Đầu thế kỷ 13, Trần Tự Khánh (1175- 1223), do có công dẹp quân phiến loạn nên được nhà Lý trọng dụng, dần dần thao túng chính trường. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, người em họ là Trần Thủ Độ (1194-1264) được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ và trở thành người nắm thực quyền. Lúc đó, Vua Lý Huệ Tông và hoàng hậu Trần Thị Dung (em ruột Trần Tự Khánh, chị họ Trần Thủ Độ) có người con gái út tên là Phật Kim, được phong công chúa Chiêu Thánh. Với mưu đồ chuyển ngôi từ nhà Lý sàng nhà Trần, Trần Thủ Độ ép Huệ Tông bỏ ngôi lên làm thái thượng hoàng để nhường cho Phật Kim, tức là Lý Chiêu Hoàng, khi đó mới lên 7 tuổi. Sau đó đưa con Trần Thừa là Trần Cảnh, mới 8 tuổi vào hầu Lý Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi cho chồng. Năm 1225, Trần Cảnh lên ngôi, lấy tên Trần Thái Tông.Trần Thái Tông làm vua 23 năm (1225-1258) thì lui vào hậu trường, nhường ngôi cho Thái tử Hoảng, tức Trần Thánh Tông. Trần Thánh Tông kết duyên cùng Trần Thị Thiều, con gái của An Sinh vương Trần Liễu. Ngày 11 tháng 11 năm Nguyên Phong thứ 8 (1258) họ sinh hạ người con trai dầu lòng, đặt tên là Trần Khâm.
Năm mười sáu tuổi (1274) Trần Khâm được sắc phong làm Hoàng thái tử, kết hôn cùng con gái trưởng của danh tướng Trần Quốc Tuấn. Ngày 22 tháng 10 năm 1278 được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi và từ đó gọi là Trần Nhân Tông. Trần Nhân Tông là một trong những vị vua được đào tạo văn, võ chu đáo với mục đích định trước, lại được nhường ngôi ở tuổi đôi mươi, nên hội đủ mọi yếu tố của một vị vua cường tráng, anh minh. Và thực sự đã như vậy, lịch sử càng lùi xa thì người ta càng có tầm nhìn bao quát và chính xác về nó. Những học hiệu, danh hiệu, huy hiệu, giải thưởng quốc tế mang tên ông ngày nay là phần thưởng quý giá để dâng lên hương hồn vị anh hùng dân tộc, thi sĩ, triết gia Trần Nhân Tông.
Với cương vị là người đứng đầu quốc gia, Trần Nhân Tông luôn ý thức rằng, độc lập và chủ quyền dân tộc là điều thiêng liêng nhất, và trong suốt quảng đời làm vua 14 năm ông đã thực thi được điều này. Chúng ta hãy theo dõi các sự kiện lịch sử Việt Nam diễn ra trong mấy chục năm trị vì của ngài[1].
Nghe tin Trần Thánh Tông nhượng vị, Nhà Nguyên sai sứ Sài Thung sang gặp và bảo sao không xin phép triều đình nhà Nguyên mà dám tự lập ngôi, vậy phải sang chầu Thiên Triều Hoàng Đế. Trần Nhân Tông cương quyết không tự hạ mình, bảo sứ giả không sang được. Năm nhâm ngọ (1282), sứ nhà Nguyên lại sang, thưa với Trần Nhân Tông, nếu không sang chầu thì phải dâng châu báu, nộp hiền sĩ. Tình thế căng thẳng, Trần Nhân Tông đành phải sai chú họ Trần Di Ái sang chầu thiên tử. Nhưng nhà Nguyên vẫn không bằng lòng, tự mình lập Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, rồi cho Sài Thung cùng quân hộ tống về nước. Được tin cấp báo, Trần Nhân Tông cho quân lên cửa ải chặn đánh, Sài Thung thất bại về bẩm báo. Nhà Nguyên liền cho 50 vạn quân dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan, Toa Đô, Ô Mã Nhi sang đánh nước Nam. Trước tình thế giặc mạnh, thời gian gấp rút, tháng chạp năm giáp thân (1284), Trần Nhân Tông cùng thái thượng hoàng triệu các bô lão trong nước đến họp trước thềm Điện Diên Hồng để bàn nên đánh hay nên hòa, các bô lão đồng thanh xin đánh.
