Văn học Việt Nam cổ điển có nhiều tác phẩm tuyệt đỉnh cũng đều là văn thơ đau. Đó là thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đặng Trân Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Đình Chiểu. Thơ cười như Nguyễn Khuyễn, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…cũng đều do đau đớn với đời mà sinh ra. Không có ai vui, phấn khởi mà làm nên thơ văn vĩ đại, bất hủ. Bảo Ninh là người lính chiến trường, chứng kiến biết bao đồng đội đã hi sinh, dồn nén nỗi đau mà thốt ra tự nhiên thành Nỗi buồn chiến tranh. Nguyễn Huy Thiệp phải đau đớn với đời mới có tiếng cười cay nghiệt. Văn chương đau ở ta vốn không nhiều, mà còn chưa được đánh giá đúng mức, nếu không muốn nói là còn định kiến và kì thị. Phải chăng nói đau thì thiếu lạc quan, thiếu tin tưởng, một tiêu chí của văn chương cách mạng? Niềm tin con người gắn với sự thật. Chính do nói nhiều điều không thật mà văn học một thời đã mất đi niềm yêu mến. Văn chương nói thật thì mới có niềm tin yêu lâu bền. Mà có tin thật thì mới có động lực trong cuộc sống. Không thể xây dựng niềm tin bằng ảo ảnh hoặc bằng che giấu.
Đã đến lúc chúng ta nên nhìn lại quan niệm văn học ta. Cuộc sống đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiêng hào hùng, tiếng phấn khởi. Tôi nhớ nhà văn Ngô Thảo có lần lấy câu tục ngữ Nga, “Một nửa cái bánh mì là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật”. Cũng vậy văn chương mà chỉ có tiếng khen, tiếng vui, không có tiếng oán thán, đớn đau thì cũng không phải là sự thật. Hàng ngày xem báo chí trong nước, báo giấy và báo mạng, xem tin vui nhiều hay tin buồn, tin đau đớn nhiều? Tin thành công nhiều hay tin thất bại nhiều? Tin lãng phí, thất thoát, nợ xấu nhiều hay tin chống được tham nhũng nhiều? Tin bị lấn chiếm nhiều hay tin giành lại lãnh thổ nhiều? Vậy mà văn chương ít có tiếng oán thì mới lạ. Phải nói rằng báo chí chúng ta thật giỏi. Họ nhiều khi phanh phui được sự thật, hé lộ những sai sót chết người. Nhân dân sẽ mang ơn họ. Nhưng còn văn học thì sao? Đã có bao nhiêu tác phẩm nói được nối đau của người dân, của dân tộc? Đã có bao nhiêu tác phẩm nêu lời ai oán? Có bao nhiêu tác phẩm khóc cho các số phận bất công? Có tác phẩm nào kêu cho những mảnh đời tan vỡ? Tôi không có điều kiện đọc nhiều, không tự trả lời được. Nhưng theo quan niệm chung, văn học thiên về nêu gương, nêu người tốt việc tốt, nêu gương người tử tế khó mà xuất phát từ nỗi đau. Ta đã có tác phẩm nào như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn? Có tác phẩm nào như Cung oán ngâm khúc? Có tác phẩm nào như Ai tư vãn? Chẳng nhẽ nhà văn Việt Nam hiện thời không biết đau, không hiểu oán là thế nào? Tôi hoàn toàn không tin điều đó. Vậy có gì vướng mắc phải gỡ cho ra. Tính từ thời đổi mới đã ba mươi năm qua rồi mà tác phẩm lớn được coi là chưa có, các tác phẩm cứ bằng bằng như đồi thấp, không có đỉnh. Lại có ý kiến cho rằng nhà văn ta thiếu tài. Tôi chưa bao giờ cho là như thế. Hãy nhìn lại xem, nhà văn ta đã sống sâu, sống thật với nỗi đau của nhân dân ta trong suốt mấy thế kỉ qua hay chưa? Đã thấy nỗi đau đứt ruột về nỗi tthống khổ của con người hay chưa? Làm gì có con trai có tài và con trai bất tài. Mọi con trai đau đớn đều cho ngọc. Cái tài tự nó chưa là gì cả, nó chỉ có nghĩa khi đem dùng vào việc gì. Rất có thể ta đã phí tài vào việc miêu tả những cái không quan trọng, dùng vào nơi không đúng chỗ. Hãy bớt đi lời ngợi ca, bớt đi lời khen ngợi, hãy sống thật sự với nỗi đau của lòng mình, và để nó toát ra tự nhiên dưới đầu ngọn bút. Khi ấy ta sẽ thấy thiên tài xuất hiện. Hãy làm người bình thường, khi đau thì kêu. Xưa ta chê nhà thơ lãng mạn không đau mà rên, hàm ý là giả đối. Nhưng nếu đau thật mà không kêu thì có giả dối hay không? Nay mỗi người hãy tự hỏi mình có đau hay không? Nếu anh chị có đau thật, đau sâu, đau lớn, đau không thể chịu nỗi nữa, không thể ngồi yên, đau như chưa bao giờ đau như thế, tôi tin cậy hoàn toàn ở anh chị, tin hoàn toàn vào Văn học Việt Nam.