Những góc nhìn Văn hoá

Một vài suy nghĩ về công tác nghiên cứu Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam

1. Công tác nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, trước hết là câu trả lời cho những vấn đề xã hội, sau đó là cho những vấn đề học thuật thuần túy. Cần nói rằng, “những vấn đề học thuật thuần túy” tự nó không tồn tại như một vấn đề cần nghiên cứu, mà là sản phẩm của những nghiên cứu có xu hướng đóng góp một thứ tri thức chẳng giải quyết gì cũng chẳng đem đến nhận thức nào cho những vấn đề hiện thực mà xã hội đặt ra. Tất nhiên, ranh giới giữa những nghiên cứu hướng đến xã hội hay hướng đến “khoa học thuần túy” không chỉ xuất phát từ bản thân nghiên cứu đó, mà phần lớn còn phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu và trách nhiệm xã hội mà nhà nghiên cứu gắn mình vào[1]. Công tác nghiên cứu khoa học quân sự nói chung và lịch sử quân sự nói riêng thường đưa đến những tri thức quan trọng không chỉ với sự “hiểu biết thuần túy” mà đặc biệt đối với hoàn cảnh thực tế của một dân tộc.

Sự phát triển của ngành nghiên cứu quan hệ quốc tế cho đến đầu thế kỷ XXI có vẻ như đã lý giải và đưa ra những gợi ý đầy đủ nhất về mặt tri thức cho các quốc gia trong lĩnh vực hợp tác và tranh chấp. Vấn đề quân sự nói chung và quốc phòng nói riêng, trong cái nhìn của ngành quan hệ quốc tế, đã giảm lược xuống thành một lựa chọn đối ngoại, hơn là một vấn đề quốc gia có tính chiến lược[2]. Nhưng trong thế kỷ XXI của những kỳ vọng toàn cầu, các quốc gia lại phải đối mặt với cùng lúc hai vấn đề quân sự cấp thiết: (1) những cuộc đàm phán là không đủ để đảm bảo nền quốc phòng của một quốc gia, nhất là trong bối cảnh các quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh không thương thuyết một cách bình đẳng với các quốc gia lân cận có tiềm lực quân sự yếu kém hơn[3]; (2) an ninh chính trị trật tự xã hội của các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển, do nhiều nguyên nhân, dễ chịu sự can thiệp từ bên ngoài – do đó, công tác củng cố tính dân tộc tự chủ của một nhà nước phải đi kèm với công tác xây dựng tính nhân dân sâu sắc của quân đội, để đảm bảo cho hoạt động của một xã hội có nền chính trị độc lập, tự quyết.

Chính vì thế, việc mở ra những cuộc thảo luận rộng lớn hơn cũng như việc đề cao hơn nữa nhận thức về lịch sử quân sự Việt Nam và lịch sử tư tưởng quân sự của dân tộc Việt Nam trong toàn xã hội là điều cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh những cường lực của quá trình toàn cầu hóa đang mở rộng hơn nữa ảnh hưởng của thế giới phương Tây. Cần nói rằng, ngay cả giới quân sự phương Tây cũng đã có những chuyển biến lớn trong nhận thức về vấn đề quân sự, đặc biệt thông qua việc lý giải và thấu hiểu lịch sử quân sự lịch sử tư tưởng quân sự[4].

2. Một vấn đề quan trọng cần được hiểu rõ trong khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam là mối quan hệ mang đặc trưng Việt Nam của hai khái niệm chiến tranh nghệ thuật quân sự.

Chiến tranh trước hết là một lĩnh vực trong số các lĩnh vực hoạt động của cộng đồng – xã hội[5], có đặc trưng là luôn diễn ra dưới hình thức xung đột vũ trang giữa các giai cấp, các dân tộc hay các quốc gia. Khái niệm chiến tranh, cũng như khái niệm an ninh, trong hoàn cảnh hiện đại, đã có những nội hàm mới, trong đó nhấn mạnh đến các xung đột vì lợi ích chính trị, kinh tế, xã hội nhất định, với những hình thức mới như chiến tranh công nghệ. Như vậy, phạm trù chiến tranh cần được phân tích thông qua ba yếu tố: (i) xung đột; (ii) lợi ích hay mục đích của mỗi bên tham chiến; và (iii) hình thức tham chiến và cách thức tiến hành chiến tranh của mỗi bên. Trong cách hiểu truyền thống, nghệ thuật quân sự là một bộ phận của chiến tranh, thuộc về yếu tố (iii) là cách thức tiến hành chiến tranh. Theo đó, tư tưởng quân sự nghệ thuật quân sự là toàn bộ những chính sách, đường lối, quy tắc tiến hành chiến tranh của mỗi bên tham chiến cũng như mọi phương thức chiến tranh chiến lược chiến tranh[6]. Tuy vậy, trong thực tế, tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự luôn hiện diện ngay trong thời bình với quá trình tổ chức và huấn luyện lực lượng vũ trang. Thực tế đó cho thấy rằng trong khi chiến tranh được đặc trưng bởi xung đột vũ trang thì nghệ thuật và tư tưởng quân sự lại vận hành xuyên suốt thời chiến và thời bình, nghĩa là vượt ra ngoài ranh giới của chiến tranh. Nói cách khác, chiến tranh chấm dứt trong thời chiến, nhưng tư tưởng và nghệ thuật quân sự lại vận động vượt ra khỏi hoàn cảnh chiến tranh.

2.1 Ở đây, có hai giả định cần xem xét. Giả định thứ nhất là, chiến tranh là cội nguồn của nghệ thuật chiến tranh, và do đó, của tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự. Với giả định này, mọi hoạt động quân sự thể hiện tư tưởng quân sự nghệ thuật quân sự đều thể hiện một trạng thái chiến tranh, và như thế, là một dạng thức khác của chiến tranh, hay chiến tranh xét như tiềm năng. Như thế, lịch sử chiến tranh lịch sử quân sự, và mọi hoạt động quân sự thực chất là chuẩn bị cho chiến tranh. Điều ấy cũng có nghĩa, chiến tranh là không thể tránh được và là một bản chất của xã hội, hoặc bản chất của con người[7]. Theo nghĩa này, chiến tranh đối lập với hòa bình, và toàn bộ các hoạt động quân sự cần được phân cách tương đối với các hoạt động dân sự - một xã hội dân sự, do đó, cần tránh vận hành theo các nguyên tắc của một xã hội thời chiến[8]. Một sự phân cách ban đầu giữa tự do và chiến tranh lại sẽ còn dẫn đến những luận đề nghiên cứu khác quan trọng hơn: bằng cách mà chiến tranh tước đoạt tình trạng tự do, thì chiến tranh đặt ra vấn đề hòa bình, và do đó, chiến tranh là một trong những nguồn gốc của hòa bình.[9] Tôi không cho rằng nên đi xa đến mức suy luận rằng hòa bình là sự chuẩn bị cho chiến tranh; những rõ ràng, đến đây, tư tưởng quân sự đã trở thành nhận thức về tất cả những vấn đề chiến tranh, thậm chí, còn là một dạng thức tiềm ẩn của chiến tranh.

