1. Minh Mệnh và lịch sử đánh giá Minh Mênh trong ứng xử với Nguyễn Công Trứ
Theo Việt Nam sử lược Trần Trọng Kim, “Tháng giêng năm Canh thìn (1820) hoàng thái tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.
Vua Tháng tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu đọc và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành”[3]
Trước nay, trong mối quan hệ giữa Minh Mệnh và Nguyễn Công Trứ, có xu hướng chung đánh giá Minh Mệnh là ông vua chuyên chế hà khắc, xuống tay nhiều tình huống khá nặng với Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, cũng có cái nhìn mang tính trung dung hơn và khách quan hơn. Trong số nhiều đánh giá về mối quan hệ này, điển hình cho cái nhìn thứ nhất là Phạm Thế Ngũ và nhà Nghiên cứu Lê Thước. Điển hình cho cái nhìn thứ hai là tác giả Việt Nam sử lược,Trần Trọng Kim.
Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 2, phần về Nguyễn Công Trứ, Phạm Thế Ngũ nhật xét về quan hệ Minh Mệnh với Nguyễn Công Trứ như sau: “Tư cách của một ông vua biết thủ đoạn dùng người, đánh, vuốt, thăng, giáng, lung lạc tinh thần người ta bằng đủ phương cách. Đối với Nguyễn Công Trứ, khi tín cẩn trọng dụng, cho tiền, cho quà, săn sóc, rỉ tai, khi nghiêm khắc trừng phạt, truất giáng đáo để”.[4]
Nhà Nghiên cứu Lê Thước cũng có nhận xét tương tự: “Tuy nhiên ấy là một cái thủ đoạn điên đảo hào kiệt, chứ kì thực thì nhà vua thấy cụ có tài cao đức trọng, ai cũng kính phục, không muốn để cái thanh thế cụ lớn lên quá, sợ khó giá ngự về sau; vì thế cho nên đã lấy ân mà cất lên, lại phải dùng oai mà ức xuống. Nhưng ân thì thường chỉ là ân mọn, mà oai thì toàn là oai lớn”.[5]
Nhà nghiên cứu Lê Thước còn kể: “Tháng 10 năm Minh Mệnh 7, bổ tham hiệp Thanh Hóa. Đi đến Hải Lăng (Quảng Trị) thì bị bệnh. Vua được tin xuống chỉ rằng: “Nay nghe Nguyễn Công Trứ đi đường chẳng may bị bệnh, chẳng hay đã lành chưa, lòng trẫm luống những bất an. Đặc phái một tên thị vệ đem theo viên ngự y, lập tức bắt trảm đi tới nơi điều trị, vụ được lành. Còn Nguyễn Công Trứ thì cứ an tâm mà uống thuốc bất kỳ một hai tháng, khi nào trong mình được thập phần khang kiện mới được ra đi chớ nên kíp vội, giờ mùa đông lạnh lẽo, nếu đau yếu lại, ấy là phụ các lòng quyến cố của Trẫm. Khâm thử”[6]. Theo Phạm Thế Ngũ, nó là thủ đoạn rỉ tai mà thôi.
Người có đánh giá tương đối khách quan hơn cả là Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược ông viết: “Vua Thánh Tổ là một ông vua chuyên chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai lầm và có nhiều điều tàn ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong lo sửa sang mọi việc, làm thành ra nền nếp chỉnh tề, ngoài , đánh Xiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.
Vậy cứ bình tĩnh mà xét, thì dẫu ngài không được là ông anh quân nữa thì cũng không phải là ông vua tầm thường; cứ xem công việc của ngài làm thì hiểu rõ”.[7]
Như vậy, cả ba nhà nghiên cứu đều nhận xét Minh Mệnh là ông vua chuyên chế hà khắc, đối xử với Nguyễn Công Trứ ân mọn oai lớn, sợ Nguyễn Công Trứ uy danh vang dội nên một mặt bổ dùng nhưng một mặt phải ra oai để kìm kẹp. Nói chung, tất cả những nhận xét trên đây đều không sai nhưng có lẽ nó chưa đủ. Tôi rất thích một nhận xét của Trần Trọng Kim, “dẫu ngài không được là ông anh quân nữa thì cũng không phải là ông vua tầm thường”. Chúng tôi cho rằng, vượt lên trên cả hà khắc và tầm vóc, Minh Mệnh là một ông vuatrác dị một từ mà ông rất thích dùng để nói về những người đặc biệt xuất chúng. Chúng tôi sẽ chứng minh tính chất trác dị của Minh Mệnh qua việc ứng xử với Nguyễn Công Trứ. Tức là chúng tôi sẽ không đọc Nguyễn Công Trứ và Minh Mệnh như các tiền bối đã làm, chúng tôi thử áp dụng những tiêu chí của ông vua trác dị (đặc biệt xuất sắc, lạ thường) để soi chiếu vào ứng xử của Minh Mệnh với Nguyễn Công Trứ và cũng nhìn ngược lại Nguyễn Công Trứ đã hô ứng với ông vua trác dị này như thế nào. Sự hô ứng của ông vua trác dị và một phong lưu danh sĩ trác dị, kết thành cặp đôi trác dị lừng danh trong lịch sử. Và chính tính chất trác dị của Minh Mệnh, đặc biệt là trác dị trong việc tìm kiếm, đào tạo và tưởng thưởng cho người trác dị, Minh Mệnh đã đóng vai trò là người mở đường chongườikiểu Trứ xuất hiện và phát tiết thời Nguyễn, mà ở đó Nguyễn Công Trứ là trường hợp tiêu biểu nhất.
