Hồ Chí Minh là người am hiểu sâu sắc văn hoá và lịch sử dân tộc. Với tư cách của một nhà lãnh đạo, của một chính khách, trong nhiều trường hợp ông đã vận dụng những tri thức văn hoá và lịch sử hết sức sáng tạo.
Hồ Chí Minh là người am hiểu sâu sắc văn hoá và lịch sử dân tộc. Với tư cách của một nhà lãnh đạo, của một chính khách, trong nhiều trường hợp ông đã vận dụng những tri thức văn hoá và lịch sử hết sức sáng tạo.
Những tri thức lịch sử văn hoá thấm đẫm trong từng trang viết và trong cách ứng xử của ông với nhân dân, với bạn bè, đồng chí và cả với những người ở phía đối địch. Tinh thần/Tư tưởng hoà giải là một điển hình của cốt cách văn hoá Hồ Chí Minh
Khi tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đã đã hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” mà không hỏi “Tôi nói nhân dân nghe rõ không?” hoặc “Quý vị nghe rõ không?”. Ấy là từ trong máu, trong tim mình ông coi tất cả mọi người, kể cả những người ở phía bên kia, đều là máu mủ ruột rà. Không chỉ với câu hỏi thân tình, làm xúc động hàng triệu người đủ mọi tầng lớp xã hội.
Ngay từ ngày đầu của chính quyền cách mạng, không chỉ là sách lược mà còn là tinh thần/tư tưởng hoà giải của Hồ Chí Minh đã được thể hiện nhất quán trong hành động và ứng xử.
Cách mạng Pháp (1871) xử tử nhà vua, Cách mạng tháng 10 Nga (1917) người ta treo cổ vua Nicolas và Hoàng tử bị bệnh thiểu năng. Thế kỷ XX, những Nicolae Ceaucescu (Bí thư Đảng cộng sản, Chủ tịch nước Rumani) đến Saddam Hussein, Gaddafi… đã bị xử tử khi cách mạng nổ ra. Nhưng Hồ Chí Minh ở Việt Nam thì khác. Cách mạng thành công nhưng chính quyền mới không trả thù, không truy cứu trách nhiệm của những người ở phía đối địch. Trước Hồ Chí Minh chỉ có Abraham Lincoln (Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ trong nội chiến Nam - Bắc 1861 - 1865 ), và sau ônglà Nelson Mandela (Tổng thống Nam Phi).
Cách mạng tháng Tám đã không xảy ra đổ máu, không có bắn giết, tàn phá của những người chiến thắng. Kết thúc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ quân đội nhân dân Việt Nam sau khi tiếp quản Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố khác đã không có “tắm máu” như người ta lo sợ.
Với Hoàng tộc nhà Nguyễn, ngay những ngày biến động lịch sử xảy ra tháng 8 – 1945, Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần hoà giải triệt để. Ngoài việc bảo đảm an toàn cho các quan chức của triều đình nhà Nguyễn và mời Bảo Đại làm cố vấn tối cao, Hồ Chí Minh đã cử ông Lê Văn Hiến – Bộ trưởng Bộ lao động thay mặt ông và Chính phủ vào Huế, đến tận Hoàng cung gặp hoàng hậu và hoàng gia để thăm viếng, động viên, an ủi họ. Tết năm đó ông đã chỉ đạo Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Huế trợ cấp cho gia đình Bảo Đại một số tiền để ăn Tết, cho người đến thăm hỏi và gửi tiền giúp đỡ hai bà Hoàng Hậu của hai vị vua Thành Thái và Duy Tân.
Tinh thần hoà giải và sự quan tâm của Hồ Chí Minh đã làm Nam Phương Hoàng hậu xúc động, biết ơn. Bà còn đứng ra tổ chức quyên góp và đóng góp trong “Tuần lễ vàng”.[1].
Cũng như bà Trần Lệ Xuân sau này, cả hai bà suốt đời không một lần xúc phạm, nói xấu Hồ Chí Minh dù chồng của họ ở phía đối địch. Chính tinh thần hoà giải của Hồ Chí Minh mà có đến 8 trong 10 vị của chính phủ Trần Trọng Kim, nội các của vua Bảo Đại đã đi theo cách mạng như các ông Phan Kế Toại, Phạm Khắc Hoè, Bùi Bằng Đoàn…
Tri thức, kinh nghiệm lịch sử dân tộc về hoà giải đã được Hồ Chí Minh tích luỹ và vận dụng một cách uyển chuyển, tài tình và hiệu quả. Ông đã vận dụng tinh thần hòa hiếu, hòa giảicủa tiền nhân vào thực tiễn sự nghiệp cách mạng Việt Nam, góp phần giảm thiểu những mất mát, thương đau của dân tộc, của đồng bào mà vẫn đi đến thắng lợi.
Hoàng đế Trần Nhân Tông, sau chiến thắng giặc Nguyên đã chủ trương không truy xét quá khứ để hòa giải hoàng tộc và dân tộc. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên cho biết: “Trước kia người Nguyên vào cướp, vương hầu, quan lại nhiều người đến doanh trại giặc xin hàng. Đến khi giặc thua, bắt được cả một hòm biểu xin hàng. Thượng Hoàng sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc”.