2.2 Tôi cho rằng, cần đến một giả định thứ hai, giải thích theo chiều ngược lại: tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự là nguyên do của chiến tranh – theo nghĩa đúng nhất thì điều này cần được diễn giải là: một chủ thể không thể tiến hành chiến tranh mà không có năng lực tham gia chiến tranh. Trước hết, giả định này không phủ nhận tính chất xung đột và lợi ích cấu thành động lực của chiến tranh, mà chủ yếu tập trung nhìn nhận chiến tranh xét như một hoạt động biểu lộ bản chất của chủ thể tham chiến. Đối với một cộng đồng hay một xã hội, thì chiến tranh là sự bộc lộ năng lực tự vệ của nó. Nếu xét ở quy mô một quốc gia, thì chức năng của chiến tranh là sự bảo vệ “biên giới bên ngoài” của quốc gia, và nhờ đó mở rộng phạm vi của bản sắc (lợi ích) quốc gia về mặt vùng lãnh thổ lẫn dân số- bản sắc vốn là “biên giới bên trong “ của một quốc gia[10]. Xét ở chức năng bảo vệ và tăng cường bản sắc quốc gia như thế, thì chiến tranh tự nó không còn đặt trọng tâm vào xung đột, mà trọng tâm lại chính là sự tồn tại và phát triển của cộng đồng – xã hội – quốc gia tiến hành chiến tranh. Dù ở mức nào, thì với giả định này, tư tưởng quân sự nghệ thuật quân sự lại có nguồn gốc “phi quân sự”, và chiến tranh hẳn là một phương cách giải quyết những vấn đề liên tục xuất sinh của một siêu cấu trúc[11] quốc gia hay xã hội. Hơn nữa, đây là một “phương cách” cực đoan, vì trong chiến tranh mọi nguồn lực được động viên đến tối đa, và tính tiêu hủy trực tiếp các nguồn lực khiến xã hội –quốc gia phải không ngừng tái hồi các cực hạn của xã hội – quốc gia trên nhiều lĩnh vực[12]. Điều này được thể hiện rõ ràng trong thực tiễn kháng chiến bảo vệ quốc gia của dân tộc Việt Nam: “Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của mình, người Việt Nam luôn luôn có ý thức rất cao trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Do ý thức về toàn vẹn lãnh thổ, về lịch sử, văn hóa và độc lập chủ quyền dân tộc mà bao thế hệ người Việt đã đứng lên chống ngoại xâm. Mỗi khi diễn ra cuộc chiến tranh giành và giữ nền độc lập thì tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, ý chí quyết tâm, tư tưởng quyết chiến quyết thắng ngập tràn, dâng cao trong tất cả mọi lưc lượng tham gia đánh giặc; nó trở thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước. Đó là tư tưởng tình cảm lớn nhất của người Viêt Nam, cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra tư duy sáng tạo trong chiến tranh, là cội nguồn của mọi quan điểm tư tưởng quân sự tiến bộ”.[13]

Cần nói rõ rằng, giả định thứ hai này không phải là phép giảm trừ chiến tranh thành quân sự, để từ đó rút mâu thuẫn hòa bìnhchiến tranh xuống còn một quan hệ tương hỗ dưới bất cứ hình thức nào. Rõ ràng, theo phân tích từ giả định này, tư tưởng quân sự, nghệ thuật quân sự, hay bản thân phạm trù quân sự là cốt lõi của vấn đề quân sự/dân sự cũng như chiến tranh/hòa bình.  Do đó, tư tưởng quân sự nghệ thuật quân sự chỉ là sự gọi tên những đặc tính của siêu cấu trúc quốc gia vốn được bộc lộ trong chiến tranh. Từ đó, có thể nói rằng, tư tưởng quân sự là sự biểu hiện cao nhất của bản sắc quốc gia, xét như một hình thái cô đọng của tinh thần dân tộc, vốn thường được đề cao vào thời chiến. Như vậy, chiến tranh và hòa bình, quân sự và dân sự, xét đến cùng, chính là sự hiện thực hóa tư tưởng quân sự, vốn là tinh thần của siêu cấu trúc quốc gia. Cuối cùng, mối quan hệ giữa chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa yêu nước tinh thần dân tộc với tư tưởng quân sự chiến tranh, do đó, là một thực tế, hơn là một vấn đề lý thuyết[14]. Về mặt quân sự, điều ấy còn có nghĩa, sự tăng cường sức mạnh quân sự không lập tức nhằm chuẩn bị cho chiến tranh, cũng không có nghĩa những hoạt động quân sự sẽ can thiệp và làm đổ vỡ các cấu trúc dân sự trong xã hội, một quan hệ được xác lập trong giả định thứ nhất.

Điều ấy còn có nghĩa, những hoạt động quân sự trong ý nghĩa hiện thực hóa và phát triển tư tưởng quân sự bao giờ cũng có một ảnh hưởng vượt ra khỏi biên giới của lĩnh vực quân sự, góp phần quan trọng vào sự phát triển của cộng đồng – dân tộc – quốc gia. Như vậy, có hai chủ đề quan trọng cần được phân tích khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam: (a) Tư tưởng quân sự Việt Nam được hình thành và phát triển từ thực tiễn đến lý luận ra sao, và (b) vai trò của nghệ thuật quân sự và tư tưởng quân sự Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại là gì. Chính từ nhận thức hai vấn đề này, nhà nghiên cứu đang xác lập những tri thức quan trọng về: (1) Hệ giá trị nền tảng của tư tưởng quân sự Việt Nam: yêu nước, đấu tranh vì độc lập tự do, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ ; (2) tư tưởng quân sự Việt Nam từ cổ trung đến cận-hiện đại qua các nội dung xuyên suốt các thời kỳ: khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự, xây dựng căn cứ địa, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; (3) qua đó, làm rõ mối quan hệ giữa lịch sử Việt Nam, lịch sử quân sự Việt Nam lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam.

Cần nhấn mạnh rằng, lịch sử quân sự  (Việt Nam) là lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước, và đó cũng là một nội dung quan trọng của lịch sử Việt Nam[15].