2. Tư tưởng của Minh Mệnh về khoa cử, về tìm kiếm người trác dị và chế độ tưởng thưởng người trác dị và đặc biệt là tư tưởng về việc tìm kiếm, đào tạo, phát hiện người tài bằng con đường phi khoa cử - cơ chế mở đường người trác dị, những cá tính xuất hiện, đăng đàn và phát tiết.
Chính cái nhìn khác biệt của Minh Mệnh là cơ sở để cho những nhóm người được tuyển chọn chính thống hoặc cả nhóm phi chính thống có cơ hội được xuất hiện và phát triển. Những người có cá tính, khát vọng tự do cá nhân kiểu Trứ có cơ hội phát triển và thăng hoa. Theo chúng tôi, nó là yếu tố quan trọng nhất giúp Minh Mệnh có thể tuyển chọn được nhiều cá tính độc đáo. Cùng với đó là một cơ chế tưởng thưởng, khuyến khích đặc biệt, cả những ứng xử đặc biệt và đầy ngẫu hứng xuất hiện. Trong đó, sử dụng, tưởng thưởng và cả giáng cách với Nguyễn Công Trứ là sự ảnh xạ rõ nét nhất của tư tưởng khác thường của Minh Mệnh.
Một cái nhìn sắc sảo vào hạn chế của hệ thống khoa cử
Là người mang trọng trách kiện toàn thiết chế trong nước và mở rộng bờ cõi, Minh Mệnh quan tâm đặc biệt đến khía cạnh làm sao và bằng cách nào tìm kiếm được người tài năng, đặc biệt là tìm kiếm được người trác dị. Từ cái nhìn như vậy, ông đã nhìn trúng hạn chế cốt tử của hệ thống khoa cử: không những không tìm kiếm được người tài mà còn làm cho nhân tài mỗi ngày kém đi: “Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp tự đó, khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày mỗi kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại”.[8]
Có thể Minh Mệnh không thật thiện cảm với khoa cử và có thể hiểu ông cũng không có cái nhìn ưu ái với những người thành đạt từ khoa cử. Vậy, tập tục đã quen, sau dần đổi lại, Minh Mệnh đã hướng trọng tâm tìm kiếm người tài của mình theo một hướng phi chính thống, tìm kiếm người tài không thông qua con đường khoa cử và đây là trọng tâm trong tìm kiếm người tài của ông.Phải chăng như chính Mênh Mệnh nói: Quốc gia ta xây dựng nền tảng ở Phương Nam[9] là cội nguồn của một sự thoát ra khỏi văn chương khoa cử trong đào tạo người tài như vậy.
Tìm kiếm người tài phi khoa cử
Lật giở Minh Mệnh chính yếu thiên cầu hiền và kiến quan, chúng ta sẽ bắt gặp dày đặc những chỉ dụ của Minh Mệnh về cách thức tìm kiếm người không qua con đường khoa cử. Năm Minh Mệnh thứ mười sáu, quyển 4, Minh Mệnh chính yếu, “Vua xuống dụ rằng:“Cầu cho nước trị bình thì lấy nhân tài làm trước tiên. Nay trẫm ra lệnh phải đề cử người mình biết, là muốn mở rộng đường lối cử người hiền tài. Nếu biết đích người ấy quả thực có tiếng hiền tài, có chính trị giỏi, hoặc là nhân phẩm ngay thẳng đứng đắn, là có thể cho ra ứng cử, có phải trẫm bắt phải quen biết mật thiết mới am hiểu cái tài cái nết của con người đâu, sao mà trịnh trọng quá như vậy. Phương chi quan có kẻ cao người thấp, mà phận sự làm bầy tôi như nhau, hà tất phải chậm chạp đề cử sau người ta. Nay chuẩn cho phải lựa chọn mà cử cho nhanh, hoặc hai ba người cử một người cũng được.”[10]
Rõ ràng, thái độ ông rất quyết liệt và yêu cầu phải làm gấp. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn luôn đau đáu, lo lắng những người tài đi ở ẩn không chịu ra giúp triều đình. Minh Mệnh năm thứ mười sau, “vua xuống dụ cho thị thần rằng: “Trong nước có người hiền tại thì công trị bình được rực rỡ, cũng như núi sông có ngọc châu thì mới có ánh sáng, nhưng người hiền tài sinh ra chỉ muốn gặp được vua. Có kẻ dấu tên ẩn kín là tự vua không biết dùng thôi. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, hạ chiếu cầu hiền đến hai ba lần, tất là kẻ sĩ có tài đức không còn đi ẩn nữa, nếu được người hiền tài mà dùng thì đường lối trị bình trong nước mới có được”[11].