Nhưng thế giặc quá mạnh, quân triều đình vừa phòng ngự vừa rút lui để bảo toàn lực lượng. Sau khi thất bại ở trận chi Lăng, rút quân về Vạn Kiếp, Trần Nhân Tông có ý muốn giảng hòa vì không muốn thấy cảnh đầu rơi máu chảy của đôi bên. Vị tướng đứng đầu quân lúc ấy là Trần Quốc Tuấn đã khẳng khái nói: “Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã”, sau đó ra quyển Binh thư yếu lược, rồi truyền Hịch tướng sĩ, khích lệ quân lính một lòng quyết đánh. Thấy thế giặc mạnh, ông đành lui về Thanh hóa. Ở trận Thiên Trường, tướng Trần Bình Trọng bị bắt, Thoát Hoan muốn dụ hàng ông, nhưng Trần Bình Trọng khẳng khái nói: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không muốn làm vương đất Bắc”.
Để động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của tướng lĩnh và binh lính, Trần Nhân Tông đã khắc vào đuôi chiến thuyền hai câu thơ: “Cối kê cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn kinh” (Cối Kê việc cũ người nên nhớ, Hoan, Diễn còn kia mười vạn quân). Nhắc lại điển tích Việt Vương Câu Tiễn thua Ngô Vương Phù Sai, tàn quân phải lui về tụ họp ở núi Cối Kê, nhưng sau vẫn phục thù lấy lại được nước. Hai câu thơ được sáng tác vào đúng thời điểm quân ta phải chạy ra Đông Hải tránh sự tấn công của giặc, và các cánh quân của Trần Quốc Tuấn vừa nhóm họp lại, mới thấy tinh thần tự chủ của người đứng đầu triều đình. Hiểu được bản tính người Việt là nặng về tình cảm, ông đã truyền niềm tin vào quân sĩ, nhân dân bằng thơ ca chứ không bằng chiếu lệnh. Qua hai câu thơ đó, ông đã thổi hồn vào dân tộc nguồn cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và tầm nhìn của một triết nhân trong hoàn cảnh chiến tranh.
Với tài mưu lược của Trần Quốc Tuấn cùng các tướng lĩnh, vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống quân Nguyên trong sáu tháng trời, đến tháng sáu 1285 thì đánh đuổi 50 vạn quân Nguyên ra khỏi bờ cõi đất nước. Nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng muốn đừng”, sự thất bại đã làm cho Nguyên chủ ấm ức, một lần nữa sai Thoát Hoan cất quân sang đánh báo thù. Và thêm một lần nữa quân Nguyên lại chịu thất bại, Thoát Hoan phải chạy tháo thân.
Sau hai lần chiến thắng quân Nguyên, Trần Nhân Tông cho mở tiệc Thái bình diên yến, thưởng cho những người có công và tha cho những người có tội (đầu hàng quân Nguyên). Sau đó Người sai sứ sang nhà Nguyên, xin theo lệ cống hiến như xưa. Nhưng “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, vừa dẹp xong giặc ngoại xâm phía bắc, thì gặp phải nạn ngoại xâm từ phía Ai lao (Lào) và Chiêm Thành (Champa) sang quấy nhiễu các vùng biên giới. Để giữ yên và mở rộng bờ cõi, Trần Nhân Tông đã thuận gả công chúa Huyền Trân (1287-1340) cho vua Chiêm Thànhlà Chế Mânđể đổi lấy hai châu Ô và châu Risau đổi thành Thuận châu và Hóa châu (từ đèo Hải Vânđến phía bắc Quảng Trịngày nay). Từ đó đất nước trở nên thái bình thịnh trị.
Thực hiện xong sứ mệnh lịch sử của mình, năm 1293, ở tuổi 35, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Thuyên, lui về Thiên Trường làm Thái thượng hoàng theo lệ truyền thống của hai vua tiền bối[2]. Trần Thuyên lên ngôi gọi là Trần Anh Tông. Ở cương vị Thái thượng hoàng là cơ hội để Trần Nhân Tông đứng ngoài trông coi việc trị vì của con mình một cách khách quan hơn, cầu thị hơn. Ông hết lòng hết sức dạy bảo, uốn nắn con mình sống làm sao cho phải đạo của một người đứng đầu đất nước[3]. Đây cũng là khoảng thời gian để ông suy ngẫm về nhân tình thế thái, về đạo lý làm người, về lẽ sống nhân sinh sau bao năm trải nghiệm cuộc sống. Thiên Trường vãn vọng là một trong những bài thơ hay của Trần Nhân Tông trong giai đoạn này:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều dường có lại dường không.
