Những góc nhìn Văn hoá

Chữ "Dân" trong di sản Hồ Chí Minh

Có nhiều cách hiểu và ứng xử với chữ “dân”. Chữ DÂN trong di sản Hồ Chí Minh hoàn toàn không phải theo chủ nghĩa dân túy; cũng không giống Khổng giáo. Quan điểm Hồ Chí Minh về dân thể hiện bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn, mục đích vì dân chúng và động lực do dân chúng

Lãnh tụ từ nhân dân, sống trong lòng dân, trở về với nhân dân

Cả cuộc đời Bác cống hiến cho dân, cho nước, cho Tổ quốc chỉ với một ham muốn duy nhất, tột bậc, đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Sự cống hiến của Bác là cực đại, vô cùng to lớn, nhưng với bản thân mình Người không đòi hỏi gì, không có một chút gì riêng tư cho mình. Sau khi hoàn thành có nhiệm vụ nhân dân và Tổ quốc giao phó, trên ngực áo không có một tấm huân chương, Hồ Chí Minh chỉ muốn về với dân, làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, câu cá trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi.

Trước khi viết Di chúc, Bác về Chí Linh, Hải Dương đọc Nguyễn Trãi, lục tìm trong truyền thống dân tộc những giá trị vĩnh hằng, mà một trong những giá trị đó là DÂN: “Chở thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật thuyền mới biết dân như nước”. Khi viết tài liệu “Tuyệt đối bí mật”, Hồ Chí Minh nói rõ ý định của mình sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, sẽ đi thăm đồng bào, chiến sĩ cả nước, bầu bạn khắp năm châu. Di chúc không bàn về cái chết nhưng Người cũng ý thức rất rõ rằng “người thọ 70 xưa nay hiếm”. Và Người cũng nói đến việc qua đời, tro chia và bỏ vào ba hộp sành, mỗi miền chọn một quả đồi thoáng mát để chôn cất. Quy luật sinh, lão, bệnh, tử là không thể khác được, đúng với mọi người. Biết rõ điều đó, Hồ Chí Minh muốn rằng sau khi qua đời vẫn được trở về với dân, sống trong lòng dân.

Sinh ra từ nhân dân, lớn lên cùng nhân dân, được dân chúng chở che đùm bọc, Hồ Chí Minh hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người nói và làm theo quan điểm “từ Chủ tịch nước đến Bộ trưởng, thứ trưởng đều là đày tớ trung thành của nhân dân”. Trong giờ phút lâm chung, Người lại muốn về với dân, sống trong lòng dân. Người muốn uống một ngụm nước dừa để mang theo tình cảm của đồng bào miền Nam về nơi chín suối. Người muốn nghe một câu hò xứ Huế, nơi đầy ắp kỷ niệm tuổi trẻ. Người muốn nghe một câu hò xứ Nghệ, nơi chôn rau cắt rốn. Người muốn nghe một đôi làn quan họ trước khi về với thế giới người hiền.

Được lòng dân là có tất cả. Mất lòng dân là mất hết

Chữ DÂN là của báu trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trước hết Người cho ta hiểu một nguyên lý giản đơn: có dân là có có tất cả. Mất dân là mất hết. Triết lý đạo Khổng, triết lý phương Tây đều nói đến dân, nhưng chỉ đến Hồ Chí Minh thì chữ DÂN mới được hiểu và dùng đúng nghĩa của từ này. Theo Người, DÂN là một ngôi lớn của văn hóa phương Đông được sánh cùng TRỜI và ĐẤT. Di sản Hồ Chí Minh cho thấy không có gì quý bằng nhân dân; không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân; không có gì chống lại được dân chúng; không có gì phá vỡ được bức tường đồng của dân chúng; không ai thông minh, trí tuệ, sáng tạo bằng dân chúng; không ai tốt như dân chúng; không ai hăng hái như dân chúng; không ai dũng cảm bằng dân chúng; không ai nhìn thấu bằng dân chúng; không ai nghe nhiều như dân chúng; của cải trong dân chúng; quyền lực thuộc dân chúng. Bác nói rằng: không có nhân dân thì không có Bác. Câu nói ngắn gọn, đầy đủ, chính xác. Dân chúng có một vũ khí vô địch, đó là lòng tin. Nói “có dân” hay “mất dân” là nói đến LÒNG TIN của dân. Nuôi dưỡng và giữ được lòng tin của dân, chúng ta sẽ có tất cả, sẽ thành công. Đánh mất lòng tin của dân chúng là mất tất cả, sẽ thất bại.