Đặc biệt, Minh Mệnh còn nghĩ đến cả những người tài vì không quen với sự bó buộc của trường quy mà thi không đỗ, hoặc vì hạn ngạch mà không tuyển được bằng con đường khoa cử…Tức là Minh Mệnh đã nghĩ đến những trường hơp đặc biệt, những trường hợp này vì tự do, vì cá tính mà không theo quy củ nên không thi hoặc thi không đỗ. Ông đã xót xa và nghĩ đến họ: “Vua xuống dụ cho Nội các rằng: “hiện nay trong nước thái bình là đường chính của sĩ tử khoa mục, đã mở khoa tuyển chọn rồi, ngoài ra lại có cống hiến người hằng năm, bổ làm giám sinh và tú tài để sung vào giáo chức. Sự trừ súc lấy nhân tài làm trước nên lại nghĩ đến kẻ ở cửa sài nhà tranh, có người vốn theo nghề học muốn do khoa cử tiến thân, lại vì trường quy bó buộc, không khỏi lao đao nơi trường thi. Cũng có kẻ học tập biết viết, biết tính, muốn vào các nhà làm, thì lại bị lệ ngạch hạn chế, rồi đến phải chìm đắm nơi đồng ruộng, hạng người này không phải ít”[12].
Ông nhìn ra những loại người tài mà không đi bằng hoặc không qua con đường khoa cử rất nhiều. Sự nhấn mạnh nhiều lần loại người này chứng tỏ ông có sự lưu tâm, đặc biệt chú trọng và coi trọng loại người này, nó như là một sự ám ảnh thường trực nơi ông.
Ông luôn đau đáu tìm cách có được người tài, nhưng ông cũng luôn băn khoăn suy nghĩ làm thế nào để có thể tìm kiếm được người tài thông qua tiến cử một cách thực chất, vì ông lo vàng thau lẫn lộn: “Trẫm muốn gấp dùng người tài, mà vẫn lo khó biết người, khoa đạo thường chầu ở hai bên, tiến cử cũng đã khả quan nhưng người hiền tài hay không chưa hay biết tường tận được. Muốn thử bằng lời nói, thì kẻ khéo biện luận thường nói quá sự thực, mà kẻ thành thực chất phác thường lại vụng lời nói, bằng vào đấy mà dùng hay bỏ, liệu không sai được chăng? Ngươi nên xét ai có thể dùng được thì đề cử lên”.[13]
“Người làm việc quan là do năng lực của anh ta”
Minh Mệnh nói rất rõ rằng, làm quan được xuất phát từ chính năng lực của anh ta. “Vua xuống dụ rằng:“Lập thành chính trị cần được người giỏi, mà sự cầu nhân tài không chỉ một cách nào. Kinh Thư nói: “Cử người làm được việc quan là do năng lực của anh”, đó là nói tiến người hiền lên vua dùng là chức vụ của kẻ đại thần vậy. Trẫm từ khi lên chấp chính đến nay, bên văn thì thi cử, bên võ thì tuyển chọn, lần lượt cử hành, đường lối cất nhắc nhân tài không phải là không mở rộng.Nhưng lại nghĩ đến người có tài năng hoặc còn chìm đắm ở những chức bên dưới, mà chưa xuất hiện được”. Bèn hạ lệnh ở kinh, bên văn thì thượng thư cử người khả kham làm hiệp trấn, tham tri cử người khả kham làm tham hiệp, thị lang cử người khả kham làm tri phủ, lang trung cử người khả kham làm tri huyện, huyện thừa. Bên võ thì chưởng doanh cử người khả kham làm vệ úy, đô thống thống chế cử người khả kham làm phó vệ úy quản cơ, thân binh, cấm binh, quản vệ cử người khả kham làm phó quản cơ, thành thủ úy, mỗi hạng một người. Người được cử không kể bị can phạt, giáng chức về việc công, cử khả kham làm được việc là chuẩn cho đề cử. Giám sinh (học trò nhà Giám) có học thức cũng cho phép giám thần (quan trong nhà Giám) xét cử lên”.[14]
Thưởng và phạt
Về việc thưởng phạt Minh Mệnh cũng rất rõ ràng và sòng phẳng: “Trẫm cũng muốn làm như thế, nhưng lại nghĩ giữ quyền quốc gia chỉ có thưởng với phạt; nay kẻ bị cách chức vừa mới có tội phải truất bỏ, mà lại đem ra dùng thi chúng lại lên mặt mà bảo nhau rằng: người có tư cách đời nay tuy bị bãi chức rồi lại được làm, rồi đến chỗ chúng bắt trước nhau, sợ không có cách nào dẹp được”[15].