3. Chắc chắn rằng sự thấu hiểu những tri thức lịch sử là chìa khóa để lý giải hiện tại; mặt khác, quá khứ thường tái diễn ở nơi sự thấu hiểu lịch sử bị bỏ quên. Công tác nghiên cứu và đưa ra những tri thức căn bản về tư tưởng quân sự Việt Nam là một đóng góp quan trọng để hiểu những chiều hướng phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó, việc nhận thức những giá trị căn bản của truyền thống quân sự Việt Nam cũng cung cấp cho các nhà quân sự Việt Nam hiện đại cũng như các nhà hoạch định chính sách những tri thức cần thiết để lựa chọn chính sách quân sự cho nền quốc phòng.

3.1 Trong những nội dung quan trọng của công tác nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam, tư tưởng về chiến tranh nhân dân là nội dung phức tạp nhất của lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại, và sẽ còn là chủ đề không thể bỏ qua để hiểu rõ lịch sử Việt Nam.

Một nhà sử học không hiểu rõ những vấn đề quân sự thì cũng không thể lý giải thấu đáo những vấn đề dân sự - và gần như chắc chắn là nếu không hiểu rõ sự thay đổi của một đất nước trong chiến tranh thì cũng không thể hiểu nổi những diễn biến cũng như sự vận hành của xã hội trong thời bình[16]. Tách rời những vấn đề quân sự khỏi văn hóa, kinh tế, chính trị, bang giao… thì đơn giản là vì nhà sử học không thể hiểu và nắm bắt được cấu trúc thật sự của lịch sử, mà ở bất kì thời nào thì quân sự luôn là nhân tố làm biến đổi các lực lượng chính trị, thay đổi cấu trúc địa-chính trị, và theo đó, địa-văn hóa. Hơn nữa, những vấn đề về chiến tranh nhân dân (và toàn dân kháng chiến) cho thấy rằng, ở Việt Nam, quân sự không chỉ là chiến tranh, mà nó tồn tại xen kẽ và gây tác động lên một loạt các lĩnh vực xã hội – kinh tế - chính trị - văn hóa. Ở một góc độ khác, động viên toàn thể nhân dân cũng như hình thành khối đại đoàn kết toàn dân vào những hoạt động quốc gia nhất địnhlà vấn đề của mọi nhà nước, và không ở đâu và khi nào nảy sinh những thể thức, cấu trúc, thiết chế vận động nhân dân trên diện rộng như chiến tranh nhân dân. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa tính nhân dân chiến tranh nhân dân cũng chỉ ra rằng hoạt động quân sự trên quy mô lớn cùng sự bùng nổ của nó vào những thời kì chiến tranh đã tạo dựng nên những nền tảng căn bản cho sự sinh thành xã hội, nhân dân dân tộc.

Chiến tranh nhân dân, tính nhân dântoàn dân kháng chiến là những phạm trù quan trọng như một lý thuyết mở để đi sâu tìm hiểu cả những vấn đề tưởng như tách biệt như sự phân vùng địa-văn hóa, tính tự trị làng xã, mối quan hệ làng-nước, các không gian văn hóa-tôn giáo-tín ngưỡng, sự phát triển của các tôn giáo… Nó cũng bổ sung một tiền đề căn bản để chủ nghĩa dân tộc không trượt vào những đường rãnh cực đoan – hẹp hòi; nó cũng ngăn chặn nhà sử học rơi vào một chủ nghĩa lãng mạn sử học. Thực vậy, những phân tích về chiến tranh nhân dân, tính nhân dân toàn dân kháng chiến là tri thức quan trọng cho bất cứ ai muốn hiểu rõ nền tảng của lịch sử Việt Nam.

3.2 Một hạn chế mang tính bắt buộc của công tác nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam hiện nay là chưa đi sâu và chuyên biệt vào chủ đề quân dịch, hay hẹp hơn là nghĩa vụ quân sự.Tuy vấn đề về tư tưởng ngự binh ư nông, động viên lực lượng vũ trang ba thứ quân, kêu gọi toàn quốc kháng chiến… đã được các học giả trình bày và phân tích kĩ lưỡng trong nhiều công trình có giá trị, nhưng tôi cho rằng cần một nghiên cứu kĩ lưỡng hơn nữa để đưa ra những tri thức và kiến nghị cần thiết về quân dịch.

Thực vậy, quân dịch là khớp nối giữa xã hội dân sựlực lượng quân sự. Đây không chỉ là một hoạt động nhằm đào tạo lực lượng dự bị cho chiến tranh, mà còn là hoạt động trao truyền các giá trị quốc gia – dân tộc cũng như tinh thần dân tộc và long yêu nước đích thực cho các công dân, bên cạnh sự rèn luyện kỉ luật và nghĩa vụ. Không thể có quốc gia mà thiếu đi những hoạt động quân sự, và tương tự, không thể có một công dân đích thực thiếu đi sự rèn luyện và học tập trong môi trường quân sự. Một xã hội coi trọng địa vị và lợi ích thái quá bao giờ cũng phản ứng tiêu cực với quân dịch[17]. Ngược lại, một xã hội có lý trí, coi trọng phẩm giá, trách nhiệm và nghĩa vụ sẽ thấy rằng quân dịch là một hoạt động cần thiết[18].

Cần nhắc lại rằng, quân sự là một lĩnh vực đặc thù, và ở Việt Nam, những hoạt động quân sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình định hình đặc tính quốc gia – dân tộc Việt Nam. Như bạn đọc sẽ thấy qua cuốn sách này, những tư tưởng định hướng cho nền quân sự Việt Nam quan hệ chặt chẽ với những tư tưởng định hướng cho sự phát triển của toàn thể dân tộc trong từng thời kỳ. Nói cách khác, mục đích của nền quân sự Việt Nam không phải chiến tranh và chiến công, mà là hòa bình và phát triển – tư tưởng quân sự Việt Nam, vì thế, phản ánh tính cách của một dân tộc yêu chuộng Hòa Bình, nhưng đầy tinh thần dân tộc và luôn tràn đầy lòng yêu nước[19]. Cũng vì mối liên hệ đặc biệt giữa lĩnh vực quân sự với mọi lĩnh vực khác của quốc gia, trong thời bình cũng như trong thời chiến, những nhà tư tưởng quân sự Việt Nam đồng thời là những nhà chính trị kiệt xuất.