79 mùa xuân của Bác là bảy chín năm Người nuôi dưỡng, đắp bồi, làm việc, cống hiến bằng lòng tin của dân chúng. Bác tin dân, trọng dân, quý dân, nên dân tin Bác, yêu Bác. Di sản Hồ Chí Minh cho thấy dân sinh thành ra Đảng, đồng hành cùng Đảng; Đảng sống trong lòng dân, được dân nuôi nấng, che chở, đùm bọc. Đảng từng ngày lớn lên nhờ được uống nguồn sữa từ dân tộc. Cách mạng, kháng chiến thành công là nhờ sức mạnh và lòng tin của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chuyện kể rằng cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam mới Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Có cán bộ cao cấp hỏi Bác có điều gì làm Bác lo ngại không? Người trả lời một cách thân tình, ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát: “Nhìn chung thì không có điều gì đáng lo ngại vì ta có dân, chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta là Đảng cầm quyền. Lo nhất là các chú làm bậy, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, nhũng lạm, lãng phí để dân mất lòng tin. Mà mất lòng tin của dân là mất tất cả!”.

Những ngày “ngàn cân treo sợi tóc” sau Cách mạng Tháng Tám, khi kẻ thù quyết tiêu diệt cộng sản, đánh vào Việt Minh, Bác chủ trương lập Chính phủ liên hiệp, có những Bộ mà người đứng đầu không đảng phái. Người không muốn “Chính phủ của các chú đỏ quá!”. Có những ý kiến băn khoăn, lo ngại liệu những nhân sĩ trí thức yêu nước có cộng tác với Chính phủ không? Với lòng tin vững chắc vào nhân dân, Người nói “nếu chúng ta lấy lòng “chí công vô tư” mà làm việc, luôn luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết, thì chắc chắn người ta sẽ vui vẻ nhận lời, sẵn sàng cộng tác với Việt Minh”. Diễn trình của cách mạng Việt Nam sau mùa Thu Tháng Tám năm 1945 hoàn toàn đúng như những điều tiên tri, tiên lượng của Bác.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. Bộ đội, dân công “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”. Khơi nguồn sức mạnh từ dân chúng, Bác nói “người trước súng sau”. Có dân ủng hộ, giúp sức, việc khó mấy cũng làm được; không có dân ủng hộ, việc dễ mấy cũng khó hoàn thành. Bác đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại lời của dân: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần, dân liệu cũng xong”. Kháng chiến, kiến quốc thành công là nhờ dân chúng. Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, chiến tranh nhân dân của tất cả đàn ông, đàn bà, người già người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, giàu nghèo quý tiện. Đó là sự quật khởi, vùng dậy của lòng yêu nước, của tinh thần dân tộc, của ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” của hơn ba mươi triệu con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên.