Tìm kiếm và tưởng thưởng người trác dị
Minh Mệnh không chỉ khát khao ngày đêm tìm kiếm người có năng lực làm việc quan, ông còn khát khao tìm kiếm và tưởng thưởng người trác dị, từ này do chính ông dùng, được Quốc sử quán chép lại trong Minh Mệnh chính yếu. Trác dị, theo như giải thích của Quốc sử quán nhà Nguyễn là “đặc biệt hơn người”. Minh Mệnh năm thứ tám, quyển 4, “Định ra lệ trác dị cấp kỷ. Vua xuống dụ rằng: “Sự gia cấp kỷ lục (ghi chép) là để tưởng thưởng khuyến khích người có công, trước nay lệ gia cấp bậc và ghi công đặc biệt, chưa từng bàn đến. Khi giao cho đình thần bàn định thêm thì đều cho là người trác dị (đặc biệt hơn người) tất phải có công nghiệp hành chính đối với dân xuất sắc hơn, người ấy chưa dễ thường có. Duy có người làm chính công bằng, xử kiện đúng lý, giữ không có trộm cướp, dân được yên ổn, làm quan có tiếng tốt, thì nên thưởng để khuyên người có công, là việc không thể thiếu được”[16].
Như vậy, Minh Mệnh song song với tìm kiếm người tài bằng hình thức khoa cử, ông đặc biệt chú trọng và dành một sự ứu ái đặc biệt đối với những người được tiến cứ, tức không qua khoa cử. Ông hiểu rất rõ những cái hạn chế của chế độ khoa cử, ông thấu hiểu những người ở ẩn và không tiến thân bằng con đường khoa cử, ở một ý nghĩa nào đó ông trân trọng và chia sẻ với những người ưu tích tự do, không thích bó buộc và cả những người cá tính. Trong đó, ông mong ngóng và khát vọng ghi công đặc biệt cho những người trác dị. Hẳn phải là ông vua trác dị mới khát vọng tìm kiếm những người đồng điệu trác dị. Nhưng như chính ông nói, người trác dị chưa dễ thường có.
Điểm đặc biệt đáng chú ý là, Minh Mệnh đã không đặt niềm tin vào hệ thống (tức hệ thống khoa cử) mà ông chuyển hướng đặt niềm tin vào con người. Một sự chuyển hướng trọng yếu, không chỉ tạo ra sự khác biệt giữa Minh Mệnh với các hoàng đế khác mà còn là cơ sở trọng yếu tạo ra những người trác dị kiểu Nguyễn Công Trứ xuất hiện.
3. Ứng xử của Minh Mệnh với Nguyễn Công Trứ nhìn từ tiêu chí của ông vua trác dị ứng xử với Nguyễn Công Trứ trác dị.
Người trác dị dùng người trác dị vào những việc đặc biệt, công việc hệ trọng, những việc mà người thường không làm được nhưng người trác dị làm được. Minh Mệnh đã đặc biệt thành công trong việc dùng Nguyễn Công Trứ vào những công việc kiểu như vậy.
Dùng người trác dị vào việc dẹp loạn.
Trong giai đoạn Minh Mệnh chấp chính, do đất nước mới thống nhất nên giặc giã nổi lên ở nhiều nơi trên khắp cả nước, trong đó nổi bật và nguy cấp là: Giặc Phan Bá Vành, giặc Quảng Yên và giặc Nông Văn Vân. Giặc Phan Bá Vành ở Nam Định. Giặc Quảng Yên ở các đảo ven biển và giặc Nông Văn Vân ở miền núi phía Bắc. Đây cũng là những tên giặc đầu sỏ, hoành hành làm cho Minh Mệnh đau đầu, ăn ngủ không yên. Thú vị là, Minh Mệnh biết rõ Nguyễn Công Trứ là văn quan nhưng lại dùng ông với vai trò võ tướng dẫn đầu hoặc cùng dẫn đầu tiêu diệt nhưng giặc đảng nguy hiểm, khó đánh bắt được. Việc dùng văn quan cùng với vàdẫn đầu võ tướng là một cái nhìn đặc dị và cách dùng người đặc dị, có lẽ của những người trác dị, và vì thế Minh Mệnh cũng thành công đặc biệt và Nguyễn Công Trứ cũng tỏ ra là người trác dị, khi mà ông gạt bỏ được mối lo của Minh Mệnh, tạo ra môi trường ổn định, thống nhất trong nước. Vì công lao trác dị này, Minh Mệnh đã triệu Nguyễn Công Trứ về triều và có những hành động ban thưởng cũng hết sức trác dị, chúng ta hãy theo dõi sử quan nhà Nguyễn chép: “Đạo Tuyên Quang dùng kế hỏa công, Vân bị chết cháy. Tin thắng trận tâu lên. Vua hạ lệnh cho quân ba đạo hát khúc thắng trận về kinh. Trứ vào trước thềm ra mắt vua. Vua thân rót rượu ban cho để tỏ lòng yêu quý đáp công. Lại thường cho các đồ chơi quý báu; ấm thự cho một người con Trứ làm Hiệu úy cẩm y”[17].
