầng liên quan và đảm bảo cho việc phát triển du lịch biển của Nghệ An và Hà Tĩnh.
Có thể nói rằng, ở xứ Nghệ, ngày nay, biển là tài nguyên du lịch dễ khai thác nhất. Loại trừ các yếu tố/giá trị của bản thân biển và sự đọng lại của lịch sử và văn hóa ở đó, phải thừa nhận rằng vùng duyên hải ven biển là vùng xưa - nay phát triển nhất trên tất cả các phương diện kinh tế - xã hội - văn hóa… của xứ Nghệ.
Trở lại các điều cụ thể, ta thấy cơ sở hạ tầng ở khu vực này từ giao thông, liên lạc, cơ sở lưu trú, các loại hình dịch vụ khác đều được chú trọng xây dựng từ nhiều năm nay, bước đầu có thể đáp ứng ở mức vừa phải cho hoạt động du lịch ở quy mô vừa phải. Một số điểm/khu du lịch biển đã hình thành và phát triển khá nhanh như Cửa Lò, Thiên Cầm…Cửa Lò đã trở thành đô thị du lịch biển. Đây là tiền đề quan trọng cho phát triển du lịch biển trong tương lai của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, có lẽ cũng cần nói là chúng ta đang thiếu một quy hoạch phát triển du lịch biển hợp lý. Chúng tôi thấy ở đâu cũng ra quân làm du lịch biển. Tỉnh làm, huyện làm và xã cũng làm. Các cơ sở, các bãi tắm cứ sát sàn sạt. Nếu vậy, dù muốn hay không, sự đầu tư sẽ dàn trải, không ra tấm, không ra miếng, chắc chắn kết quả và hiệu quả sẽ không cao.
3. Với nguồn tài nguyên như đã trình bày, một điều chắc chắn là Nghệ - Tĩnh sẽ có khả năng khai thác du lịch và phát huy hiệu quả tốt.
Ngành du lịch hoàn toàn có thể hướng tới nhiều sản phẩm du lịch, nhiều loại hình du lịch và thiết kế được nhiều tour, tuyến du lịch hấp dẫn. Về loại hình, có thể có du lịch sinh thái biển, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch làng nghề, du lịch nghiên cứu biển, du lịch nghiên cứu văn hoá biển, du lịch thể thao biển… Ở đây cho thấy có thể kết hợp các loại hình du lịch khác nhau trong những tour du lịch khác nhau. Trong đó đáng chú ý là du lịch nghỉ dưỡng kết hợp với các nhu cầu khác, nhất là tìm hiểu các di sản văn hóa truyền thống. Là thuận lợi và là cần thiết trong khai thác du lịch biển là sự kết hợp giữa du lịch sinh thái và du lịch văn hóa biển. Nếu làm được điều này sẽ đem lại hiệu quả lớn.
Lâu nay, ở Nghệ An và Hà Tĩnh, việc khai thác du lịch biển vẫn cơ bản là du lịch nghỉ dưỡng. Nghĩa là khách đến (Cửa Lò, Thiên Cầm…) thuê phòng, tắm biển, thưởng thức đặc sản biển - hết. Một chuyến du lịch rất đơn điệu. Ngoại trừ ở Cửa Lò, ở Thiên Cầm có một vài chuyến thuyền ra đảo còn ngoài ra du khách không còn biết gì hơn về biển, về các di tích lịch sử văn hóa. Không thể trách được khách mà phải tự trách mình, trách ngành du lịch. Chúng tôi không thấy ở Cửa Lò, ở Thiên Cầm…tạo ra những sản phẩm du lịch nào khác. Có thể nói, du lịch biển của chúng ta đang đơn điệu, nghèo nàn. Điều đó có căn nguyên ban đầu là tổ chức hoạt động kiểu tự phát, thiếu quy hoạch, thiếu nghiên cứu để có được một quy trình thật sự có nghề để tạo ra các sản phẩm du lịch mặc dù nguồn tài nguyên là có, và khá phong phú. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, khách chủ yếu tự đến với Cửa Lò, Thiên Cầm… Đến nơi, thuê phong, tắm biển, ăn hải sản. Cứ thế một vài ba ngày với cái vòng tròn đó. Chẳng có ai tổ chức cho họ tham gia các hoạt động du lịch gì khác. Đúng là một sự nghèo nàn và lãng phí. Lãng phí tài nguyên, lãng phí nhân lực. Và về phía khác, họ cũng lãng phí thời gian, và kinh phí. Đáng ra với chừng ấy thời gian, chừng ấy tiền cho chuyến đi họ có thể được hưởng thụ nhiều hơn, được biết về các đảo, về các làng biển, về các di tích lịch sử - văn hoá ở khu du lịch hoặc lân cận, như Kim Liên - Tiên Điền… chẳng hạn.
4. Để đem lại những kết quả và hiệu quả tốt hơn khi khai thác du lịch biển, và cũng nhằm đảm bảo sự bền vững của nguồn tài nguyên, chúng tôi nghĩ cần phải tăng tốc trên cơ sở nghiên cứu về nguồn tài nguyên cũng như định hướng tạo ra các sản phẩm du lịch. Thiển ý của chúng tôi là: Hệ thống lại các kết quả nghiên cứu về biển, đặc biệt là các thông tin liên quan đến hoạt động du lịch. Trên cơ sở đó cần thiết phải có một quy hoạch về du lịch biển một cách công phu và khoa học hơn những gì chúng ta đã làm, đã có. Tránh tình trạng phát triển tự phát và tràn lan, chỉ nên tập trung một vài điểm quan trọng, không nên hình thành nhiều điểm khác, lãng phí, hiệu quả thấp. Đặc biệt, cần tạo ra các sản phẩm du lịch phong phú và hấp dẫn, và độc đáo. Rất nên kết hợp giữa du lịch sinh thái biển với du lịch văn hoá biển (và không biển) trong các tuor du lịch. Chúng tôi xin nhấn mạnh điều này vì nó có lợi từ nhiều phía. Thêm một điều chúng tôi muốn nói là nên chăng các cơ quan, các hãng du lịch của chúng ta cần chủ động và tăng cường hoạt động truyền thông – quảng bá, tăng cường các mối quan hệ, liên kết với các tổ chức du lịch ở trong và ngoài tỉnh. Và cuối cùng vẫn là chuyện con người. Hình như mặc dù đã có nhiều nố lực, nhiều cải thiện nhưng đội ngũ của chúng ta vẫn chưa đủ sức và tầm để hướng tới một sự phát triển du lịch biển mạnh mẽ hơn, khoáng đạt hơn, năng động và hiệu quả hơn./.