 



[1]Tôi cho rằng mối quan hệ giữa khoa học và xã hội không phải một chủ đề mới, nhưng là một chủ đề quan trọng luôn cần được đặt ra và phân tích. Có thể thấy những nhận xét sau đây về một nền khoa học hiện đại luôn đúng với những động lực thúc đẩy nhà khoa học cống hiến cho xã hội: “…Chúng tôi thấy hình như một loạt các luận cứ nhằm thuyết phục xã hội hỗ trợ khoa học đã không lưu ý đầy đủ đến sự phát triển của xã hội lẫn nghiên cứu đang được bàn đến trong tài liệu học thuật, tài liệu về chính sách và trên mặt báo hằng ngày…Chúng tôi tin rằng, để phát triển luận cứ nhằm liên kết thực tại xã hội với thực tiễn nghiên cứu hiện nay thì không cần phải vạch rõ những lý lẽ đang hiện hành…mà tốt hơn là nên rà soát lại những nền tảng của các lý lẽ đó…Tóm lại, kết luận của chúng tôi là quan hệ tương giao ngày càng gắn bó hơn giữa khoa học và xã hội báo hiệu sự ra đời của một loại khoa học mới: khoa học bối cảnh hóa, hoặc khoa học nhạy cảm với bối cảnh” (Helga Nowtny, Peter Scott, Michael Gibbons, Tư duy lại khoa học – Tri thức và công chúng trong kỷ nguyên bất định, NXB Tri thức, 2009, tr13-14). Chiều kích xã hội của nhà khoa học cũng như của công trình khoa học không đơn giản là đối tượng nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu, mà sâu xa hơn là mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học, hay giữa nhà khoa học và công tác nghiên cứu với cộng đồng, xã hội thực tế mà nhà khoa học tham gia như một thành viên. Nói cách khác, khoa học truyền thống đứng “bên ngoài” xã hội, nhưng động lực thực sự của khoa học đòi hỏi nhà khoa học đứng “bên trong” xã hội: “…không còn có thể coi khoa học như một lãnh địa độc lập, tự điều hành, phân biệt một cách rạch ròi với các lãnh địa khác của xã hội, của văn hóa, và đặc biệt là của kinh tế nữa. Tất cả các lĩnh vực này trở nên không còn đồng nhất ở bên trong, còn ở bên ngoài thì phục thuộc lẫn nhau, thậm chí chồng chéo lên nhau đến nỗi giữa chúng không còn sự phân biệt và không ai có thể phân biệt…” (Tư duy lại khoa học, tr18).

[2]Dĩ nhiên, trong thực tế lịch sử, không bao giờ vai trò của quân sự, dù ở phương Đông hay phương Tây, lại là thứ yếu. De Gaulle đã nói chính xác về vấn đề này: “Dù trên thực tế nhiệm vụ riêng biệt của chính phủ và chỉ huy quân đội có khác nhau thế nào đi nữa thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai bên là không còn phải bàn cãi. Chính khách nào có thể thành công khi mà quân đội thất bại? Chiến lược nào có giá trị khi mà nó thiếu những phương tiện? Thành Roma không có những quân đoàn lê dương đã chẳng tận dụng được gì từ sự khôn khéo của Viện nguyên lão. Richelieu, Mazarin, Louvois sẽ có ích gì nếu không có quân đội hoàng gia? Nếu Dumouriez bị thất bại tại Valmy thì Cách mạng đã bị bóp nghẹt từ trong trứng nước. Sự thống nhất của nước Đức làm cho hai cái tên không thể tách rời nhau, Bismarck và Moltke. Gần đây, bất chấp mọi sự, ký ức về chiến thắng vẫn tiếp tục có chung tên tuổi của những chính khách và những nhà chỉ huy vĩ đại”. (De Gaulle, Lưỡi gươm, Bàn về nghệ thuật chỉ huy, NXB Thế giới, 2014, tr175).

[3]Mối quan hệ giữa chiến tranh, hòa bình và trật tự thế giới là một chủ đề không mới. Ít nhất có thể thấy rằng từ thời Khai sáng, Kant đã chỉ ra rằng một trật tự thế giới ổn định chỉ có thể có được tự những hình thức nhà nước trong đó công dân có tiếng nói trong  việc tiến hành chiến tranh hay không; vì trật tự là một tình trạng ổn định bất toàn đạt được qua thỏa thuận giữa các quốc gia, và trật tự chính là nội dung quan trọng nhất của hòa bình. Về vấn đề này, có thể tham khảo Michael Howard, The Invention of Peace, Reflections on War and International Order (Sự kiến tạo Hòa bình, Về Chiến tranh và Trật tự Quốc tế), Yale University Press, 2001.

[4]Năm 2006, hai tác giả W.Murray và Richard H. Sinnreich đã tổng hợp các bài luận từ các cuộc hội thảo tại Cao Đẳng Quân Sự Hoàng gia Anh (Royal Military College), Sandhurt, sau đó trình bày kết quả tổng hợp tại Đại học Thủy quân Lục chiến (Marine Corps University, Quantico, bang Virginia, Mỹ). Sau đó, các bài luận này được hai tác giả, trong vai trò biên tập, xuất bản thành sách với nhan đề “Quá khứ chỉ mới bắt đầu: Tầm quan trọng của Lịch sử đối với Quân sự” (The Past as Prologue: The Importance of History to the Military Profession, Cambridge, 2006). Cuốn sách này sau đó trở thành sách giáo khoa của các trường võ bị hàng đầu thế giới, được khuyến cáo nên đọc trước khi gia nhập lực lượng vũ trang, trang bị kiến thức căn bản và nhận thức quân sự cần thiết cho mọi quân nhân. Hơn thế nữa, cuốn sách cũng được coi là những gợi ý cần thiết cho mọi nhà chiến lược quân sự cùng các những người làm công tác hoạch định chính sách quốc gia. “Quá khứ chỉ mới Bắt đầu” là sự bảo vệ sáng suốt cho nhu cầu tiếp tục công việc nghiên cứu lịch sử quân sự đầy nhiệt huyết của các quan chức quân sự và những nhà hoạch định chính sách, từ đó không ngừng chống lại những nỗ lực hạ mức chiến tranh thành những phân tích khoa học đơn thuần. Cuốn sách là sự tập hợp những bài viết của một số nhà lý luận và sử gia quân sự hàng đầu của thời đại.

[5]Thế giới phương Tây, cũng như Trung Đông và Bắc Phi, đều có một lịch sử được kiến tạo bởi những cuộc chiến tranh liên miên dưới mọi hình thức, từ đó mà nảy sinh những quốc gia mới, khiến những cuộc tiếp xúc văn minh và văn hóa mạnh thêm, và cuộc tiến hóa lịch sử diễn ra bởi một loạt các nguyên nhân phức tạp và đan xen. Ta hoàn toàn có thể đồng ý rằng “…mối liên hệ rõ ràng giữa chiến tranh và sự tiến hóa lẫn thay đổi của lịch sử. Mặc dù có người cho rằng những cân nhắc về kinh tế là rất quan trọng, nhưng không thể phủ nhận rằng sự thịnh suy của một đế chế vĩ đại nào đó trên thế giới luôn có mối liên hệ với những thành công và thất bại của quân đội”. (Robin Cross, Bách Khoa toàn thư về chiến tranh, NXB VHTT, 2011, tr 4).