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)[4].
Tác giả tả cảnh chiều ở phủ Thiên Trường nhưng qua đó giải đáp một câu hỏi về hai phạm trù cơ bản của Phật giáo là “sắc” và “không”. Cảnh chiều làng quê bắc bộ hiện ra trước mắt với một trạng thái hư thực, thực hư tựa như làn khói hồng bay lên từ các bếp thổi cơm trong không gian buổi chiều tĩnh mịch.Tiếng sáo của cậu bé chăn trâu phá tan không gian yên tĩnh đó và vang lên văng vẵng giữa cánh đồng chiều quyện với hình ảnh những đôi cò trắng thay nhau bay lên, liệng xuống. Bài thơ tựa như một bức họa với đầy đủ các gam màu và hình ảnh sinh động của những xóm thôn trong một buổi chiều tà. Đỗ Lai Thúy cho rằng, “Thiên trường vãn vọng là một thi phẩm thể hiện được rõ nhất cái đặc sắc của tư tưởng thiền Trần Nhân Tông… bài thơ không chỉ nêu rõ con đường giác ngộ của người tu thiền, mà còn chỉ rõ mục đích của thiền là trở lại bình thường tâm”[5].
Ở cương vị Thái thượng hoàng 7 năm, năm 1299, theo gót các bậc tiền nhân, Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại Chùa Khai Phúc thuộc Hành Cung Vũ Lâm, xã Ninh Thắng, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình - Ngôi chùa xây dựng từ thời vua Trần Thái Tông. Nơi đây có dòng sông Sào Khê đi từ Trường Yên về Hành Cung hợp lưu với sông Vân Sàng, sông Yên làm cho Hành cung trở thành điểm nối quan trọng giữa kinh thành Thăng Long, Ninh Bình, Thái Bình và Nam Định. Năm 1282-1283, trước khi quân Mông Thát kéo 50 vạn đại binh sang nước Nam lần thứ 2 thì vua Trần Nhân Tông đã cùng với các tướng lĩnh triều đình về Hành cung Vũ Lâm để bàn kế giữ nước, lập các phòng tuyến chặn giặc. Một nơi sơn cùng thủy tận như vậy, đã tạo cảm hứng cho thi sĩ Trần Nhân Tông làm nên kiệt tác thi ca Vũ Lâm thu vãn:
Hoạ kiều đảo ảnh, bán khê hoành,
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại sinh.
Tịch tịch thiên sơn hồng lạc diệp,
Thấp vân như mộng, viễn chung thanh.
(Lòng khe in ngược bóng cầu hoa,
Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà.
Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ,
Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa)[6].
Vẫn bút pháp “lấy cảnh nói hộ lòng người”, Trần Nhân Tông miêu tả một chiếc cầu bắc qua một lòng con khe trong ánh nắng vàng mùa thu. Nhìn xuống lòng khe, mọi vật phía trên dường như bị đảo ngược, xung quanh là những cánh rừng đang trong mùa rụng lá, tiếng chuông chùa văng vẳng luồn vào những đám mây bồng bềnh đẹp như mơ. Lại một bức họa nữa hiện lên trước mắt ta, nhưng không phải buổi chiều tà trên đồng ruộng mà là một cảnh rừng núi mùa thu, phản ánh tâm trạng u buồn của tác giả đang nhìn mọi vật trong trạng thái đảo lộn, chia ly như những chiếc lá lìa cành. Đây cũng là một trong những quan niệm nhân sinh của Phật giáo, phản ánh tính hư ảo, nhất thời của vạn vật.