Hành động rót rượu là một kiểu ứng xử đặc biệt dành cho Trứ, tưởng thưởng cho các đồ chơi quý báu (thuộc về chức năng chơi, biểu trưng hơn là giá trị vật chất) cũng là những kiểu đồ chơi không bình thường, đặc biệt. Và trác dị hơn nữa, là Minh Mệnh ấm thự cho người con Nguyễn Công Trứ. Một kiểu ứng xử tưởng thưởng cũng trác dị mà Minh Mệnh dành cho ông khi lập đại công.
Dùng người trác dị vào việc khẩn hoang
Minh Mệnh không chỉ thành công trong dùng Nguyễn Công Trứ với tư ách văn quan dẹp loạn ở vùng biên viễn, ông còn trác dị thể hiện ở việc dùng Nguyễn Công Trứ khai hoang, mở rộng lãnh thổ, thu thuế và ổn định lưu dân cho đế chế.Không chỉ thành công trong khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, quan trọng hơn nữa Nguyễn Công Trứ còn quy tụ và thu phục được lưa dân, lưu tán đang thất nghiệp ở khắp nơi về lập làng lập ấp. Không chỉ ổn định, tránh bạo loạn từ đám lưu dân này, khi lưu dân ổn định, đế chế còn nguồn lợi khác là thu thuế cho đế chế. Đánh giá về công lao của Nguyễn Công Trứ, Quốc sử quán nhà Nguyễn ghi nhận công lao của Nguyễn CôngTrứ một cách xác đáng: tạo ra mối lợi vĩnh viễn: “tỏ sức ở chiến trường, nhiều lần lập được công chiến trận. Buổi đầu Trứ lĩnh chức Doanh điền, sửa sang mới có trong một năm mà các việc đều có đầu mối, mở mang ruộng đất, tụ họp lưu dân, thành ra mối lợi vĩnh viễn”.[18]
Như vậy, mối lợi vĩnh viễn mà Trứ tạo ra cho đế chế gồm rất nhiều việc ông đã làm nhưng nổi bật là hai việc dẹp loạn và khẩn hoang. Bởi dẹp loạn nó tạo ra sự ổn định, bảo vệ tính quyền uy duy nhất của nhà Nguyễn mà Minh Mệnh là Hoàng đế và khai hoang không những mở rộng đất cho đế chế, còn thu thuế và đặc biệt ổn định lưu dân, giúp chống nổi loạn. Tất cả những việc làm này, hoàn toàn phù hợp thậm chí vượt qua tiêu chí của người trác dị mà minh mệnh hằng tìm kiếm.
Trác dị trong thưởng phạt, thăng giáng, luân chuyển
Nhìnvào diễn biến quan nghiệp của Nguyễn Công Trứ, dễ dàng phát hiện vô số khía cạnh bất thường, khác thường. Qua đó, có thể thấy tính bất thường trong ứng xử của Minh Mệnh đối với Nguyễn Công Trứ. Trước hết, tính bất thường trong thăng giáng.Nếu sơ đồ hóa nó như là hình lướt sóng, tức kiểu hình sin cứ lên lại xuống, cứ xuống lại lên. Tính bất thường của nó là nó không lên thượng đỉnh hẳn, cũng không lên một chiều, nó cũng không xuống đến đáy, tất nhiên có lúc cũng xuống đến cấp bậc thấp như Tri huyện Kinh. Nhưng sau đó lại thăng.Tính chất hình sin là đặc điểm nổi bật trong ứng xử của Minh Mệnh dành cho Nguyễn Công Trứ. Đặc điểm của hình sin này là: giữ thăng bằng trong khuông khổ và nằm trong tầm kiểm soát và không ở vị trí nào quá lâu, không bị giáng chức ở lâu vị trí nào mà thường giáng là thăng ngay. Tính ý đồ trong thăng giáng là hết sức rõ ràng.Giữ cho Nguyễn Công Trứ không theo một đường thẳng, hoặc không lên quá cao, hoặc không xuống quá thấp, tức không cực đoan hóa theo một định hướng nào phải chăng là dụng ý sâu xa trong ứng xử của Nguyễn Công Trứ với Minh Mệnh. Làm như vậy, Nguyễn Công Trứ vẫn vừa cống hiến cho nhà Nguyễn, nhưng lại giúp Minh Mệnh an toàn khi Nguyễn Công Trứ không đủ thời gian và tầm ảnh hướng để có thể quy tụ được một lực lượng đủ lớn để tạo thế đối trọng (nếu có), đồng thời, làm cho tính chất ổn định của Nguyễn Công Trứ luôn thay đổi.