[6]Những luận thuyết về chiến tranh xuất phát từ nội hàm này của khái niệm chiến tranh là đặc trưng của tư duy quân sự phương Tây, vốn được xây dựng trên bốn yếu tố: (a) quân sự là một giải pháp của chính trị, (b) phát triển kỹ thuật quân sự hiện đại, (c) sự phát triển quân sự biểu hiện bởi tính hiệu quả trong chiến tranh, và (d) quân sự là một lực lượng chuyên biệt được được huấn luyện bằng kỉ luật phục vụ cho chiến tranh. Geoffrey Parker đã phân tích bốn yếu tố này một cách rõ ràng và ngắn gọn nhất: “Tuy hầu hết các xã hội đều có khả năng học hỏi từ sự bại trận và khả năng bắt chước những phương pháp quân sự của những đối thủ đắc thắng, nhưng phương Tây có bốn điểm hiếm có sau đây. Thứ nhất, vì Âu châu có một nền chính trị thường xuyên manh mún, cùng với sự gây hấn thiếu tính toán xuất phát từ những giá trị chính kiến của nó, gây ra những cuộc cạnh tranh kéo dài, khốc liệt, nên vì thế Âu châu đặt ưu tiên hàng đầu cho việc thích nghi nhanh và cách tân. Thứ hai, vì đối mới quân sự là một điều rất tốn kém nên phương Tây đã phát triển không những một nền thuế khóa rộng lớn mà còn cả một mạng lưới tín dụng hầu có thể chi trả những sáng chế tốn kém và duy trì sự tốn kém đó trong một thời gian dài. Vì những lý do vừa kể nên lịch sử quân sự phương Tây đã có được một loạt những kỹ thuật đắt giá và những cuộc cách mạng chiến thuật, đặc biệt từ năm 1.400: súng hỏa mai, pháo đài, chiến thuyền “vỏ thép”, sư đoàn thiết giáp Đức, vũ khí nguyên tử, “bom tinh khôn”. Và mỗi cuộc Cách mạng như thế buộc các cường quốc phải đáp ứng nhanh chóng nếu các cường quốc này có đủ khả năng để huy động tiền của và tái cơ cấu nền kinh tế nhằm có thể yểm trợ đầy đủ cho kỹ thuật quân sự. Thứ ba, phương Tây thông thường dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả để đánh giá những cách tân quân sự. Ở những nơi khác, có một số nền văn minh đã chối bỏ những kỹ thuật hoặc chiến thuật không phù hợp với văn hóa hoặc tôn giáo của họ dấu chúng có vượt trội: vì thế mà nền quân sự quý tộc của bộ lạc Mameluk Ai Cập đã không sử dụng súng hỏa mai vì không phụ hợp với cách thức tiến hành chiến tranh theo lối cổ truyền của họ. Và do đó bộ tộc này đã bị Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ lật đổ năm 1517. Thứ tư và cuối cùng là kỷ luật và sự rèn luyện thường xuyên. Trong trận Mantineia, 418 trước CN, sử gia Thucidides mô tả các chiến binh Sparte tiến vào trận “một cách từ tốn, theo điệu sáo của nhiều chiến binh đang thổi trong hàng ngũ họ... nhằm có thể cùng hòa nhịp bước và tiến đều lên phía trước mà đỗi ngũ không bị phá vỡ”. Kỷ luạt và sự rèn luyện thường xuyên của quân đội Macedon được Aelian ghi chép lại và trở thành nền tảng để người Hòa Lan noi gương trong thế kỷ 17 và sau đó là quân đội của những nước phương Tây khác…Có một ưu điểm cũng gia tăng trong thế kỷ 17 đó là sự kết hợp giữa huấn luyện thường xuyên với sử dụng súng hỏa mai, nhằm tạo ra một trạng đạn. Điều này có thể được hoàn thiện qua việc thường xuyên thực hành và là rường cột của cách thức tiến hành chiến tranh của phương Tây và là bí quyết để phương Tây bành trướng trong ba thế kỷ sau đó. Vai trò quan trọng của tài chành, kỹ thuật và kỷ luật cho phép cách thức tiến hành chiến tranh của phương Tây có được khả năng nhanh chóng thích nghi và hủy diệt…” (in đậm do tôi nhấn mạnh). (Nguồn: Geoffrey Parker, Lịch sử chiến tranh, NXB Tổng hợp Tp.Hồ Chí Minh, 2006, tr464-465).

[7]Lý thuyết tâm lý học chiến tranh có thể đặt ra khá nhiều luận điểm đáng lưu ý, tuy nhiên không phải là điều tôi muốn bàn luận sâu thêm ở đây. Có thể tham khảo trong M.F. Ashley Montagu, Man’s most dangerous Myth: The Fallacy of Race (Huyền thoại nguy hại nhất của loài người: Sự hoang tưởng về Chủng tộc), Columbia University Press, NewYork, 1946, từ trang 89.

[8]Như thế, để thiết lập một xã hội trật tự trong khi vẫn duy trì lực lượng quân sự, xã hội cần đến một bộ máy mang cả tính chất quân sự và tính chất dân sự: cảnh sát. Bộ máy cảnh sát, trong mọi xã hội, trở thành một bộ phận chính yếu của hệ thống hành pháp. Theo một góc nhìn khác, bộ máy cảnh sát là biểu hiện của sự tách rời chức năng quốc phòng và chức năng an ninh. Nhưng ngay cả khi bộ máy cảnh sát thực hiện chức năng của mình tốt nhất, thì vẫn có thể thấy rằng, một lực lượng quân sự hoạt động cho chức năng dân sự theo quy tắc dân sự rất có thể trở thành vấn nạn cho sự hài hòa xã hội, thậm chí phá hủy xã hội dân sự. Mặt khác thì, cũng có những thảo luận nghiêm túc  về vấn đề một xã hội dân sự có thể bao chứa lực lượng quân sự lớn, và về mặt lý thuyết chính trị thì điều này đúng là có thể, chẳng hạn nền dân chủ của Mỹ được bảo vệ bởi một lực lượng quân sự khổng lồ (chủ để này có thể kéo sang những vấn đề liên quan như đế chế toàn cầu hay chủ nghĩa tư bản mới hoặc phương Tây mới). Về những luận điểm xung quanh chủ đề quân sự và dân sự, có thể tham khảo thêm: Peter D. Feaver and Richard H. Kohn, (đồng chủ biên), Soldiers and Civilians: The Civil-Military Gap and American National Security (Quân nhân và Công dân: Khoảng trống dân sự-quân sự và nền quốc phòng Mỹ). Cambridge, MIT Press, 2001. Cũng xem thêm: Cũng xem thêm: Samuel P. Huntington, The Soldier and the State; the Theory and Politics of Civil-Military Relations. (Người lính và Nhà nước; Lý thuyết và Chính trị về quan hệ Dân sự-Quân sự) Cambridge: Belknap Press of Harvard University Press, 1957. Đặc biệt, chủ nghĩa chính quy hóa (chuyên nghiệp hóa) quân đội được đề xuất trong tác phẩm của Huntington là rất đáng lưu ý. Liệu một quân đội trung lập chính trị, tự trị và có lực lượng sĩ quan chuyên nghiệp được duy trì trong quan hệ mang tính quản trị dân chủ của chính quyền dân sự có phải là giải pháp thỏa đáng cho mối quan hệ dân sự và quân sự hay không? Nếu không, theo một cách thức khác, và quay lại với những học thuyết về đế chế và văn minh, ta lại thấy rằng mâu thuẫn giữa dân sự và quân sự buộc phải giải quyết bằng xuất khẩu mâu thuẫnchủ nghĩa bành trướng.