Vài năm sau, Trần Nhân Tông rời Vũ Lâm đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm. Do thiền phái này ngự ở trên dãy núi Yên Tử nên dân gian gọi là Trúc Lâm Yên Tử. “Với việc lập ra phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đã thống nhất được các thiền phái tồn tại trước đó và tập hợp toàn bộ các tông phái Phật giáo đời Trần về một mối”[7]. Thiền phái Trúc Lâm có tư tưởng dung hòa giữa Nho-Phật-Lão theo quan niệm chung là “Phật tại tâm”. Với trải nghiệm của một cư sĩ và tu sĩ có bề dày trên mấy chục năm tu hành, Trần Nhân Tông đã ý thức được rằng:
Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu dã
(Mọi pháp đều không sinh
Mọi pháp đều không diệt.
Nếu hiểu được như thế.
Chư Phật thường hiện tiền
Chẳng đi cũng chẳng lại”[8].
Kế thừa tư tưởng của các bậc tiền bối (Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Mãn Giác, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, v.v) cũng như của người thầy Tuệ Trung Thượng Sỹ về “bản thể”, “tự tính”, “chân tâm”, “giải thoát”, “sinh-lão-bệnh-tử”, “ngũ uẩn”, v.v nhưng Trần Nhân Tông không đi theo lối mòn suy tư của họ mà có quan niệm riêng về những vấn đề này. Ở ông, sự giải thoát không phải là cuộc hành trình đi tìm những gì hư ảo, tồn tại ở thế giới bên kia, không phải là quá trình xa lánh hiện thực, mà giải thoát là quá trình nhập thế, sống yêu đời, yên vui đúng theo lẽ tự nhiên của mình:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mục vấn thiền.
(Cư trần lạc đạo hãy tùy duyên.
Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên.
Báu sắn trong nhà, thôi khỏi kiếm
Vô tâm trước cảnh, hỏi chi thiền)[9]
Bài thơ chỉ gồm bốn câu thơ ngắn gọn nhưng đã đi vào lịch sử thi ca Việt Nam phản ánh quan niệm “văn dĩ tải đạo”. Bài thơ cũng gần như một bản tuyên ngôn về lý tưởng sống, về đạo làm người của Trần Nhân Tông. Theo ông, cuộc sống thật là đơn giản, thật tự nhiên như nó vốn có, còn ai đó phức tạp hóa nó thì chỉ là người không hiểu bản chất đích thực của con người. Và để “đắc đạo”, người tu hành phải đạt đến trạng thái “dĩ bất biến, ứng vạn biến, dĩ chúng tâm, vi kỷ tâm”, hòa đồng bản thể và tâm tính của mình cùng nhân quần, vạn vật.
Tại Yên Tử, Trần Nhân Tông tu nghiệp trong một cái am nhỏ trên núi Ngọa Vân nằm ở phía tây dãy núi Yên Tử nay thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Tây, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Khi đến đây tu nghiệp, Trần Nhân tông đã bước vào tuổi xế tà của cuộc đời. Với một không gian trầm lắng, tịch mịch và thời gian nhàn rỗi, thi sĩ - hòa thượng Trần Nhân Tông đã sáng tác nhiều bài thơ phản ánh triết lý sống của mình. Xuân Vãn là một trong những bài thơ thiền như vậy:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá Đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
` (Tuổi trẻ chưa từng hiểu thế nào là “sắc”, “không”
Mỗi độ xuân về lòng để giữa trăm hoa
Nay khi đã khám phá ra khuôn mặt chúa xuân
Thì ngồi thiền trên tấm bồ đoàn nhìn hồng rụng)[10]
Vẫn nói về hai phạm trù sắc-không, nhưng không phải trong trạng thái đời thường mà trong trạng thái thiền. Trăm hoa nở vào mùa xuân, phản ánh bản chất của tự nhiên từ xưa đến nay là vậy, vạn vật có thay đổi thế nào thì quy luật đó cũng không thể đổi thay. Sử cũ chép rằng, ngày 3 tháng Mộtâm lịch năm Mậu Thân (tức 16 tháng 12 năm 1308), phật hoàng Trần Nhân Tông viên tịch. Thể theo di chúc của Ngài, sư Pháp Loa đem thi thể hỏa táng, lấy được 1000 viên xá lị mang về triều.