Tính chất bất thường còn thể hiện ở việc ông liên tục được Thự (kiêm nhiệm) và luân chuyển qua nhiều vị trí khác nhau với công việc không giống nhau và ở những vùng miền khác nhau. Mặt khác, trong thưởng phạt cũng chứa nhiều điều không bình thường, phạt cũng có lúc rất nặng, nhưng như sử quán nhà Nguyễn chép, giáng lại thăng ngay và nhiều lúc thăng sửquán không biết lý do Minh Mệnh thăng là gì? Nó như là một kiểu dạng thức ứng xử riêng với người trác dị, tức nó theo lô gic của những người trác dĩ, duy họ mới hiểu ứng xử của nhau, nó ra ngoài khuôn khổ và người thường không hiểu được căn nguyên sâu xa của nó. Những món quà, mang tính đồ chơi cũng là một sự lạ, cả việc cho tiền, rỉ tai, cho bác sĩ riêng….cũng là những điểm không bình thường của Minh Mệnh dành cho Nguyễn Công Trứ, có lẽ chỉ có họ, hai người trác dị mới hiểu ý nghĩa và mới cảm được chiều sâu và sự khế ước ngầm trong ứng xử của cặp đôi trác dị này.
4. Những ứng xử trác dị Nguyễn Công Trứ dành cho Minh Mệnh
Tạo ra “mối lợi vĩnh viễn” cho Minh Mệnh
Ứng xử khác thường tức là những ứng xử vượt trội, đặc biệt đột biến hoặc đặc biệt xuất sắc mà người khác không làm thế hoặc không ứng xử được, được hiểu là ứng xửtrác dị. Điều dễ nhận ra nhất mà chính Quốc sử quán nhà Nguyễn đã tổng kết, ứng xử trác dị lớn nhất, lừng danh nhất của Nguyễn Công Trức dành cho Minh Mệnh là đã tạo ra mối lợi vĩnh viễn cho Minh Mệnh và đế chế Nguyễn dựa trên hai nền tảng và thành tựu cơ bản của ông là dẹp giặc loạn: Phan Bá Vành, giặc Quảng Yên và đặc biệt là Nông Văn Vân và thứ hai là khẩn hoang và ổn định lưu dân, khẩn hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải. So với các tiêu chí về người trác dị Minh Mệnh nêu ra thì những thành tựu mà Nguyễn Công Trứ đã làm được vượt xa tiêu chí của người trác dị mà Minh Mệnh hằng mong mỏi.
Không oán thán, không làm phản là ứng xử trác dị thứ hai Nguyễn Công Trứ dành cho Minh Mệnh
Mặc dù mang lại mối lợi vĩnh viễn cho đế chế nhưng Nguyễn Công Trứ nhận được ứng xử cũng hết sức “trác dị” mà Minh Mệnh dành cho ông. Liên tục thăng, lại giáng, giáng lại thăng, có lúc đang ở đỉnh cao quyền lực giáng Tri huyện Kinh. Hay nói như nhà nghiên cứu Lê Thước ân mọn oai lớn. Nhưng ứng xử của Nguyễn Công Trứ cũng hết sức khác thường. Ông vẫn một lòng cống hiến phục vụ Minh Mệnh và đế chế đúng nghĩa đến hơi thở cuối cùng, khi đã già còn xin Tự Đức cho đi đánh Pháp. Không những thế, bị giáng liên tục, thậm chí bị giáng nặng hơn so với những sai lầm, nhưng ít thấy ở ông một sự phẫn uất, bất mãn (ít nhiều có). Đặc biệt, nó không đẩy Nguyễn Công Trứ cực đoan theo hướng về ở ẩn hoặc theo hướng trở thành lực lượng đối lập.Hẳn đó cũng là ứng xử khác thường mà Nguyễn Công Trứ dành cho Minh Mệnh.
5. Tổng luận về sự tương tác giữa Minh Mệnh và Nguyễn Công Trứ với tư cách là một cặp đôi trác dị.
Minh Mệnh – người “mở đường” cho Nguyễn Công Trứ đến với tự do cá nhân và phát triển cá tính
Như phần trên chúng tôi đã chỉ ra và nhiều nhà nghiên cứu đã đồng thuận, đến Nguyễn công Trứ đã hình thành tự do cá nhânvà dần hình thành một kiểu văn hóa cá tính[19]. Văn chương và ứng cử của phong lưu danh sĩ Nguyễn Công Trứ là minh chứng sinh động của một kiểu tự do trong lòng thiết chế chuyên chế.
Cần thiết nhắc lại rằng, về lý thuyết và cả trong thực tế không có sự xuất hiện tự do cá nhân trong lòng thiết chế chuyên chế, bởi thiết chế chuyên chế về một khía cạnh bản chất là phi tự do John Stuart Mill viết: “Ngay cả chế độ chuyên chế cũng không gây ra những ảnh hưởng tồi tệ nhất của nó miễn là tính cá biệt vẫn tồn tại dưới chế độ đó; và bất cứ cái gì bóp chết tính cá biệt đều là chuyên chế, dù cho nó được gọi là tên gì”[20]. Nếu có tự do và đứng bên trên mọi luật pháp, quy tắc ứng xử, một cách tương đối đó là một nhân vật duy nhất là Hoàng đế. Đồng thời, với tư cách là cái lõi của tự do cá nhân, cá tính một mặt là phẩm chất cá nhân, một mặt là kết tinh của tự do cá nhân. Cũng có nghĩa là không có cơ hội xuất hiện và phát triển trong lòng thiết chế chuyên chế. Vậy tại sao đến Nguyễn Công Trứ tự do cá nhân và cá tính Nguyễn Công Trứ được thể hiện ở ở thời đại đại chuyên chế nhà Nguyễn với ông vua hà khắc Minh Mệnh.