[9]Trạng thái chiến tranh được J. Locke phân tích và chỉ ra một khía cạnh quan trọng trong bản chất chiến tranh của con người: “Kẻ nào, trong trại thái tự nhiên mà lấy đi tự do vốn thuộc về người khác, thì nhất thiết cũng có ý đồ lấy đi thứ khác, đó chính là sự tự do làm nền tảng cho mọi thứ còn lại; kẻ nào, trong trạng thái xã hội mà lấy đi tự do vốn thuộc về người khác, đang sống trong xã hội hay trong một công quốc, thì nhất thiết cũng có ý đồ lấy đi của họ những thứ khác nữa, và vì thế bị xem như đang trong trạng thái chiến tranh” (John Locke, Khảo luận thứ hai về chính quyền, NXB Tri thức, 2013, tr51). Mối quan hệ giữa trạng thái chiến tranh tự do cá nhân chắc chắn là một vấn đề phức tạp, nhưng mâu thuẫn giữa chiến tranh tự do, ngay từ đầu, đã giả định một sự đối lập giữa chiến tranh hòa bình. Mặt khác, tự do chiến tranh, dưới dạng trạng thái, là một bản chất tự nhiên của con người – ta sẽ còn thấy rằng trong một tiến trình hiện đại hóa, thì sự lý tính hóa các thiết chế đảm bảo chiến tranh sẽ dẫn đến sự tổ chức một quân đội chính quy rộng lớn, đối diện với bên kia là tự do được thiết hóa thành những lực lượng dân sự, chính quyền dân sự chuyên nghiệp. Bất cứ quan điểm kế tiếp nào về vấn đề này sẽ phải cắt ngang qua khái niệm quyền lựcquyền lực chính trị, không phải là điều tôi thấy nên thảo luận ở đây.

[10]Cách lý giải này không tránh khỏi phải viện dẫn đến một cái nhìn mang tính nhân học về chính trị, cho dù vấn đề biên giới bên trong và biên giới bên ngoài của một quốc gia không phải là vấn đề mới đối với lý thuyết quân sự lẫn lý thuyết chính trị. Cần thấy rằng, bản sắc của một quốc gia – dân tộc không chỉ biểu hiện qua những “động lực mù mờ” đã tạo nên phong tục, tập quán, truyền thống; mà hơn thế, bản sắc đó trước hết là ý thức về quốc gia-dân tộc như là quốc gia và dân tộc của mình. Đây chính là nội hàm quan trọng của long yêu nước. Tham khảo một tác phẩm kinh điển của G. Balandier, Political Anthropology (Nhân học chính trị), Penguin Books, 1972.

[11]Ở đây, không nên gọi tên siêu cấu trúc này là Nhà nước hay hệ thống chính trị. Tôi cho rằng một quốc gia – dân tộc luôn là một siêu cấu trúc đối với mỗi thành phần cấu thành nó, nghĩa là trước mỗi thành phần cấu thành nó, thì quốc gia – dân tộc là một cấu trúc đặc biệt, siêu vượt và có tác động không đồng đẳng. Do đó, tôi cho rằng sự tồn tại của quốc gia luôn ở dạng siêu việt đối với mỗi thành viên cũng như mỗi bộ phận cấu thành quốc gia đó. Tôi cũng không thấy cần phải sa lầy vào những luận thuyết hay cảm xúc của một chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa dân tộc ở đây, cũng không thần bí hóa cái siêu cấu trúc này. Những ai quan tâm đến chủ đề siêu cấu trúc quốc gia lại có thể tìm thấy những phê phán thuộc về bộ môn văn hóa chính trị, đặc biệt trong các luận thuyết của các nhà Marxist tân tả. Tuy nhiên, tôi đề xuất nên tham khảo cách tiếp cận của Louis Althusser trong tập tiểu luận Lenin and Philosophy and Other Essays (Lenin và Triết học cùng các tiểu luận khác), Monthly Review Press, 1971 (nguồn: https://marxists.org/reference/archive/althusser/index.htm).  Một siêu cấu trúc bao gồm chinh trị - luật pháp (nhà nước và hệ thống luật pháp) cùng cấu trúc tư tưởng (các hệ tín lý chính trị, tôn giáo…) liệu có phải là nền tảng tạo lập các điều kiện cần thiết để duy trì và cải sửa chủ nghĩa tư bản hay không? Liệu Althusser có đúng khi cho rằng siêu cấu trúc này có một sự tự trị tương đối?