Kể lại một câu chuyện thời chống Pháp để thấy bài học vô cùng sâu sắc cho hôm nay. Đó là câu chuyện về vụ án của Đại tá Trần Dụ Châu. Khi bộ đội và nhân dân đang dốc lòng, dốc sức, dốc của cho cuộc kháng chiến thì Cục trưởng Cục quân nhu, Đại tá Trần Dụ Châu lại bớt xén của bộ đội và nhân dân để phục vụ cho cuộc sống ăn chơi phè phỡn, trác táng của cá nhân. Với tội danh của Trần Dụ Châu, toà phán quyết tử hình. Trần Dụ Châu xin Chủ tịch nước xem xét, giảm án. Suy nghĩ nhiều ngày đêm, cuối cùng Bác vẫn giữ nguyên án tử hình như tòa đã quyết. Lý do Bác y án là vì “con sâu làm rầu nồi canh”; hành động của một cán bộ cao cấp như Trần Dụ Châu đã làm xói mòn lòng lòng tin của đảng viên, cán bộ, bộ đội và nhân dân vào Đảng, nếu không xử nghiêm thì ảnh hưởng rất lớn đến cuộc kháng chiến trong giai đoạn cam go, quyết liệt. Vụ việc kết thúc, Bác yêu cầu phải nói rõ trên báo chí để cho nhân dân và bè bạn quốc tế hiểu rõ Đảng ta là một Đảng cầm quyền quang minh, chính đại, vì dân vì nước, không bao giờ dung túng, bao che cho những hành động tham ô, tham nhũng, ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Bài học quý giá, sâu sắc cho hôm nay chính là thái độ của Đảng và Nhà nước với cả “bầy sâu”, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hóa, biến chất, “ăn không từ cái gì của dân, bán cũng không từ cái gì”, đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân,  của đảng viên, cán bộ vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nói rõ “đất nước không có kỷ cương thì sẽ loạn”. Chúng ta phải thấm nhuần, thấu triệt lời dạy của Lênin mà Bác nhắc lại năm 1952 rằng “Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng, nhẹ nhàng như vậy, đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên cộng sản, cho những người cách mạng. Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng”. Phải chặn đứng hành động của nhóm lợi ích đang tìm cách chăng lưới, bủa vậy, dàn trận theo kiểu “liên ngành” để gây khó khăn cho quyết tâm chống tham nhũng của Đảng, Chính phủ và nhân dân. Muốn vậy, cách làm tốt nhất, có hiệu quả nhất theo lời dạy của Bác và thực tiễn cách mạng là phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó biện pháp hay nhất, có hiệu quả nhất là dựa vào dân. Hồ Chí Minh dạy rằng “Đảng phải tin dân và dựa vào dân chúng để kiểm soát quyền lực. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. Phải dựa vào dân chúng, tạo nên một làn sóng gớm ghét, khinh bỉ, phỉ nhổ bọn người tham nhũng, nhóm lợi ích. Dựa vào dân chúng mà giám sát công việc của Chính phủ”.

Với bọn người tham nhũng, vô trách nhiệm, vô cảm trước đời sống của dân chúng thì rất khó và không thể nói chuyện tự phê bình và phê bình. Tham nhũng là biểu hiện của một loại giặc - giặc nội xâm. Loại giặc này nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm vì nó không có hình thù, không có gươm súng, nhưng phá ta từ trong phá ra, là đồng minh, chỗ dựa vững chắc của giặc bên ngoài. “Diễn biến hòa bình” chỉ có thể sống được là nhờ dựa vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì tham nhũng là giặc nên chúng ta phải dùng những biện pháp mạnh để đối xử với giặc, biện pháp tốt nhất, hiệu quả nhất là sức mạnh của dân chúng, của lòng dân.

Chúng ta đang mắc những căn bệnh trầm kha mà không biết, đó là chỉ thấy Đảng mà không thấy dân; mọi khâu của công tác cán bộ và giám sát công việc của Chính phủ không có sự tham gia của dân chúng; nâng cao dân trí mà không nâng cao đảng trí; dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, còn cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đứng đầu thì không học; chú trọng quy trình, quy hoạch mà thiếu quy chuẩn; trách nhiệm tập thể, thành tích cá nhân, có vấn đề xảy ra thì lẩn vào tập thể. Khi phát hiện ra những sai phạm, mới giải quyết ngọn mà chưa xử lý gốc; mới đụng đến cá nhân mà không thể phanh phui đường dây, hệ thống.

Vấn đề là phải dựa vào trí tuệ, lòng yêu nước, bản chất tốt đẹp của dân chúng để ngăn chặn từ đầu, từ gốc nạn tham nhũng quyền lực, bắt đầu từ khâu công tác cán bộ. Nếu chúng ta không dựa vào dân chúng mà vẫn làm đúng quy trình như cách làm hiện nay, thì dù có kiên quyết, kiên trì đến mấy; dù có quyết tâm xây dựng một Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động bao nhiêu; xây dựng một Quốc hội đoàn kết, hành động, thì giỏi lắm cũng chỉ chặt được vài cái ngọn, còn gốc thì vẫn nguyên, mà gốc còn thì ngọn vẫn tiếp tục mọc ra. Ngọn là những con người phạm tội cụ thể như Trịnh Xuân Thanh, Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang. Nếu chỉ diệt con sâu đó, chặt cái ngọn đó mà không diệt gốc đẻ ra nó thì nhiều con sâu khác lại được đẻ ra. Ai cũng biết một mình Trịnh Xuân Thanh không thể làm thất thoát hơn 3 ngàn tỷ đồng, không thể tự luân chuyển (chỉ có thể tự chuyển hóa, tự chuyển biến), không thể tự có biển số xanh… Formosa là gì? Là ai? Nhà 8B Lê Trực, Hà Nội là ai? Là cái gì? Cần phải đặt ra và trả lời chính xác được những câu hỏi đại loại như vậy, rồi xử lý dứt điểm, không bao che, không vùng cấm, không sợ đụng chạm, không sợ động rừng, không sợ vỡ bình, thì may mới có hy vọng tìm ra lối thoát. Những đường dây, hệ thống tổ chức đằng sau và liên quan đến những con người và sự việc đó, đặc biệt là những người ký quyết định chính là gốc. Phải tìm cho được những cái gốc đó và phải “đào tận gốc, trốc tận rễ” thì may ra mới xoay chuyển được tình thế, lấy lại được lòng tin của dân với Đảng, mới giữ được chế độ.