Câu trở lời cho sự bất thường này ngoài lý do chủ quan là tài năng, khát vọng và cá tính Nguyễn Công Trứ thì một điều kiện không thể thiếu đó là cơ chế, hay một cái ô bảo trợ cho sự xuất hiện đó là gì? Thời đại chuyên chế Nguyễn không hoặc chưa đủ điều kiện cho tự do cá nhân và văn hóa cá tính xuất hiện. Vì thế, Nguyễn Công Trứ là trường hợp đặc biệt, mang tính cá biệt, không mang tính đồng loạt. Như vậy, đế chế và người đứng đầu của nó, chỉ tạo điều kiện cho một trường hợp cá biệt trác dị Nguyễn Công Trứ có cơ hội phát triển cá tính và tự do cá nhân.
Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng đặc dị này, như chúng tôi đã chỉ ra ở trên, chính là Minh Mệnh – người mở đường cho tự do cá nhân và cá tính Nguyễn Công Trứ xuất hiện và phát triển. Cụ thể hơn có nghĩa, chính định hướng quyết liệt tìm kiếm người ngoài khoa cử, tức không qua thi cử (đương nhiên Nguyễn Công Trú qua thi Hương đỗ thủ khoa), thông qua tiến cử và đặc biệt là chính sách tưởng thường và ưu đại đặc biệt dành cho người “trác dị” là đường hướng mở đường cho những kiểu người như Nguyễn Công Trứ có cơ hội phát triển tự do và cá tính phát triển. Theo chúng tôi, đó là cội nguồn về cơ chế, môi trường văn hóa và môi trường chính trị cho phép kiểu ứng xử và kiểu văn chương tự do đầy màu sắc cá tính, chơi cười, giễu, bỡn, say của Nguyễn Công Trứ được xuất hiện và phát triển.
Nguyễn Công Trứ - người “nhận đường” đến với tự do cá nhân và phát triển cá tính.
Thông qua những phân tích ở trên, có thể nhận thấy Nguyễn Công trứ đã đặc biệt hiểu, chia sẻ và tương tác với Minh Mệnh. Bằng chứng của sự tương tác này là ông đạt được thành tựu đặc biệt xuất sắc như mong muốn của Minh Mệnh về người trác dị, tạo mối lợi vĩnh viễn cho Minh Mệnh và đế chế. Hẳn Nguyễn Công Trứ cũng thấu hiểu những lần bị giáng cách nhưng ngay sau đó là thăng, và ông cũng rất hiểu nhiều lần một Minh Mệnh tuân theo phép tắc lại thăng ông không có lý do, và hình thức tưởng thưởng: thưởng tiền đột xuất, cho đồ chơi, ấm thự cho con của Nguyễn Công Trứ... Đặc biệt, tính chất hô ứng nhận đường, nhận tín hiệu từ Minh Mệnh của Nguyễn Công Trú thể hiện rất rõ quan hai mảng văn chương trong và ngoài lăng miếu[21]. Mảng văn chương trong lăng miếu mang thể dạng của đại thần mực thước, tuân thủ và chỉnh chu. Nhưng bộ phận văn chương ngoài lăng miếu lại đối lập hoàn toàn với bộ phân văn chương trong lăng miếu. Thông hiểu này rõ ràng được Nguyễn Công Trứ ý thức rõ ràng, phận sự đại thần và phục vụ đế chế Nguyễn Công Trứ vẫn luôn hoàn thành và hoàn thành đặc biệt xuất sắc, đương nhiên Minh Mệnh đặc biệt hài lòng. Khi đã hoàn thành phận sự đại thần, đóng góp đặc biệt cho đế chế, Minh Mệnh đã mở ra một con đường để Nguyễn Công Trứ đến với tự do cá nhân và phát triển cá tính. Nguyễn Công Trứ đã rất hô ứng với điều này, dấu hiệu giải thích cho sự hô ứng này rất hợp lý là ông đã rất chuyên biệt trong tư cách đại thần ở trong triều và đã rất phi đại thần trở thành hình ảnh phong lưu danh sĩ khi ngoài lăng miếu, đặc biệt thú vị là, văn chương trong lăng miếu hình ảnh Minh Mệnh mang đậm tính ngợi ca thì trong văn chương ngoài lăng miếu vắng bóng hình ảnh Minh Mệnh. Nhưng có lẽ đặc biệt nhất và thú vị nhất là, sở dĩ Minh Mệnh mở ra và không thổi còi đối với Nguyễn Công Trứ ở ngoài lăng miếu và Nguyễn Công Trứ ý thức triệt để việc đó là tự do cá nhân và cá tính Nguyễn Công Trứ không trực tiếp công phá và làm ảnh hưởng, tổn hại đến hình ảnh hoàng đế Minh Mệnh và đế chế. Nguyễn Công Trứ có giễu nhưng cao nhất là giễu quan đại thần, mà không dám trực tiếp giễu, bỡn Hoàng đế. Cả Minh Mệnh và Nguyễn Công Trứ đều khế ước với nhau và đó là bí mật của sự xuất hiện trường hợp tự do cá nhân và đặc thù cá tính với tư cách là trường hợp cá biệt xuất hiện, phát triển và thăng hoa ở thời Nguyễn Minh Mệnh.