[12]Chiến tranh ngự trị trên mọi khía cạnh của đời sống. Nó làm gia tăng quyền lực của nhà nước; xác định những vai trò của phái nam và phái nữ; nó ngấu nghiến các sinh mạng, tiền của và hàng hóa. Chiến tranh tác động đến mọi thành viên của xã hội, từ chiến sĩ đến thường dân và không ai có thể đứng ngoài cuộc” (Mark Kishlansky, Patrick Geary, P.O’Brien, Nền tảng văn minh phương Tây, NXB Văn hóa Thông tin, 2004, tr433). Và ta có thể nói thêm: chiến tranh khiến hệ thống thuế khóa phải thay đổi, khiến hệ thống sản xuất phải gia tăng, khiến khoa học kĩ thuật phát triển… Những cuộc chiến tranh theo kiểu phương Tây thể hiện rõ rang đặc tính này: “Sau sự xuất hiện của vũ khí sử dụng thuốc súng và vũ khí phòng thủ, cái giá phải đổ ra cho mỗi cuộc chiến càng lúc càng cao và chi phí quốc phòng leo thang đến mức chỉ có những quốc gia có quyền hành tập trung mới có đủ khả năng chi trả. Một loại chiến tranh tốn kém như thế rõ ràng giúp cho quyền lực của nhà nước ở phương Tây trở nên lớn lao hơn, khi mỗi thay đổi trong trang bị hoặc tầm mức của quân đội đòi hỏi những nỗ lực mới nhằm buộc người dân phải đóng góp và như thế phải có một cấu trúc hành chánh đủ rộng để duy trì chúng. Dĩ nhiên, sức ép tài chánh kéo dài thường tạo ra sự chống đối của người dân nhưng điều đó đồng thời có thể dẫn đưa đến sự gia tăng kiểm soát – và như vậy gia tăng quyền đối nội – của nhà nước đối với công dân của minh, nhằm tiến hành thêm những đổi mới quân sự và phát triển. Điều đó thực sự chứng tỏ rằng chiến tranh giúp đạt được hoặc giúp gia tăng quyền lãnh đạo, quyền bá chủ. Bởi vậy, hoạt động quân sự và sự hình thành nhà nước ở phương Tây đã trở thành một sự gắn bó không thể tháo gỡ: nhà nước làm chiến tranh nhưng chiến tranh cũng tạo ra nhà nước... bởi tiến hành chiến tranh theo kiểu phương Tây đồi hỏi một sự “sao chép” toàn bộ cấu trúc xã hội và kinh tế nhằm có khả năng đổi mới và đáp ứng nhanh chóng. “Phương Tây hóa chiến tranh” tùy thuộc vào khả năng của những chiến binh – vốn có truyền thống bảo thủ nhất – nhằm chấp nhân nhu cầu đổi mới và nhu cầu được hướng dẫn bởi những “nhà phát minh” từ một tầng lớp xã hội khác”. (G. Parker, Lịch sử chiến tranh, sđd, tr17).

[13]Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập V, NXB CTQG, 2014, tr397. Vai trò của lĩnh vực quân sự trong sự hình thành và phát triển của bản sắc quốc gia cũng như ý thức quốc gia là một thực tế không thể phủ nhận hoặc diễn giải sai lạc.

[14]Hệ giá trị về việc bảo vệ và xây dựng quốc gia vốn là phản ánh của thực tế về chiến tranh và chủ nghĩa yêu nước, và ta thấy rằng những điều đại loại như vậy đều được nêu cao và thể hiện trong tư tưởng quân sự. Nhìn một theo lối lịch sử văn minh, thì chiến tranh đã thiết lập nên không những xung đột, sự phát triển văn minh, mà còn hệ giá trị của chính bộ máy hành chính, điều này đúng như Will Durant nhận xét: “Chiến tranh đã tạo nên nhà thủ lãnh, Quốc vương và Quốc gia rồi ngược lại, nhà thủ lãnh, quốc vương và Quốc gia lại gây ra chiến tranh… Làm sao mà chiến tranh tạo nên Quốc gia được? Không phải vì loài người có khuynh hướng tự nhiên thích chiến tranh,… Không sao kể hết hậu quả của nó được. Nó đã tàn nhẫn loại trừ những dân tộc yếu ớt, bạc nhược; nó phát triển sự can đảm, tàn bạo, trí khôn và sự khéo léo của một số người trong một chúng tộc. Nó kích thích óc phát minh; có những đồ chế tạo để làm khí giới rồi được sửa đổi thành những dụng cụ hữu ích và nghệ thuật chiến tranh thành nghệ thuật hòa bình. (Có biết bao đường xe lửa xây cất vì một mục đích chiến lược, sau được dùng cho việc thương mại!) Sau cùng chiến tranh đã phân giải chế độ cộng sản và tình trạng vô chánh phủ thuở ban sơ và tập cho nhân loại có óc tổ chức, tinh thần kỷ luật; nó đưa tới chính sách dùng tù binh  làm nô lệ, nó khiến cho giai cấp dưới phải phục tùng giai cấp trên, và làm tăng quyền hành của chính phủ. Bảo tư sản là bà mẹ sinh ra Quốc gia, thì cũng có thế bảo cha Quốc gia là chiến tranh…” (Will Durant, Nguồn gốc văn minh, NXB Văn hóa thông tin, 2006, tr52-54).

[15]Cần phải làm rõ rằng, dựng nước đi đôi với giữ nước không có nghĩa là hoạt động dân sự đi đôi với hoạt động quân sự. Dựng nước Giữ nước là hai mặt của cùng một nôi dung thuộc về tư tưởng quân sự Việt Nam, và lịch sử dựng nước-giữ nước cho thấy ý nghĩa đặc biệt của tư tưởng quân sự hay lĩnh vực quân sự đối với sự hình thành và phát triển của quốc gia – dân tộc Việt Nam.Mặt khác, lại có thể thấy rằng, dựng và giữ nước là hai phương diện không thể tách rời của lịch sử quân sự Việt Nam.

[16]Đặc biệt với một dân tộc diễn ra những thời kì nội chiến lâu dài cũng như tiềm ẩn các xung đột phức tạp giữa địa phương-địa phương, địa phương-trung ương, tộc người-tộc người… như Việt Nam. Tác động của những cuộc nội chiến luôn là rất lớn: “Không có thứ chiến tranh nào khủng khiếp hơn nội chiến bợi nội chiến xé nát những cơ câu bền vững nhất của xã hội, chẻ vụn những định chế của nó và hủy hoại mạng lưới của những quan hệ tinh tế nối kết đời sống cộng đồng. Quốc gia bị chia rẽ; các cộng đồng vỡ vụn và gia đình tan rã. Nội chiến là chiến tranh đầy cuồng nộ với hậu quả được nâng lên thành nguyên nhân và những nguyên nhân được biến thành tiếng kêu gào kết đoản để anh dũng hi sinh hoặc tàn phá một cách man rợ. Các cuộc nội chiến tự nuôi sống chính chúng. Mỗi hành vi rửa hận trở thành một sự xúc phạm mới. Giận dữ leo thang và những nguyên tắc tiến hành chiến tranh một cách văn minh đã nhanh chóng bị phá vỡ. Sự tổn thất về nhân mạng và của cải khiến chóng mặt, nhưng sự mất mát tính đồng nhất của cộng đồng còn lớn lao hơn”. (Mark Kishlansky, Patrick Geary, P.O’Brien, Nền tảng văn minh phương Tây, sđd, tr436). Một công trình xuất sắc nghiên cứu nội chiến Việt Nam không thiểu thiếu để tìm hiểu về lịch sử Việt Nam là Tạ Chí Đại  Trường, Việt Nam thời Tây Sơn, Lịch sử nội chiến 1771-1802, NXB Tri thức 2012.