Yêu thương hòa giải là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ cuộc đời Trần Nhân Tông, quyết định sự thành công của ông trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng đó thể hiện trước hết trong quan điểmchiêu hiền đãi sĩ, lấy dân làm gốc. Cúng như các vị vua tiền bối, Trần Nhân Tông đã tập hợp được quanh mình nhiều tướng lĩnh tài giỏi như Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, v.v.. Vua Trần đã đặt Trần Quốc Tuấn vào đúng vị trí, từ đó tạo điều kiện để danh tướng này đem hết tài trí phục vụ đất nước và triều đình. Không chỉ trao binh quyền cho Trần Quốc Tuấn, các vua Trần còn khéo sắp đặt, sao cho tất cả những anh tài đương thời biết bỏ qua mọi mâu thuẫn, hiềm khích cá nhân hướng tới việc đồng tâm hiệp lực gánh vác sự nghiệp cứu nước. Nghệ thuật dùng người của các vua Trần đã được đền đáp xứng đáng, góp phần quyết định làm nên thắng lợi của dân tộc. Có đất dụng võ, Trần Quốc Tuấn đã cống hiến hết mình, trọn đời trung thành với đất nước và triều đình. Ở đây, “trung quân” đồng nghĩa với lòng “ái quốc”, bởi các vua Trần không mưu cầu lợi ích riêng. Một đất nước có vua sáng, tôi hiền, có nhân dân biết đồng lòng chung sức như thế là một đất nước bất khả chiến bại. Đây là một bài học lịch sử cho mọi thời đại và mọi triều đại. Trong thời đại ngày nay, khi sự tha hóa quyền lực đang là một căn bệnh nan y của xã hội, khi chủ nghĩa quan liêu chuyên quyền độc đoán đang có nguy cơ phát triển thì tư tưởng chiêu hiền, đãi sĩ, lấy dân làm gốc của Trần Nhân Tông càng có ý nghĩa thực tiễn to lớn để chúng ta tham khảo, tiếp thu và vận dụng.
Thứ đến là lòng bao dung, nhân ái, cố kết cộng đồng thành một khối thống nhất. Trần Nhân Tông luôn tâm niệm rằng, những người bên mình đều là anh em thân thuộc, những người phải lưu lạc và lầm lỗi là những người con xa. Sau chiến tranh, khi về lại Thăng Long, vua đã ra lệnh đốt tất cả những bằng chứng có thể kết tội những người đã từng đồng lõa với giặc. Làm việc này, ông đã dùng trí tuệ và sự nhân từ của đạo Phật kết hợp với tinh thần đoàn kết truyền thống của dân tộc Việt để tập hợp toàn dân hướng vào sự nghiệp chung. Sự hoà hợp đó trở thành nền móng căn bản hình thành và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiêu biểu cho các giá trị nhân văn, cao cả và yêu thương con người. Trí tuệ và tình thương không phân biệt của Trần Nhân Tông đã trở thành điểm tựa cho sự phát triển tư duy dân tộc đạt đến tầm vóc của một triết lý sống. Trần Nhân Tông đã nhận ra chân lý: Một dân tộc không chỉ được biết đến bởi những chiến thắng, mà còn phải được thể hiện bởi những giá trị tinh thần khác như lòng nhân ái, tinh thần bác ái và khả năng hóa giải các mâu thuẫn để tạo nên sức mạnh đoàn kết. Nhận thức đó đã giúp Trần Nhân Tông kết hợp những tinh hoa của giáo lý Phật giáo với tư cách là một hệ tư tưởng, một hệ thống giáo dục lớn và những yếu tố căn bản nhất của nền văn hoá có bề dày lịch sử. Nền tảng của phái Trúc Lâm do Ngài khởi xướng không kêu gọi tín đồ lìa bỏ cuộc sống trần tục, không ép xác khổ hạnh, mà đề cao nhân nghĩa, giáo dục lòng nhân đạo, không phân biệt giàu sang, luôn nhớ đến cội nguồn. Hội nghị diên hồng do ông triệu tập đã đi vào lịch sử Việt Nam không chỉ như một hiện tượng phản ánh tính dân chủ trong một nền quân chủ mà còn nói lên lòng quyết tâm giữ gìn bờ cõi của nhân dân ta.