Với tinh thần đó, ngay khi cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã mời vua Bảo Đại và linh mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao. Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946-1955) lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp đến ngày toàn thắng có 18 Bộ trưởng thì có đến 9 vị không phải Đảng viên Đảng Cộng sản (Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Hoàng Minh Giám, Tạ Quang Bửu, Phan Anh, Vũ Đình Hoè, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Tố, Đặng Văn Hướng) trong đó có nhiều vị quan lại cao cấp của chính quyền cũ.
Quốc hội khoá I của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được nhân dân cả nước bầu năm 1946 trong số 333 đại biểu thì có đến 213 vị không phải là Việt Minh. Đó là chưa tính 70 ghế bổ sung cho Việt Quốc, Việt Cách là các đảng đối lập đang dựa vào ngoại bang chống lại Việt Minh, chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tin tưởng vào tinh thần hòa giải của Hồ Chí Minh, ngay lúc đất nước vô vàn khó khăn thiếu thốn và gian khổ, hàng loạt trí thức Việt Nam đang ở Pháp, nơi thanh bình hoa lệ đã về nước tham gia kháng chiến. Bắt đầu là Trần Hữu Tước, Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Võ Quý Huân, Võ Đình Huỳnh. Những năm sau đó là Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Nhị, Lương Định Của… Đây là những hạt nhân nòng cốt góp phần quan trọng hình thành nên đội ngũ trí thức cách mạng của đất nước.
Thấm nhuần sâu sắc tinh thần hòa giải, Hồ Chí Minh cương quyết với kẻ địch nhưng cũng đối xử rất văn hoá và nhân đạo với họ. Chính Hồ Chí Minh đã thả tự do cho ông Ngô Đình Diệm khi bị bắt giữ ở Thái Nguyên sau cách mạng Tháng Tám. Nghe nói ông đã phê bình những người viết báo gọi ông Diệm là "thằng "và cho rằng “ông Diệm có cách yêu nước của ông ấy”. Ngoài ra hàng binh, tù binh Pháp cũng được đối xử tử tế trong lúc kháng chiến nhân dân và bộ đội ta đang thiếu thốn trăm bề. Hồ Chí Minh quý trọng nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ mặc dù quân đội Pháp và Mỹ tàn phá, bắn giết nhân dân ta. Vì thế mới có những Raymon Dien, Norman Morrison sẵn sàng hy sinh để ủng hộ nhân dân Việt Nam, mới được nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ trói tay bọn xâm lược và cả thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến.
Hoc tập Nguyễn Trãi đề cao tinh thần hoà giải, xoá bỏ hận thù [Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng/Thần Vũ chẳng giết hại, thể long trời ta mở đường hiếu sinh/Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc/Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run], trong cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, có lần phi công Mỹ bị bắt làm tù binh, bị người ta cho mặc quần áo tù và dong đi trên đường phố Hà Nội, Hồ Chí Minh đang đi chữa bệnh ở nước ngoài, biết chuyện đã phê bình người chủ trương ấy và cấm không cho tái diễn.
Khi Hồ Chí Minh đã qua đời thì tinh thần hoà giải, xoá bỏ hận thù của ông vẫn được Đảng và Nhà nước ta xác định như một quan điểm nhất quán, xuyên suốt. Cố Thủ tưởng Võ Văn Kiệt đã từng xúc động và nhận định: “Ngày chiến thắng, có hàng triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn” cũng chính là từ tinh thần ấy của Hồ Chí Minh. Trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, giặc Trung Quốc tàn phá 6 tỉnh biên giới, tàn sát hàng vạn đồng bào ta gây bao tang tóc đau thương. Khi quân chính quy của ta được điều từ phía Nam ra, quân xâm lược Trung Quốc trước nguy cơ bị tiêu diệt nhiều hơn nữa đã phải tuyên bố rút quân. Chính phủ và quân đội ta đã cho rút mà không bao vây, truy kích tiêu diệt chúng.
Hành động đó biểu thị sự tiếp tục tư tưởng hoà giải của Hồ Chí Minh. Chỉ có xoá bỏ hận thù mới là nền móng vững chắc cho một nền hoà bình bền vững để bảo vệ và phát triển đất nước.
Hoà giải dân tộc, hoà giải quốc tế, ngay cả với kẻ thù mới có “Sen tàn cúc lại nở hoa”, “Trời còn để có hôm nay/Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” như cácTổng thống Mỹ đã đến Việt Nam, mượn Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du để nói về quan hệ của hai nước vốn là kẻ thù của nhau trong lịch sử. Họ làm được thế bởi có lẽ họ cũng rất hiểu tinh thần hoà giải- một cốt cách văn hoá của Hồ Chí Minh được kế tục và phát huy từu tinh hoa văn hoá Việt Nam.
[1] Lê Văn Hiến. Hồi ký Bình TrịThiên. Tháng Tám bốn lăm. Nxb Thuận Hoá 1985, tr 166 – 172.
2221
2293
21895
225753
130677
114578696