[17]De Gaulle cũng chỉ rõ rằng đa phần người dân đều chán ghét quân dịch, cùng cách đó xã hội cho rằng lĩnh vực quân sự luôn tiêu tốn quá nhiều ngân sách: “Bao lâu đất nước không bị đe dọa trực tiếp thì công luận vẫn chán ghét những bổn phận liên quan đến quân đội. Sự tuyển mộ lính giống như một thứ cưỡng bách thân thể: dù là gọi tòng quân theo tuổi hay bắt lính, thì dường như điều này chưa bao giờ hết bị căm ghét. Người ta thường coi việc dành nhiều tiền bạc như vậy cho những lực lượng không phải là chiến đấu là một sự lãng phí”. (Lưỡi gươm, Bàn về nghệ thuật chỉ huy, sđd, tr183).

[18]Nhật là một ví dụ tiêu biểu cho truyền thống này: “Quân đội Nhật là quân đội nhân dân. Những kẻ “trốn tránh” bị gọi là “những phần tử phản dân”. Quân đội nhân dân, nhưng không phải là “đội quân công nông” như ở Liên Xô mà là đội quân nông dân. Phần lớn binh lính và sĩ quan lục quân (cả cấp cao lẫn cấp thấp) đều là con em nông dân. Giới sĩ quan cho rằng thanh niên nông thôn chính là những người lính mạnh khỏe, dễ bảo, ít nói. Tóm lại, là tuyệt vời. Người Nhật hoàn toàn đồng ý với ông Yokoi Toshioshi (1860-1914), Giáo sư trường Đại học Nông nghiệp Tokyo, khi ông này cho rằng “con đường của người lính” và “con đường của người nông dân” cũng chẳng khác nhau là mấy: hôm nay là nông dân, ngày mai là lính; hôm nay là lính, mai lại là nông dân. Thực tế đúng là như thế. Nghĩa là các vị chỉ huy trong quân đội cũng suy tư về cuộc đời bằng những phạm trù trong quan niệm truyền thống của người nông dân. Trở về làng sau khi giải ngũ, họ sẽ tham gia vào Lực lượng trù bị hùng mạnh (thành lập năm 1910) và trở thành người cổ động cho những tư tưởng của quân đội…Rất khó cắt giảm quân đội Nhật. Dân cư đông đúc ở Nhật Bản bảo đảm cho sự tồn tại một đạo quân hùng hậu, quân đội sẽ thu hút tất cả những người khó tìm được chỗ đứng trong đời sống dân sự. Con trai cả được quyền thừa kế mảnh đất của gia đình, nhưng mảnh đất đó không thể nuôi được tất cả mọi thành viên. Nhiều người con thứ ở lại quê nhà và làm thuê cho anh cả suốt đời nhưng vẫn không có điều kiện làm nhà và xây dựng gia đình riêng. Những người khác thì ra thành phố hay vào quân đội. Tiễn đưa tân binh trở thành ngày hội. Còn một lí do nữa là ở trong quân đội ăn không mất tiền. Đối với làng quê Nhật nghèo khó và đông dân thì đây là một lí do quan trọng để giữ cho bằng được một đội quân đông người. Quân đội được coi là người “cha nuôi”…Tòng quân được coi là nghĩa vụ vinh quang. Nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc và nhà vua. Đối với người lính thì đấy là giai đoạn trưởng thành, trở thành người đàn ông “thực thụ” – mạnh mẽ, dũng cảm, biết vâng lời và đủ sức vượt qua khó khăn. Như thế nghĩa là, quá trình phục vụ trong quân đội được coi như một nghi lễ - một trong những nghi lễ quan trọng nhất của đời người. Trong cuốn Sổ tay dành cho binh sĩ, một tân binh gương mẫu mô tả ngày đầu tiên trong đời người lính như sau: Sau khi đến đơn vị “tôi đi tắm rửa sạch mọi vết bẩn của thế gian, rồi tôi thay bộ quần áo mới và đọc lời thề... Con người cũ của tôi không còn tồn tại nữa, tôi chỉ còn một ý nghĩ trong đầu là công việc của người lính, tôi đã nhận thức được sự thật vĩ đại trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc”. (A.N. Mesheriakov, Là người Nhật – Lịch sử, Thi ca và Kịch bản học quá trình hình thành chế độ toàn trị, NXB Tri thức, 2014, tr169-170).

[19]Cần nhấn mạnh điều này để tránh xa mọi tư tưởng rằng tăng cường quân dịch là một lối dẫn đến xã hội thời thiến và những dạng thức chủ nghĩa quân phiệt, mà những hậu quả của nó bao giờ cũng là sự diệt vong của triều đại, thể chế, thậm chí một nền văn minh, như A.Toynbee đã cảnh báo về chủ nghĩa quân phiệt trong Nghiên cứu lịch sử nhân loại (NXB VHTT, 2008): “Những kẻ theo chủ nghĩa quân phiệt quá tự tin vào khả năng tự bảo vệ mình trong hệ thống xã hội – hoặc phản xã hội – trong đó, mọi cuộc tranh chấp đều được dàn xếp bằng gươm đao tới mức lấy sức mạnh làm luật pháp. Theo hắn, chiến thắng là bằng chứng cuối cùng về quyền năng vô hạn của gươm đao. Nhưng hóa ra trong chương tiếp theo của câu chuyện, hắn lại bị một người theo chủ nghĩa quân phiệt mạnh hơn mình đánh bại. Hắn đã chứng minh một luận điểm mà hắn chưa từng biết đến: “kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết dưới gươm đao” (tr357), và “một kẻ sử dụng bạo lực không thể vừa chân thành ăn năn vừa hưởng lợi lâu dài từ những hành vi bạo lực của mình.Những vị cứu tinh mang gươm thời xưa phải là các bậc thủ lĩnh hoặc các thành viên trong hoàng tộc đã nỗ lực thành lập, hoặc đã thành lập thành công, hoặc đã khôi phục thành công các chính quyền trung ương; và mặc dù sự tiến triển từ thời kỳ rối ren sang chính quyền trung ương có khuynh hướng đem lại lòng tin lớn lao ngay tức khắc khiến những nhà sáng lập các chính quyền này thường được tôn thờ như thánh thần, song các chính quyền trung ương luôn luôn rất phù du và nếu, do một kỳ tích nào đó, chúng bướng bỉnh sống vượt quá thời hạn thông thường, thì chúng sẽ phải trả giá cho tuổi thọ cao bất thường này bằng việc thoái hóa thành các tệ nạn xã hội độc hại theo kiểu của nó chẳng kém gì thời kỳ rối ren tiền đề của chúng hoặc giai đoạn quá độ theo sau sự sụp đổ của chúng” (tr544).

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578751

Hôm nay

2276

Hôm qua

2293

Tuần này

21950

Tháng này

225808

Tháng qua

130677

Tất cả

114578751