Chúng ta đang quyết tâm chữa bệnh, nhưng thiếu trí tuệ, bản lĩnh và phương thức, không dựa vào dân để chữa từ gốc, chữa tận gốc nên bệnh không khỏi. Những con bệnh đang nhờn thuốc. Nhóm lợi ích và cơ chế đang tạo ra những tiền lệ xấu để bịt tất cả những con đường đi đến xóa tận gốc tham nhũng. Phải trở lại với nguyên lý của cuộc sống mà Hồ Chí Minh đã tổng kết, luôn luôn nhấn mạnh và thực thi trong thực tiễn cách mạng. Theo Người, xưa và nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có được dân chúng ủng hộ, giúp sức, việc gì cũng làm được; không được lòng dân, việc dễ mấy cũng thất bại.

Đảng, Nhà nước, những người có trách nhiệm cao nhất trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, trong hệ thống chính trị phải lắng nghe lòng dân, nghe những tiếng nói tâm huyết của dân, của báo chí, của các nhà khoa học về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là những vụ việc nóng như công tác cán bộ. Bác dạy rằng “phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa dân chúng và cán bộ tốt”. Chúng ta phải thấm sâu lời dạy của Bác “nếu dân chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”.

Ba mươi năm đổi mới, hàng trăm vụ việc xấu bị phát hiện, chặn đứng đều nhờ tiếng nói tâm huyết, có trách nhiệm của dân chúng. Trên 80% vụ việc tiêu cực được phanh phui, ngăn chặn, đẩy lùi, đưa ra ánh sáng công lý là nhờ tiếng nói của nhân dân, các nhà báo, các nhà khoa học, những cán bộ, đảng viên tốt, có tâm huyết, có trách nhiệm với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trong khi đó, hầu như chưa có một trường hợp tiêu cực, tham nhũng, lãng phí nào được phát hiện từ các cuộc sinh hoạt đảng. Đây là một thực tế cần được giải mã, nghiên cứu thấu đáo để thấy sức mạnh của trí dân, lòng dân và sự hạn chế, tê liệt của không ít tổ chức đảng và tổ chức công quyền. Nghiên cứu, khám phá dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh để lấy lại lòng dân, củng cố niềm tin của dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ như Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh, khẳng định lại trong các nghị quyết về dân vận, về xây dựng Đảng. Đừng để dân quay lưng lại với Đảng, Chính phủ và chế độ. Nếu Đảng không tin dân, không ở trong lòng dân, không dựa chắc vào dân để đổi mới công tác tổ chức, cán bộ và sửa đổi những gì chưa phù hợp trong nghị quyết như lời dạy của Bác thì chẳng khác gì chúng ta đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại. Hồ Chí Minh chỉ rõ “dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta”. Vì vậy, nếu chúng ta quan liêu, xa dân, không hiểu dân, không học dân, không hỏi dân, nghị quyết, chính sách không xuất phát từ nguyện vọng của dân và thuận lòng dân; đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình, bắt dân chúng theo; làm công tác cán bộ đúng quy trình mà không đúng tiêu chuẩn, thì về chính trị là thất bại. Chính trị thất bại tức là mất hết lòng dân./.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578850

Hôm nay

257

Hôm qua

2318

Tuần này

22049

Tháng này

225907

Tháng qua

130677

Tất cả

114578850