Ngày nay loài người đang chứng kiến những mâu thuẫn, khác biệt, hiềm khích, hận thù, xung đột khó có thể hóa giải. Những yếu tố này tiểm ẩn nguy cơ đẩy thế giới đến những cuộc chiến tranh làm đổ vỡ hòa bình, tiêu tan sự sống trên hành tinh xanh. Trong bối cảnh đó, những di sản tinh thần của Trần Nhân Tông phải chăng là sự phản ánh giấc mơ nhân ái toàn nhân loại để vươn tới một thế giới hòa bình.
Trần Nhân Tông đã vượt qua thời gian để đến với con người hiện đại, ông cũng đã vượt qua không gian hạn hẹp của một dân tộc để đến với bạn bè quốc tế. Viện Trần Nhân Tông (Tran Nhan Tong Academy) được thành lập năm 2012 tại thành phố Boston, Hoa Kỳ do một nhóm các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Harvard mà Giáo sư Thomas Petterson làm chủ tịch đã chứng tỏ điều này. Giải thưởng quốc tế Trần Nhân Tông về Hòa giải và Yêu thương (Trần Nhân Tông International Prize for Reconciliation and Compassion) được viện đặt ra là để tri ơn một vị vua biết nhìn xa trông rộng, tiên đoán được tương lai xung đột của thế giới. Giải được tổ chức đầu tiên vào ngày 21/9/2012, đã trao cho Tổng thống Myanmar, ông U Thein Sein và Chủ tịch Đảng Liên đoàn dân tộc vì dân chủ (NLD-National League for Democracy) bà Aung San Suu Kyi vì những đóng góp của họ trong việc hòa giải và hòa hợp dân tộc ở đất nước này mấy chục năm qua. Một ngày sau đó (22-9-2012), Hội thảo quốc tế về Trần Nhân Tông cũng được tổ chức. Trong tham luận Trần Nhân Tông - những số thành lịch sử và những thông điệp gửi cho hậu thế Trần Ngọc Vương cho rằng, vị vua triều Trần đã gửi hai thông điệp hướng tới tương lai: “Thông điệp từ một vị quốc chủ: có thể bảo vệ độc lập cho một quốc gia, mưu cầu hạnh phúc cho một cộng đồng, vượt qua mọi hiểm họa khi tạo được một cộng đồng đoàn kết nhất trí.Thông điệp làm người: vẫn có thể làm một con người toàn hảo trong một thế giới chưa hoàn thiện”.
Từ những gì mà Trần Nhân đã làm được, chúng ta có thể nói rằng, ông là một trong những người hiếm hoi trên đất Việt cùng một lúc đã đạt được một cách trọn vẹn “tam bất hủ”, tức “lập công, lập đức và lập ngôn”. Trần Nhân Tông sống cách chúng ta gần một thiên niên kỷ, nhưng ông không phải là cổ nhân, không thuộc về quá khứ mà luôn đồng hành cùng nhân loại, giúp mọi người hòa giải và yêu thương, dù đây là một công việc đầy khó khăn, nhọc nhằn, vất vả³
[1] Xem: Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb.Văn học 2008.
[2]Xem: Nguyễn Văn Anh, Am Ngọa Vân, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2013.
[3] Xem: Tạ Ngọc Liễn, Chân dung văn hóa Việt Nam, Tập 1, Nxb. Thanh niên 1998.
[4]Văn thơ Lý Trần, Tập 2, Quyển thượng, Nxb.KHXH 1989, tr. 464-465 (Bản dịch Ngô Tất Tố).
[5] Đỗ Lai Thúy, Trần Nhân Tông – từ cung thiên trường ngắm cảnh đồng quê buổi chiều, in trong Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb. Văn hóa thông tin 2005, tr. 213-218.
[6]Văn thơ Lý Trần, Sđd, tr.467 (bản dịch Trần Thị Băng Thanh)
[7] Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2004, tr.455.
[8] Dẫn theo Nguyễn Hùng Hậu, Triết lý trong văn hóa phương đông, Nxb. Đại học Sư phạm 2004, tr.297.
[9]Văn thơ Lý-Trần, Sđd, tr.510 (bản dịch Huệ Chi)
[10]Văn thơ Lý-Trần, Sđd, tr.464 (bản dịch Ngô Tất Tố)
2152
2270
2897
216653
1114325557
114546331