KẾT LUẬN
Như vậy, tư tưởng về người trác dị, tìm kiếm người phi khoa cử và đánh giá thấp vai trò của khoa cử, và kiến tạo một cơ chế đặc dị cho người trác dị là đặc sắc, ghi dấu tầm vóc của Minh Mệnh. Vậy tại sao ông lại nghĩ khác các vị vua các triều đại trước, cội nguồn sâu xa của nó là gì? Có lẽ, để trả lời cần có một sự khảo luận kỹ càng nhưng có lẽ hợp lý nhất là, Minh Mệnh đặc biệt ý thức về tính chất địa chính trị và địa văn hóa của việc kiến tạo quốc gia mình, ông đã nói trước văn võ bá quan rằng: Quốc gia ta xây dựng nền tảng ở phương Nam[22], phải chăng, chính cái nền tảng Phương Nam đó khiến ông có cái nhìn mang tính Phương Nam, tức khai mở, khai phóng hơn về cách thức tìm kiếm và sử dụng người tài. Và thú vị hơn nữa là, một giai xứ Nghễ ngồn ngộn phẩm chất lại được tung hoành ở một nền tảng quốc gia phương Nam Nguyễn Công Trứ, tức tính chất khai phong, khai mở của tinh thần Phương Nam không chỉ là cơ sở nền tảng giúp Nguyễn Công Trứ thể hiện và xúc tác cho cá tính của ông thăng hoa, mà nhiều dấn ấn của phương Nam khai mở kết tinh trong cả ứng xử và văn chương nơi ông.
Để kết luận cho bài viết này, tôi xin dẫn lại câu nói của John Stuart Mill trong On Liberty: “Giá trị của một quốc gia, về lâu dài, chính là giá trị của những cá nhân tạo nên quốc gia đó”. Nguyễn Công Trứ và cả Minh Mệnh đều xứng đáng là những giá trị của quốc gia vì họ tạo nên quốc gia đó về lâu dài. Ngày nay, chúng ta cần nhiều hơn nữa những Nguyễn Công Trứ và cần thiết hơn là phải đi tiếp những khía cạnh mà Nguyễn Công Trứ chưa đi vì chưa có điều kiện đi hoặc vì những lý do chủ quan và khác quan khác và cần thiết hơn nữa là những vị đứng đầu với nhiều khía cạnh sáng suốt như Minh Mệnh: chuyển trọng tâm từ cái nhìn hệ thống sang trọng tâm cái nhìn về con người!
[1] Chữ dùng của giáo sư Trần Đình Sử
[2]Trác dị là chữ của Minh Mệnh dùng chỉ những người đặc biệt xuất sắc.
[3]Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Nxb Văn học, 2016, tr. 342.
[4] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 2, Nxb Đồng Tháp, 1997, tr. 498-499
[5] Dẫn theo, Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, Nxb Nghệ An, 2008, tr. 472
[6] Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 2, Nxb Đồng Tháp, 1997, tr. 498-499
[7]Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn học, 2016,, tr. 343.
[8]Dẫn theo Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn học, 2016, tr. 348-349
[9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, quyển 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, năm 1994, Tr. 183.
[10] Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, tập 1, Nxb Thuận Hóa Huế 1994, tr. 161.
[11]Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, quyển 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, năm 1994, Tr 161.
[12]Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, quyển 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, năm 1994, Tr. 163
[13]Việt Nam sử lược, Sđd, tr. 159-160
[14]Việt Nam sử lược , Sđd, tr. 157-158
[15]Việt Nam sử lược,Sđd, Tr. 157
[16]Việt Nam sử lược, Sđd, Tr. 174
[17]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Nxb Thuận Hóa, 2014,tr. 290.
[18]Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Nxb Thuận Hóa, 2014, tr. 457
[19] Đã dẫn chữ dùng của giáo sư Trần Đình Sử
[20] On Liberty, Bàn về tự do, chương 3.
[21] Trong lăng miếu là văn chương trong triều đình, thuộc về triều đình. Văn chương ngoải lăng miếu là văn chương của Nguyễn Công Trứ ngoài triều đình, sáng tác tự do theo xúc cảm cá nhân.